Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
Trên
thế giới có đến 6.900 ngôn ngữ khác nhau bao gồm ngôn
ngữ chính thức và các thổ ngữ. Trung Hoa và Ấn Độ là
hai quốc gia rộng lớn và đông dân. Trung Hoa có từ 400
đến 500 thổ ngữ khác nhau. Ấn Độ có 2.000 thổ ngữ.
Hiến pháp Ấn Độ phải ấn định tiếng Hindi và tiếng
Anh là ngôn ngữ chánh thức được lưu dùng trong nước.
Phi Luật Tân là quần đảo có trên 7.000 hòn đảo diện
tích lớn nhỏ khác nhau. Họ có 13 ngôn ngữ lưu dùng
trong nước. Quan trọng nhất là tiếng Tagalog. Ngoài ra còn
có 171 thổ ngữ khác nhau được nói ở các địa phương
rải rác khắp các quần đảo. Trường hợp Indonesia cũng
có những phức tạp ngôn ngữ tương tự. Ở Indonesia có
583 ngôn ngữ và thổ ngữ. Tiếng Javanese được 85 triệu
người nói.
Cùng sống chung trong một quê hương
nhưng ngôn ngữ khác nhau nên sự thông hiểu và hòa hợp
với nhau cũng có ít nhiều trở ngại. Trung Hoa là quốc
gia có quá khứ lịch sử lâu đời. Họ có chữ viết
nhưng cách đọc khác nhau vì mỗi vùng lãnh thổ có tiếng
nói riêng. Cuộc cách mạng văn hóa Trung Hoa ra đời không
đầy một thế kỷ sau khi Hu Shi (Hồ Thích), tốt nghiệp
đại học ở Hoa Kỳ, và Chen Duxiu (Trần Độc Tú), tốt
nghiệp đại học ở Nhật và Pháp về nước. Đến khi
Mao Zedong (Mao Trạch Đông) thành lập Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc năm 1949, tiếng Quan Thoại (Mandarin) ở miền
Bắc được xem là tiếng thống nhất của lục địa
Trung Hoa.
Ở điểm này người Việt Nam khoan vội
tự hào vì giữ được tiếng nói, mặc dù không có chữ
viết sau trên 1.000 năm bị người Trung Hoa đô hộ, vì
người Việt như những tộc trong nhóm Bách Việt (Po Yue)
ở phía nam sông Yang Tze (Dương Tử) học chữ Hán nhưng
phát âm theo ngôn ngữ của tộc mình. Các nhà nho Việt
Nam đọc và hiểu chữ Hán nhưng không thể đàm thoại
với người Hoa. Nhà cách mạng Phan Bội Châu (Sào Nam) chỉ
bút đàm khi đàm đạo với Leang Ki-chao (Lương Khải Siêu)
hay Sun Yat-sen (Tôn Dật Tiên). Tiếng
Việt nguyên thủy bắt nguồn từ người Mường không
liên hệ với ngôn ngữ Môn-Khmer. Người Mường là tác
giả của trống đồng, những chuyện cổ tích Việt Nam
và là những người rút vào rừng sâu để trường kỳ
kháng chiến chống Bắc xâm. Những Động Khuất Liêu,
Động Hoa Lư, Động Lam Sơn như nhắc nhở chúng ta về
liên hệ Mường của dân tộc. Không phải không duyên cớ
mà Ngô Sĩ Liên đề cao người Mường trong Đại Việt Sử
Ký, một cuốn sử có giá trị được soạn thời Hậu
Lê.
Sau 11 thế kỷ Bắc thuộc trong ngôn ngữ
Việt có rất nhiều chữ Hán. Tiền nhân chúng ta học chữ
Hán. Các kỳ thi tam trường đều được mô phỏng theo
Trung Hoa. Chữ Hán được các thầy Đồ (sinh đồ: tú
tài) giảng dạy ở các tư thục tại gia, được dùng
trong các kỳ thi, trong các tấu, sớ của triều đình và
văn thơ hành chánh trong nước. Bên cạnh những từ
ngữ nôm có thêm từ ngữ Hán-Việt phát âm giống
tiếng Guangdong (Cantonese - Canton - Kuangchou - Guangzhou, Quảng
Châu, thủ phủ của tỉnh Guangdong) đại cương như:
Việt
|
Hán-Việt
(phần
lớn là âm theo tiếng Quảng Đông) |
Vua
Một Hai Ba Bốn Ngày Thịt Bò Trâu Trời Đất Con Trước Sau |
Vương
Nhất Nhị Tam Tứ Nhật Nhục Ngưu Thủy Ngưu Thiên Địa Tử Tiền Hậu v.v… |
Một
số từ ngữ Trung Hoa liên quan đến thức ăn hay cờ bạc
được Việt hóa và dùng trong đời sống hàng ngày
như hoành
thánh, dầu cháo quảy, bánh bao, xá xíu, bò bía, tài xỉu
(đại tiểu), dì dách, xập xám v.v…
Hầu
hết các từ kép, từ chánh trị, luật học, y khoa, dược
học, toán học, âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, tôn
giáo, lịch sử, địa lý, địa chất học... đều có gốc
Hán–Việt. Ông Hoàng Xuân Hãn soạn ra Danh Từ Khoa Học
bằng tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp bằng cách tìm
những từ ngữ Hán-Việt tương đương. Ông là nhà Tây
học nhưng biết chữ Hán. Tên khoa học của thảo mộc
trên thế giới được mang tên La Tinh và Hy Lạp. Tên dược
thảo ở Đông Phương đều có tên chữ Hán hay tiếng
Hindi, Sanskrit.
Đạo Phật có ảnh hưởng rộng
rãi ở Việt Nam. Nhưng Phật Giáo Đại Thừa ở Việt Nam
do các sư tăng Trung Hoa truyền giảng. Kinh Phật được
viết bằng chữ Hán. Các bài chú bằng tiếng Sanskrit được
các sư tăng Trung Hoa âm trại ra. Do đó trong ngôn ngữ
Việt Nam không có nhiều từ xuất phát từ tiếng Hindi.
Sidharta âm thành Tất Đạt Ta; Sakya Muni (nhà hiền triết
tộc Sakya) trở thành Thích Ca Mâu Ni; Nirvana: Niết Bàn;
karma: nghiệp chướng; bodhi: cây Bồ Đề; Mahayana: đại
thừa; Hinayana: tiểu thừa v.v…
Trong quá trình
Nam tiến Tiếng Việt được phong phú hóa nhờ tiếp xúc
với người Chăm thuộc văn hóa Ấn Độ và Hồi Giáo,
với người Khmer chịu ảnh hưởng của Ấn Giáo rồi
Phật Giáo Tiểu Thừa và nhờ sự né tránh việc dùng tên
vua, chúa, hoàng hậu, các con và thành viên liên hệ đến
hoàng tộc.
Những địa danh Phan Rang, Phan Rí,
Phan Thiết đều có âm hưởng của ngôn ngữ Chăm, một
ngôn ngữ có nhiều liên hệ với ngôn ngữ Ấn Độ và
Sanskrit (Phạn). Quốc hiệu Champa (Chiêm Thành) có nghĩa là
hoa sứ theo tiếng Ấn Độ.
Nhiều địa danh hay
tên gọi ở Nam Kỳ mang âm hưởng của tiếng Khmer như Mỹ
Tho (Mêsa: Bà Trắng), Sa Đéc (Phsar Deck: chợ sắt), Bạc
Liêu (Po-loeuh: cây da cao lớn), Cà Mau (Tuk khmau: nước
đen), thốt nốt (thnot), bình bát (mean bat), xoài (Sway),
muom (muỗm - xoài muỗm) v.v…
Dưới
chế độ phong kiến thảo dân không được nói đến tên
vua, hoàng hậu hay các thành viên trong hoàng tộc. Thí sinh
phạm trường qui tức khắc bị đánh rớt vì đó là một
sự hỗn láo đối với giới cầm quyền tự xem đã nhận
Thiên mạng từ Trời. Từ đó ta có nhiều từ đồng
nghĩa nhưng không đồng âm. Nhân trở thành nhơn; Nghĩa:
Ngãi; Đức: Đước; Phúc: Phước (chữ lót của họ
Nguyễn); Đàm:
Đờm; Hoa: Huê; Hồng: Hường; Nhậm: Nhiệm; Tôn: Tông
v.v... Bà Hồ Thị Hoa, người huyện Bình An, tỉnh Biên
Hòa, là hoàng hậu dưới triều Minh Mạng. Vì
bà tên Hoa nên Cầu Hoa phải đổi thành Cầu Bông; Thanh
Hoa đổi thành Thanh Hóa (thêm dấu); Hoa Kiều đổi thanh
Huê Kiều; Hoa lợi thành Huê lợi v.v... Vào năm 1862 Pháp
chiếm ba tỉnh Nam Kỳ. Trần Tử Ca, một viên chức xã
thôn ở Hóc Môn, ra hợp tác với Pháp, theo đạo Thiên
Chúa và được vào ngạch đốc phủ sứ, một ngạch hành
chánh cao cấp dành cho người bản xứ hợp tác với Pháp
được thiết lập theo lời đề nghị của Tôn Thọ
Tường. Ông được gọi là Phù Ca. Vì ông tên Ca dân
chúng trong vùng Sài Gòn – Gia Định không dám gọi xoài
thanh ca mà gọi ngắn gọn là xoài thanh.
Võ
Trường Toản, một người Minh Hương, được xem là một
đại phu tử ở Nam Kỳ vào thế kỷ XVIII. Người Minh
Hương góp phần đắc lực vào việc khai phá châu thổ
sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhân Tịnh, Lê Quang Định đều là môn sinh của đại phu
tử Võ Trường Toản. Cả ba vị nầy đều là những
người lập nhiều công to khi phục vụ chúa Nguyễn Ánh
trong thời kỳ nội chiến giữa dòng Nguyễn Phúc và nhà
Tây Sơn. Dưới triều vua Minh Mạng, Phan Thanh Giản, một
người Minh Hương khác, đậu tiến sĩ. Ông là người Nam
Kỳ đầu tiên đậu tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Những
nhà nho gốc Minh Hương vừa kể khác với các nhà nho Việt
Nam vì họ biết chữ Hán và phát âm theo người Việt lẫn
người Hoa.
Chữ quốc ngữ La Tinh hóa hiện hành
là công trình nghiên cứu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes
vào thế kỷ XVII để cho việc truyền đạo Thiên Chúa
được dễ dàng. Vào thời nầy chúa Trịnh ở Đàng Ngoài
cấm đạo Thiên Chúa. Người theo đạo bị khắc trên
trán dòng chữ học theo Hòa Lan đạo vì chúa cho rằng đạo
Thiên Chúa là đạo của người Hòa Lan. Thực tế người
Hòa Lan theo đạo Tin Lành. Họ nặng về việc kinh thương
hơn truyền đạo như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và
Pháp. Vì chúa Trịnh cấm truyền giảng đạo Thiên Chúa
nên chữ quốc ngữ chưa phổ biến mạnh trong cộng đồng
giáo dân Thiên Chúa ở Đàng Ngoài. Ở Nam Kỳ giáo sĩ
Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) giảng đạo Thiên Chúa ở
vùng Hòn Đất, Hà Tiên vào thế kỷ XVIII. Chữ quốc ngữ
được phổ biến cho giáo dân vùng Vịnh Xiêm La (Vịnh
Thái Lan bây giờ). Giáo sĩ Pigneau de Behaine tìm cách vận
động với triều đình Pháp thời vua Louis XVI giúp đỡ
cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Nếu Nguyễn Ánh thành
công, Pháp có ảnh hưởng tôn giáo lẫn kinh tế-chánh trị
quan trọng ở Việt Nam.
Năm 1862 rồi 1867 Pháp
chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa để làm bàn đạp chiếm
Bắc và Trung Kỳ. Chữ quốc ngữ được giảng dạy cùng
Pháp ngữ trong các trường học do Pháp thành lập ở Nam
Kỳ. Các giáo dân là những người Việt Nam đầu tiên
biết chữ quốc ngữ và Pháp ngữ. Pétrus Trương Vĩnh Ký,
Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký là nhũng người có
công trong việc viết sách bằng chữ quốc ngữ đầu tiên
ở Việt Nam. Tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của
người Việt Nam do Pétrus Trương Vĩnh Ký thành lập năm
1865 được viết bằng quốc ngữ pha lẫn với Pháp ngữ.
Gia Định Báo không phải là tờ báo hiểu theo nghĩa bây
giờ. Nó được xem như một công báo (Journal Officiel) để
loan tin tức và hoạt động của chánh quyền thuộc địa.
Lê Phát Đạt, ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu, là
tín đồ Thiên Chúa giáo Nam Kỳ biết viết quốc ngữ và
tiếng Pháp. Ông tốt nghiệp Trường Thông Ngôn (Ecole des
interprètes). Trương Vĩnh Ký là một thành viên trong ban
giảng huấn của trường. Nhờ giỏi tiếng Pháp, chữ
quốc ngữ và giàu có,Lê
Phát Đạt được danh hiệu HỌC SĨ và được ban hàm
HUYỆN (Huyện honoraire) nên ông được gọi là Huyện
Sĩ.
Nam
Kỳ là đất thuộc địa do Pháp trực trị. Trung và Bắc
Kỳ là đất bảo hộ. Vua Việt Nam trên danh nghĩa vẫn
còn ảnh hưởng ở Trung, Bắc Kỳ. Hán học bị bãi bỏ
ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1918. Pháp ngữ và
quốc ngữ La Tinh hóa bắt rễ trên hai vùng đất bảo hộ
trước khi các kỳ thi tam trường bị bãi bỏ. Tú Xương
(Trần Tế Xương) cảm thấy mình chẳng những bất toại
trong các kỳ thi tam trường mà còn lỗi thời khi than:
Cái
học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người theo học
chín người thôi.
Người
Pháp du nhập vào Việt Nam từ tôn giáo, âm nhạc, nghệ
thuật, thể thao, kiến trúc, học thuật, khoa học kỹ
thuật, kể cả kỹ thuật đóng giày, nghề hớt tóc, đến
các loại rau cải thức ăn mang từ Châu Âu đến. Kinh
Thánh được dịch ra Việt Ngữ. Chữ Catholicisme dịch
thành đạo Gia Tô. Các địa danh ở Trung Đông như Do
Thái, Syria, Ai Cập, Mesopotamia (Lưỡng Hà Châu) được
phiên âm kể cả tên Đức Chúa Jesus (Giê-Su); giống như
chánh quyền miền Bắc trong thời kỳ đất nước qua phần
phiên âm danh nhân hay địa danh trên thế giới như
Washington thành Oa-Sinh-Tông, Lenin thành Lê-Nin, Stalingrad
thành Xi-ta-lin-gờ-rad, Paris thành Pa-ri, Genève thành
Giơ-neo-vơ, Trotsky thành Tơ-ros-ky v.v…
Khi tiếp
xúc với người Pháp, tiếng Việt bắt đầu có những từ
tiếng Pháp được Việt hóa và lưu dùng như: Ô-tô
(automobile), cùi-dìa (cuillère), cái tách (tasse), xe hủ lô
(rouleau), xe bù-ệt (brouette), rượu vang (vin), bia (bière),
cải xà lách (salade), phô-mai (fromage), bơ (beurre), tốp
(stop), ô-liu (olive), cà-tô-mát (tomate), cải xà lách son
(cresson), cà phê (café), cao su (caoutchouc), thịt cốc-lết
(cotelette), cây láp (arbre), cây dên (bielle), cái mỏ-lét
(molette), bù-lon (boulon), dây lập lồng (fil a plomb), cái
tông-dơ (tondeuse), phim (film), săm (chambre), cái phanh
(frein), phú-lít (police), sen đầm (gendarme), lính săn đá
(soldat), ông ách (adjudant), ông cai (caporal), bà đầm
(dame), bánh mì ba-ghết (baguette), ba-dơ (base), sút (soude),
xà bông (savon), ô-mơ-lét (omelette), hột gà ốp-la (oeufs
sur plat), ba gai (bagarre), làm reo (grève), làm cỏ-vê
(corvée), đậu que (haricot vert), con vẹt (vert – con két
màu xanh lá cây), trái bom (bombe), trái ‘bom’ (pomme), ống
bơm (pompe), trái sơ-ri (cerise), ách (ace) trong bài ‘cắt-tê’
(cartes), cơ (coeur), rô (carreau), bích (pique), ra-gu (ragôut),
bíp-tết (beefsteak – tiếng Anh được người Pháp dùng),
tốp (stop –tiếng Anh được người Pháp dùng bên cạnh
chữ arrêt) v.v…
Có hiện hữu, có thấy vật
mới đặt tên. Dân ta ăn cơm nên chỉ biết lúa gạo. Khi
tiếp xúc với người Pháp mới biết lúa mì, bột mì. Và
bánh làm từ bột mì được gọi là bánh mì. Sự hiểu
biết về địa lý hay chủng tộc học hầu như vắng bóng
nên khi gặp người Phi Châu trong hàng ngũ quân đội Pháp
thì gọi họ là Tây Đen vì họ to lớn như Tây nhưng da
màu đen. Uống rượu có màu đỏ hồng hay trắng-xanh nhạt
được người Pháp gọi là VIN nên gọi là rượu vang.
Khi uống thấy có vị chát lại gọi là rượu chát. Tìm
hiểu biết rượu ấy làm từ nho nên gọi là rượu nho.
Chữ mô-tô chưa xuất hiện khi người Việt Nam thấy
chiếc Motobécane đầu tiên ở Việt Nam. Nghe tiếng nổ
người ta gọi đó là xe ‘bình bịch’. Phi cơ được
gọi đơn giản là máy bay vì nó bay trên trời như chim.
Chiếc tàu chạy trên mặt nước gọi là tàu thủy, đối
ngược với tàu hỏa tức chiếc xe lửa vì nó chạy bằng
than cháy đỏ và phun khói đen nghịt một góc trời. Âm
nhạc mà người Pháp du nhập vào nước ta khác hẳn với
âm nhạc sẵn có trong nước. Nhạc cụ, trống kèn, chập
chỏa khác với đàn gáo, đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh,
ống tiêu, trống cơm... nên có một thời âm nhạc mới
nầy được gọi là ‘âm nhạc cải cách’, ’tân nhạc’.
Nhạc cụ bắt đầu có tên Việt Nam hay tên Việt hóa như
đàn băng-giô (banjo), măng-đô-lin (mandoline), đàn vi-ô-lông
(violon) rồi vĩ cầm, đàn ghi-ta (guitare), Tây Ban Cầm
(guitare espagnole), Hạ Uy Cầm (guitare hawaiienne), kèn
hạt-mô-ni-ca (harmonica – khẩu cầm), đàn ac-cot-đê-ông
(accordeon), pi-a-no (piano – dương cầm), v.v…
Trong
tiếng Việt đã có tiếng Anh ngay dưới thời Pháp thuộc,
nghĩa là trước khi tiếp xúc với người Hoa Kỳ. Từ ngữ
tiếng Anh Việt hóa phần lớn là những từ ngữ liên
quan đến các bộ̣ môn thể thao như banh (ball), cọt-ne
(corner), bê-nanh-ty (penalty), giữ gôn (goal keeper), tơ-nít
(tennis), đánh bốc (boxing – quyền Anh), nốc ao(knoct out),
nóc đao (knock down), banh bong (pingpong - bóng bàn), bóng rổ
(basket ball), vô-lây (voley ball – bóng chuyền) v.v... Trẻ
em chơi đánh, tù, tì (one, two, three). Trong thức ăn có
bánh xăng-quít (sandwich), bíp-tết (beefsteak), rượu quít-ky
(whisky), v.v…
Tiếng Việt văn vẻ và đầy chữ
Hán, Nga ngữ và các ngoại ngữ khác từ khi Lin, tức
Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau nầy thụ huấn ở
Liên Sô về Hồng Kông lập ra Đảng Cộng S̉ản Việt
Nam (1930). Những từ bình dân, tư bản chủ nghĩa, xã hội
chủ nghĩa, cộng sản, bôn-sê-vít (Bolsheviks), men-sê-vít
(mensheviks), lô-gic (logique), phạm trù (norme), abc
(anti-bolchéviste), tư sản, trí thức tiểu tư sản (Petit
bourgeois intellectuel), trí, phú, địa, hào, dân chủ, bình
đẳng, bình quyền, vô sản, tư hữu, nhân sinh quan, thế
giới quan, khách quan lịch sử, chủ quan lịch sử, duy vật
biện chứng, giai cấp đấu tranh, giải phóng, mặt trận,
liên đoàn, liên minh, đồng minh, thực dân, phong kiến,
phát xít... được lập đi lập lại gần như hàng ngày
sau cách mạng tháng 08 ở nông thôn. Từ ‘thanh niên’
thay thế cho trai tráng, ‘phụ nữ’, ‘lão ông’, ‘lão
bà’ thay vì đàn bà, đàn ông, bà già; ‘nhi đồng’
thay vì trẻ em, con nít. Khi hỏi tuổi người ta nói: “Anh
được bao nhiêu niên kỷ?”. Trong vùng Việt Minh kiểm
soát trong chiến tranh Việt-Pháp có nhiều thay đổi đột
ngột trong chánh tả Việt ngữ.Trong tiếng Việt không có
chữ F, J, W, Z. Bây giờ chữ F được dùng để thay thế
chữ PH. PHÁP được viết thành FÁP. Súng SKZ thoạt mới
nghe tưởng là phát minh vũ khí của Liên Sô, Đức Quốc
hay Tiệp Khắc, nào ngờ đó là chữ tắt của Súng Không
Zật (Giật) do Phạm Quang Chánh tức Trần Đại Nghĩa làm
ra bằng sắt thép đường rầy xe lửa. Chữ
Y hầu như bị thủ tiêu. Mỹ viết thành Mĩ chẳng
hạn. Gạch
nối bị bãi bỏ trong chánh tả miền Bắc sau năm 1954
ngoại trừ bí danh Trường-Chinh, tổng bí thư đảng Lao
Động Việt Nam.
Trong thời kỳ đất nước qua
phân miền Bắc và miền Nam có hai chế độ chánh trị
khác nhau. Miền Bắc chịu ảnh hưởng chánh trị của
Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hai nước cộng
sản đàn anh tranh giành ảnh hưởng và quyền lãnh đạo
trong khối Cộng Sản. Ở miền Nam ảnh hưởng chánh trị
của Pháp giảm sút trước ảnh hưởng chánh trị Hoa Kỳ.
Tiếng Pháp vẫn còn dạy ở bậc trung học, nhưng đến
thập niên 1960 tiếng Anh nắm ưu thế hết miền Nam.
Tùy
theo chế độ Cộng Sản, Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc có những mâu thuẫn sâu sắc về mọi vấn đề
xuất hiện. Liên Sô đại diện chế độ Xã Hội Chủ
Nghĩa của các quốc gia kỹ nghệ theo chủ nghĩa
Marx-Lenin. Mao Zedong sửa đổi chủ nghĩa Marx-Lenin thành
chủ nghĩa Mao (Maoism), tức chủ nghĩa Cộng Sản nông
nghiệp kết hợp với chủ nghĩa bành trướng dân tộc
Hán (Pan-Hanism) (xin lỗi chữ nầy do tôi đặt ra). Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa có ảnh hưởng to lớn ở miền Bắc
sau năm 1954 vì nước nầy viện trợ cho Việt Nam võ khí,
thuốc men, lương thực, cố vấn chánh trị và quân sự
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.Tên Hồ Chí Minh là
người do Liên Sô đào luyện. Ông lo ngại Trường-Chinh
dựa vào thế lực của Beijing (Bắc Kinh) lấn át quyền
hành của ông. Miền Bắc tìm cách nôm na hóa Việt ngữ
và thay đổi Âm Lịch (1967) khác với Âm Lịch Trung Hoa
như một hành động độc lập với Trung Hoa Cộng Sản để
lấy lòng Liên Sô và tránh tiếng lệ thuộc Bắc quốc
đối với dân chúng miền Bắc. Từ
đó ta có hố xí thay cho cầu tiêu, xưởng đẻ thay cho
nhà bảo sanh, máy bay thay cho phi cơ, máy bay lên thẳng
thay cho trực thăng, lính thủy đánh bộ thay cho thủy quân
lục chiến (marine), giặc lái chỉ phi công của phe địch
(Mỹ và VNCH) v.v…Nhưng họ lại mâu thuẫn và mị dân
với những từ hộ khẩu, xe cải tiến (xe bù-ệt –
brouette), tổng tẩy quan (người quét dọn), văn công, bần
cố nông, công nghiệp, nghệ nhân, vô sản chuyên chính,
tập thể hóa nông nghiệp... và muôn ngàn từ ngữ chát
chúa khó hiểu khác còn mang ấn dấu Hán- Việt!
Nếu
ở miền Bắc người ta ‘nôm na hóa’ Việt ngữ thì ở
miền Nam từ Hán-Việt được dùng tối đa. Trường Đại
Học Sư Phạm ở miền Nam có ban Việt-Hán. Tổng thống
Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo, Khổng
Giáo và văn hóa Tây Phương. Ông là người ngoan đạo
từng sống ở Hoa Kỳ nên các bài diễn văn của ông
thường kết thúc bằng câu ‘Xin
Ơn Trên Phù Hộ Cho Chúng Ta’ giống
như câu May God Bless Us của người Hoa Kỳ. Từ ngữ tiếng
Anh của người Hoa Kỳ Việt hóa hầu như vắng bóng ngoại
trừ những từ ngữ thể thao tiếng Anh Việt hóa đã có
từ thời Pháp thuộc. Nhưng từ khi tiếp xúc với người
Hoa Kỳ từ năm 1954 đến 1975 những từ sau đây thường
được dùng đến như mục tiêu phải đạt và bổn phận
phải làm: cộng đồng, phát triển cộng đồng, khuếch
trương kinh tế, tự do, dân chủ, cộng hòa (dân quốc),
tổng thống chế, chữ nghĩa nhân vị (Personalism), Cần
Lao, Liên Đới, đả thực (thực dân), bài phong (phong
kiến), diệt Cộng (Cộng Sản) v.v…Cải tiến dân sinh,
Đồng tiến xã hội là những khẩu hiệu được tổng
thống Ngô Đình Diệm thường nhắc đến.
*
Về
Việt ngữ: Việt tự tức chữ quốc ngữ hiện hành và
ngoại ngữ có ba dư luận gần như đối kháng như
sau:
1. Có một dư luận về chữ quốc ngữ như
sau: chữ quốc ngữ là sản phẩm của giáo sĩ người
Pháp. Người Pháp xâm chiếm nước ta và quảng bá nó.
Khuynh hướng nầy xem chữ quốc ngữ là sản phẩm của
Pháp. Có người cực đoan hơn muốn bỏ chữ quốc ngữ
và phục hồi chữ Nôm vì cho đó là một sản phẩm thuần
túy Việt Nam.
2. Một số người chủ trương bỏ
chữ Hán trong tiếng Việt vì dùng chữ Hán chứng tỏ ta
lệ thuộc Tàu. Dùng càng nhiều chữ Hán càng làm cho
người nghe càng khó hiểu.
3.
Việt ngữ dồi dào phong phú nên không cần học ngoại
ngữ.
*
Trước
khi người Pháp đô hộ Việt Nam, nước ta không có chữ
viết. Trong Lục Bộ không có bộ Giáo Dục. Năm 1932 vua
Bảo Đại du học ở Pháp về mới có Bộ Học. Trước
kia Bộ Lễ trông coi về tôn giáo, nghi lễ, ngoại giao lẫn
giáo dục. Thực tế trong nước không có trường công
lập. Quốc Tử Giám được mở ở kinh đô chỉ để giáo
dục con quan mà thôi. Trường học đều là tư thục do
các ông đồ hay quan lại hưu trí đặc trách việc giảng
dạy. Thầy dạy chữ Hán thường là những người có tú
tài Hán học nên không được triều đình bổ nhiệm ra
làm quan hay những quan lại hưu trí hay rũ áo từ
quan.
Người Pháp xâm lăng và bắt dân ta học
chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thì có khác gì người
Trung Hoa đô hộ nước ta và dạy chữ Hán cho dân tộc
ta? Chữ Hán là chữ viết người xâm lăng từ phương Bắc
nhưng chữ quốc ngữ không phải là chữ viết của người
Pháp mà là chữ viết La Tinh hóa dựa vào cách phát âm
của người Việt Nam. Đó là một phát minh của giáo sĩ
và nhà ngôn ngữ học Alexandre de Rhodes. Về phương diện
chánh trị và lịch sử, nước Pháp có đụng chạm với
nước ta nhưng chữ quốc ngữ thì vô tội, lại mang nhiều
tiện lợi cho nước ta vì trên thế giới ngày nay phần
lớn các nước đều dùng mẫu tự La Tinh. Thổ Nhĩ Kỳ,
Indonesia là những quốc gia Hồi Giáo đã mạnh dạn cải
cách chữ viết của họ theo mẫu tự La Tinh, sao ta lại
nghĩ đến việc dùng chữ Nôm? Trong thực tế chữ Nôm
không có vai trò lớn nào trong lịch sử giáo dục và thi
cử ở Việt Nam ngoại trừ thời gian ngắn ngủi thời
Tây Sơn khi Nguyễn Huệ lên ngôi năm 1789. Vua Quang Trung
mất năm 1792. Nhà Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ năm 1801.
Thời gian ngắn ngủi nầy là thời nội chiến giữa dòng
Nguyễn Phúc và nhà Tây Sơn sắp đến hồi kết cuộc. Vì
vậy chữ Nôm không có cơ hội thuận lợi để phát triển
dù chỉ trên lãnh thổ cai trị của nhà Tây Sơn. Với chữ
quốc ngữ hiện hành việc quảng bá giáo dục quần chúng
dễ dàng hơn với chữ Nôm. Một người không biết chữ
chỉ cần học 6 tháng là biết đọc chữ quốc ngữ. Phải
mất bao lâu mới đọc được chữ Nôm? Ai dạy? Nói nôm
na thì dễ. Nhưng học chữ Nôm không dễ vì phải có căn
bản chữ Hán mới học được chữ Nôm. Chữ quốc ngữ
theo mẫu tự La Tinh giúp cho Việt tự tách rời khỏi văn
hóa Trung Hoa ít ra về hình thức. Vào thế kỷ XIX khi Pháp
chiếm Nam Kỳ, nhiều nhà giàu có không cho con đi học chữ
quốc ngữ và tiếng Pháp. Họ phải mướn người đi học
để khỏi bị chánh quyền thuộc địa nghi ngờ có phản
ứng chống Pháp.
Việc không dùng chữ Hán trong
tiếng Việt sẽ làm cho tiếng Việt cằn cỗi hơn là
phong phú. Có nhiều lãnh vực độc lập với chánh trị
và tinh thần quốc gia. Ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học
kỹ thuật... là những lãnh vực độc lập đó. Trong
những trang vừa qua tôi trình bày rất nhiều từ ngữ mà
tiếng Việt vay mượn từ các nước khác. Tiếng Anh của
người Hoa Kỳ phong phú hơn tiếng Anh của người Anh vì
có sự vay mượn của nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế
giới và vì khoa học kỹ thuật Hoa Kỳ phát triển nhanh
chóng. Hằng năm có hàng ngàn sản phẩm mới ra đời và
có tên gọi mới. Tự điển của Hoa Kỳ có thêm từ
3.000 đến 5.000 từ ngữ mới mỗi năm. Sự vay mượn chỉ
làm giàu cho ngôn ngữ chớ có hại gì đâu. Vay mượn từ
ngữ không phải trả vốn hay tiền lời chi cả. Tiếng
Anh, Pháp và các ngôn ngữ Âu Châu đều phảng phất âm
hưởng của La Tinh và Hy Lạp. Người Hoa Kỳ không có mặc
cảm gì khi dùng tiếng nói của người Anh từng cai trị
mình. Người Pháp hay Âu Châu không mặc cảm gì khi dùng
từ ngữ gốc La Tinh vì xưa kia họ từng bị đặt dưới
sự thống trị của đế quốc La Mã. Người Ấn Độ
thấy thoải mái khi nói tiếng Anh, quốc gia từng đô hộ
họ. Trong chừng mực nào đó tiếng Anh còn dễ dàng hơn
các thổ ngữ trong nước. Ấn Độ há không có văn minh
lâu đời? Người Canada không mặc cảm gì khi nói tiếng
Anh và tiếng Pháp cũng như người Thụy Sĩ nói tiếng
Đức, Pháp và Ý.
Trở về việc dùng chữ Hán
trong tiếng Việt, ta thấy với chữ Hán trong Việt ngữ
Việt Nam vẫn chưa có một quyển tự điển Việt ngữ
hoàn chỉnh vì nước ta chưa có Hàn Lâm Viện. Bỏ chữ
Hán, cuốn tự điển không hoàn chỉnh ấy mất đi 45%
chiều dày của nó.
Người mù chữ ở Việt Nam
vào giữa thế kỷ XX nói mã tà, phú-lít (police) thì họ
biết nhưng nói cảnh sát thì họ không biết vì họ biết
tên gọi mã tà hay phú-lít trước khi chữ cảnh sát ra
đời. Một người không có trình độ văn hóa cao ở Hoa
Kỳ biết money order chứ không biết chữ dịch ngân lịnh
của nó. Ông ta biết food stamps chớ không biết tem phiếu
lương thực. Đó là thói quen ban đầu đã dùng như vậy.
Nếu không gọi voter là cử tri mà gọi là người đi bỏ
phiếu hay người đi bầu thì electoral college (cử
tri đoàn) phải
gọi là đoàn người đi bỏ phiếu? Quốc gia độc lập
sẽ nói thành nước nhà đứng một mình? Giữa những chữ
‘quốc gia độc lập’ và ‘nước nhà đứng một mình’
cái nào nghe êm tai, sát nghĩa, dễ hiểu và dễ nhớ hơn?
Những từ kép như chánh trị, tự do, dân chủ, cộng hòa,
quốc hội, hiến pháp, ngân hàng, thị trường, kinh tế,
thương mại... sẽ nói như thế nào cho người ta hiểu dễ
dàng nếu bỏ Hán-Việt trong tiếng Việt? Đại nhân trở
thành người lớn? Tiểu nhân là người nhỏ? Phản ứng
của người nghe sẽ hiểu người lớn là người trên
tuổi 18 tuổi (adult) hay cao lớn gần 2m. Hiểu như vậy có
đúng nghĩa của chữ đại nhân không? Còn người nhỏ là
người cao không quá 1.50 m? Nghĩa thật sự của chữ tiểu
nhân có phải như vậy không?
Ngôn ngữ trong sáng
hay không là do người truyền đạt nắm vững vấn đề
mà mình muốn truyền đạt hay không và người nghe có đủ
trình độ để nghe và hiểu vấn đề hay không. Mỗi
ngành nghề, mỗi bộ môn có từ ngữ riêng của nó. Không
thể dùng từ nôm na mà chuyện phức tạp trở nên giản
dị, chuyện khó hiểu trở nên dễ hiểu. Khẩu
hiệu Mười Sáu Chữ Vàng (16) và Bốn Tốt (4) không có
chữ Hán, dễ
hiểu nhưng hàm chứa vô số âm mưu thâm hiểm và tàn độc
khó hiểu. Ngôn ngữ có qui luật, vẻ đẹp và giá trị
riêng của nó. Nó được xem là tiêu chuẩn để đánh giá
người nói lẫn người nghe. Quá khó khăn phức tạp như
La Tinh hay Sanskrit (tiếng Phạn) thì dễ bị đào thải để
trở thành tử ngữ (langues mortes). Giản dị hay phức tạp
tùy vào định chế chánh trị, tình trạng kinh tế - xã
hội, sự phát triển văn hóa, giáo dục và khả năng lý
luận của dân chúng trong nước.
Khi Hoa Kỳ vừa
lập quốc họ tìm cách giản dị hóa cách nói tiếng Anh.
Tiếng Anh của người Anh phức tạp vì Anh là một nước
quân chủ. Ngôn từ có giai cấp tính của nó. Ở Việt
Nam dưới chế độ quân chủ cũng không ngoại lệ. Một
số từ ngữ chỉ dành cho vua chúa và hoàng tộc như: lăng
(mồ mả vua), long nhan (mặt vua), long thể (thân thể vua),
long bào (áo của vua), ngọc tỷ (ấn của vua), thánh ý (ý
của vua), núi ngự (núi nơi vua ngự),chuối ngự (chuối
của vua ăn), ngự trù (đầu bếp của vua), ngự y (thầy
thuốc của vua), vua se mình (vua bệnh), vua băng (vua chết),
hoàng hậu lâm bồn (hoàng hậu hạ sinh con), hoàng hậu
(vợ của vua), hoàng tử (con vua), công chúa (con gái vua)
v.v… Tiếng
Anh của người Hoa Kỳ giản dị vì đó là nước Cộng
Hòa, dân chủ. Nhưng khi Hoa Kỳ trở thành một quốc gia
có nền kinh tế phồn thịnh, đời sống dân chúng cao,
giáo dục mở mang. Trình độ học vấn của dân chúng lên
cao. Sự giản dị trong ngôn ngữ giảm đi nhưng không có
nghĩa là thiếu sự sáng sủa đến nỗi không ai hiểu gì
cả. Những người trưởng giả giàu có bắt đầu muốn
có cuộc sống vương giả và dùng từ ngữ cầu kỳ như
giới quý tộc Châu Âu xưa kia nhưng chưa đến nỗi gọi
cái ghế là vật bằng gỗ để ngồi. Sự cầu kỳ và
phức tạp đôi khi xuất phát từ ý muốn của loài người
để có sự phân biệt và ngăn cách giữa người và
người. Nếu con đường nào cũng ngay và thẳng thì phong
cảnh trở nên đơn điệu. Lắm lúc người ta phải làm
cho nó cong quẹo, uốn khúc, thậm chí ngoằn ngoèo nguy
hiểm để chấm dứt vẻ đơn điệu buồn tẻ và làm cho
người lái xe phải chú ý và cẩn thận hơn. Sự phức
tạp và khó hiểu của ngôn từ đôi khi cũng tương tự
như thế.
Tô một bức tường 50m2 chỉ trả có
2 ngày công thợ. Nhưng chạm trổ một cây cột 0,5 m2 lại
phải trả 20 ngày tiền công thợ vì vẻ đẹp nghệ thuật
của cái nhà nằm trên cây cột chạm 0,5 m2 chớ không
phải trên bức tường tô 50m2.
Sự phức tạp
văn phạm của ngôn ngữ Âu Châu lại giúp cho ngôn ngữ
của họ rõ ràng, sáng sủa. Nó xuất phát từ óc phân
tích, tổng hợp và lý luận khoa học. Chỉ cần nghe cách
chia động từ người ta biết trình độ người nói,
chuyện xảy ra lúc nào (quá khứ, hiện tại, tương lai,
tương lai giả định v.v...). Chỉ cần thấy không có S là
thì biết không nhiều, thấy HE, SHE, IT, ELLE, IL thì biết
đàn ông, đàn bà giống đực, giống cái, người hay vật.
Sự sáng sủa đó xuất phát từ tinh thần trọng quy tắc,
luật lệ và khoa học của người tò mò muốn có sự
giải đáp của 5WH + H: What (cái gì ?), Who (ai?), Where (ở
đâu), When (lúc nào?), Why (tại sao?) + How (cách nào/ như
thế nào?). Trả lời được 5 WH + H thì khám phá ra nhiều
điều mới lạ trong đời sống và trong vũ trụ.
Muốn như vậy phải có dân chủ. Có tự do mới có sáng
kiến và phát minh vì người ta dám hỏi và giải đáp
những câu hỏi gai góc.
*
Dưới
thời Pháp thuộc những người giỏi tiếng Pháp như
Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn
Hữu Bài, Ngô Ðình Khả, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh…
đều có danh tiếng và địa vị trong xã hội thuộc địa.
Sau cách mạng tháng 8 nhiều người khốn đốn thậm chí
có thể vong mạng vì nói tiếng Pháp. Sự khinh miệt trí
thức trở nên thịnh hành trong xã hội Việt Nam từ năm
1930 và nở rộ không riêng dưới chế độ Cộng Sản ở
miền Bắc mà cả dưới chế độ quân đội ở miền
Nam. Nào là trí thức ‘bơ sữa’. Nào là trí thức trùm
chăn. Nào là trí thức không bằng cục phân. Nào là trí
thức sa-lông, xôi thịt. Nào là trí thức trói gà không
chặt. Hai chữ ‘khoa bảng’ được dùng với nghĩa xấu
hơn là tốt. Bùi Quang Chiêu bị tàn sát cả nhà. Hồ Văn
Ngà chết mất xác. Nguyễn Văn Sâm bị ám sát giữa thị
thành. Trần Đức Thảo điên loạn. Nguyễn Mạnh Tường
suýt chết đói. Phan Khôi chìm trong quên lãng. Phạm Ngọc
Thạch chết trong rừng sâu. Trần Anh, Lê Minh Trí, Trần
Văn Văn, Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết. Trong tuồng
hát lẫn ngoài đời người ta đề cao sự NGHÈO, DỐT
nhưng không che dấu được sự khinh khi nghề dạy học
nghèo nàn với những câu trở thành khẩu hiệu hay ca dao
như: Nghèo mà thanh bạch, Học trò đi mò cá sặt, Thầy
giáo ở nhà... Dưa leo chấm với cá kèo, Học trò nghèo
đi học nọt-man (normale: sư phạm) v.v...
Trí thức
bị nghèo đói, bị tù đày hay bị ám sát, thủ tiêu.
Người thì mượn cửa Thiền để xa lánh thế gian. Người
thì phải rời khỏi quê hương để được hưởng chút
không khí tự do. Những hình ảnh trên làm cho người bàng
quan thấy sự dốt nát là áo giáp của sự An Toàn và
Hạnh Phúc. Nếu dựa vào thành kiến gắn liền trí thức,
khoa bảng với ngoại bang để bài xích việc học ngoại
ngữ thì đó là một thiệt thòi vô cùng to tát cho đất
nước và dân tộc. Đó là một sự qui nạp hàm hồ, tai
họa và vô tội vạ. Sự tự cô lập không giúp ích gì
cho sự tiến bộ của đất nước và dân tộc. Chánh sách
bế quan tỏa cảng vào thế kỷ XIX của triều đình Huế
phỏng theo chánh sách bế quan tỏa cảng và bài Bạch Quỉ
của Trung Hoa không giúp cho Việt Nam bảo vệ độc lập
trước sự xâm lăng của Pháp. Nước Trung Hoa to lớn cũng
không tránh được sự xâu xé của liệt cường Tây
Phương. Bế quan tỏa cảng và tự cô lập không giúp cho
vua quan ta thấy được con đường dẫn đất nước và
dân tộc đến phồn vinh, tự do và hạnh phúc. Các nước
Âu Châu rất quan tâm đến việc giảng dạy ngoại ngữ.
Nhật và Nam Hàn (Đại Hàn) chủ trương mời thầy giáo
người Anh hay Hoa Kỳ dạy tiếng Anh cho học sinh ngay từ
bậc tiểu học để việc nói và nghe tiếng Anh được
rốt ráo hoàn chỉnh hơn. Các quốc gia chú trọng đến
ngoại ngữ ý thức rằng ngoại ngữ giúp họ cập nhật
những tiến bộ của nhân loại trên mọi lãnh vực.
Nếu
học ngoại ngữ nên học ngoại ngữ nào? Vì sao?
Trên
thế giới có các ngôn ngữ quan trọng sau đây:
1. Tiếng
Quan Thoại: 935 triệu người nói tức 14,1% dân số địa
cầu. Các nước nói Quan Thoại gồm có: Trung Hoa lục địa,
Đài Loan (Taiwan), Singapore, Mã Lai (nơi có 30% cư dân gốc
Trung Hoa).
2. Tiếng
Tây Ban Nha: 387 triệu người nói (5,85% dân số địa cầu).
Các nước Trung Mỹ (ngoại trừ Brazil), hải đảo
Caribbean, Tây Ban Nha.
3. Tiếng
Anh: 365 triệu người nói (5,52% nhân loại). Các nước nói
tiếng Anh là Hoa Kỳ, Anh, Ái Nhĩ Lan (Ái Nhĩ Lan có ngôn
ngữ của họ nhưng tỷ lệ người Ái Nhĩ Lan nói tiếng
Anh rất cao), Nam Phi, Úc Đai Lợi, Tân Tây Lan.
4. Tiếng
Hindi: 295 triệu người Ấn Độ nói (4,46% nhân loại). Dân
số Ấn Độ hiện nay là 1,1 tỷ người.
5. Tiếng
Ả Rập: 280 triệu người nói (4,23 % nhân loại) gồm các
quốc gia Trung Đông, ngoại trừ Do Thái, Bắc Phi.
6. Tiếng
Bồ Đào Nha: 204 triệu người nói (3,06% nhân loại) gồm
các quốc gia Brazil, Bồ Đào Nha, Angola, Mozambique.
7. Tiếng
Bengali: 202 triệu người nói (3,05 %) gồm Bangladesh và cư
dân phi Hồi Giáo quanh vùng.
8. Tiếng
Nga: 160 triệu người nói (2,42 % nhân loại) gồm các quốc
gia Nga, Trung Á, Mông Cổ và người Do Thái hồi
hương.
9. Tiếng
Nhật: 127 triệu người nói (1,92 % nhân loại).
Số
người nói tiếng Anh đứng hàng thứ ba sau số người
nói tiếng Quan Thoại và tiếng Tây Ban Nha nhưng tiếng Anh
là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới từ thế kỷ XIX
đến nay. Số người Ấn Độ nói tiếng Anh đông hơn cả
người Anh chính gốc! Ở những vùng xa xôi như các cựu
Cộng Hòa Sô Viết ở Trung Á, Tây Tạng, Tân Cương, Mông
Cổ... cũng có người biết nói tiếng Anh.
Nhằm
mục đích đào tạo mầm non để phát triển quốc gia,
việc học tiếng Anh là điều cần thiết. Vì Hoa Kỳ, Anh
là những nước có nền khoa học kỹ thuật tân tiến,
kinh tế phồn thịnh với truyền thống kỹ nghệ và
thương mại lâu đời. Hoa Kỳ và Anh là hai quốc gia được
nhiều giải thưởng Nobel về khoa học, kinh tế và các
lãnh vực khác căn cứ vào các số thống kê sau đây:
Quốc
gia
|
Số
giải thưởng Nobel
|
Hoa
Kỳ
Anh Đức Pháp Thụy Điển Nga Thụy Sĩ Canada Nhật Ý Hòa Lan Áo |
338
118 102 65 30 27 26 21 20 20 19 19 |
Số
giải thưởng Nobel mà Nga được nhỏ hơn Thụy Điển
(27-30). Nước Nga rộng lớn và đông dân so với Thụy Sĩ
và Hòa Lan. Số giả̉i thưởng Nobel của Nga chỉ hơn Thụy
Sĩ 1 giải (27-26) và hơn Hòa Lan 8 giải (27-19).
Nếu
so với tiếng Quan Thoại, Tây Ban Nha, Nga, Pháp, Đức, Ý,
Nhật thì tiếng Anh tương đối dễ học hơn các ngôn ngữ
kia. Đó là tất cả những lý do tại sao phải chú trọng
đến tiếng Anh.
Tôi không phải là nhà ngôn ngữ
học. Bài viết này chỉ là một bài góp ý hơn là bài
khảo cứu ngôn ngữ. Tôi thiết tha mời bạn đọc cùng
góp ý, sửa sai và bổ túc. Đó là cách thực tập tinh
thần hợp tác và xây dựng lẫn nhau. Sức mạnh của một
dân tộc không nằm trong khả năng xuất chúng của từng
cá nhân nào mà nằm trong sự hợp tác của tập thể dân
tộc. Chúng ta không thể kể tên một người Nhật xuất
chúng nào ăn nói hùng hồn cả. Nhưng chúng ta có thể kể
hàng loạt thành quả rực rỡ mà toàn dân và toàn nước
Nhật tạo ra. Phải
mạnh dạn ghi nhận rằng quê hương gốc chúng ta yếu vì
không có sức mạnh tập thể mặc dù có rất nhiều cá
nhân có điểm cao ở các học đường hay đậu cấp bằng
cao ở các đại học trên thế giới.
Phạm
Đình Lân,
F.A.B.I.