CUỘC
KHỦNG HOẢNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM
Lâm
Lễ Trinh
LTS:
Dưới
đây là bài nói chuyện có ghi âm, của Luật sư Lâm Lễ
Trinh, Chủ bút tạp chí Anh-Pháp Human Rights / Droits de
l’Homme, theo lời mời của Viện Việt Học, Institute of
Vietnamese Studies, tại 15355 Brookhurst Street, Westminster,
Orange County, Californie.
Thưa
Quý vị,
Thưa
các thân hữu,
Vì
còn phải dành thời giờ cho cuộc thão luận sau phần
trình bày này nên tôi xin đi thẳng vào câu chuyện được
chia thành ba phần chính:
I
– Định nghĩa Trí thức, Khoa bảng, Chuyên viên và Sĩ
phu.
Dịch
từ chữ intellectuel
trong từ điển Pháp. “Trí thức” là “người quan tâm
đến công việc não bộ vì thị hiếu hay vì nghề
nghiệp”. Theo học giả Trung quốc Hồ Thu Nguyên thì
“trí thức là người hiểu trước, biết trước (tiên
tri, tiên giác)
rồi đem sự học hỏi của mình công hiến cho tiến bộ
nhân loại, xã hội và dân tộc.” Hy lạp cổ xưa dùng
danh từ triết gia (philosopher) hay ngụy biện gia(sophist)
trong khi La Mã thì gọi trí thức là nhà tư tưởng
(idéologue). Trung hoa còn áp dụng cho trí thức nhiều
danh xưng khác như Nho, Sĩ, Thánh, Hiền, Văn nhân hay “Độc
thư nhân”
(người đọc sách).
Phác
họa một hình
dạng
rỏ rệt cho con người trí thức phức tạp hơn việc định
nghĩa.
Có cấp bằng hay tự học (autodidacte)
đều có thể được coi là trí thức. Trong sử sách,
nhiều bậc Thầy không có bằng cấp chi hết. Mặt khác,
người trí thức không bị buộc phải thuộc giai cấp,
tuổi tác hay phái tính nào, có mức sống ra sao hay làm
nghề nghiệp gì. Tại các nước chậm tiến, tùy trình độ
địa phương, những phần tử, với sức học bổ túc,
vẫn được tôn xưng là trí thức.
Chử
“intellectuel”
không thấy ghi trong tự điển Larousse 1866-1878 hay Đại
Bách khoa 1885-1902. Trong
quyển Vocabulaire Philosophique của Lalande chỉ thấy ghi
intellectualisme
mà thôi. Năm 1906, một số chính trị gia và văn nhân tại
Pháp gồm có Léon Blum, Émile Zola, Anatole France, Daniel
Halévy…..ký chung một đơn khiếu nại đòi phục hồi
danh dự cho cựu Đại úy gốc Do thái Dreyfus bị kết án
sai. Thủ tướng George Clémenceau gọi văn kiện này “Bản
tuyên ngôn của các người trí thức, Le
Manifeste des Intellectuels
”. Kể từ đó, danh từ intellectuel trở nên thông dụng.
Dù
sao, vấn đề trí thức vẫn có từ ngàn xưa nhưng luôn
luôn gắn liền và biến đổi với lịch sử. Đúng vậy,
dân tộc nào cũng có tạo ra một mẫu người lý tưởng,
dưới danh xưng khác nhau và do bản tính hay hoàn cảnh địa
lý hun đúc nên. Ví dụ: Quân tử ở bên Tàu, Chính nhân
L’honnête homme ở Pháp, Vỏ sĩ Samourai ở Nhựt, nhà
thánh thiện Mahatma ở Ấn độ, Người thanh lịch
Gentleman tại Anh quốc, Siêu nhân Superman ở Đức, Hiệp
sĩ Chevalier ở La mã, nhà Hiền triết hay Le Sage ở Hy
lạp, người cán bộ Apparatchik ở Nga, nhà Kinh tài
Businessman ở Mỹ….. Còn đối với dân tộc ta, mẫu
người lý tưởng thường được gọi là Trai Anh Hùng,
Gái Hào Kiệt.
Người
trí thức Việt Nam, theo quan niệm cổ truyền, cần có căn
bản học thức vững, không ngừng học hỏi và xử thế
theo đạo lý, nghĩa là sáng suốt phân biệt đúng sai và
phải trái. Yếu tố “tác
phong”
được xếp vào hàng đầu trong xã hội VN vốn trọng đạo
đức. Người trí thức chính danh không trung lập trước
cái thiện và cái ác. không khiếp nhược nín lặng khi
phải lên tiếng phản đối vì nín lặng cũng là một ý
kiến, một thái độ. Thái độ của kẻ hèn. Khoa bảng
hay chuyên gia, với túi đầy bằng cấp, mà bất xứng
thì không được xem là người trí thức. Danh từ cao quý
“trí thức” lắm khi bị bôi bẩn bởi những người
ngụy trí thức, trí thức thời cơ, trí thức tháp ngà,
trí thức yếm thế, trí thức trưởng giả xa-lông.
Sĩ
phu
ở một cấp cao hơn trí thức trong lòng quý mến và kính
nể của quần chúng vì họ dấn thân cho đại nghĩa,
không màng lợi danh và luôn luôn gắn liền sinh mệnh cá
nhân với sự tồn vong của Đất nước. Sự khác biệt
giữa khoa bảng, chuyên gia, trí thức và sĩ phu là sĩ phu
chẳng những có học vấn căn bản (schooling)
và giáo dục bản thân (education)
- như ba nhóm kể đầu - mà còn có thêm quyết tâm sống
chết cho chính nghĩa quốc gia (nationalist
engagement
/ nationalist dedication),
Tại triều đình, thời vua chúa, kẻ sĩ đứng hàng thứ
năm sau các tước: khanh, tướng, thượng đại phu và hạ
đại phu nhưng trong dân gian, kẻ sĩ được xếp hạng
trên ba giới nông, công và thương.
Theo
khoa bói toán cổ xưa, phần tử trí thức có giỏi vẫn
thua người số tốt, vận tốt, mồ mả tốt và âm đức
tốt (Nhất
mệnh, Nhị vận, Tam phong thủy, Tứ âm công, Ngũ độc
thư). Đây
là trường hợp hy hữu. Kẻ sĩ không để cho sự mê tín
lung lạc. Cuộc đời như một mảnh lụa đào trinh bạch.
Con người là nghệ sĩ, vẽ tùy thích nhưng phải gánh
trọn trách nhiệm về bức họa do mình tạo ra.
Khi
thầy Tử Lộ hỏi thế nào là kẻ sĩ, Khổng Tử đáp:
Trước hết, phải có biết xấu hổ khi làm điều quấy.
Thứ đến, hiếu thảo với mẹ cha và chung thủy với bạn
bè. Sau cùng, kết hợp tư duy và hành dộng, sự biết và
cách sống. Đức Khổng còn vẽ ra một road
map bốn
giai đoạn cho kẻø sĩ noi theo: tu
thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ
(tức rèn luyện bản thân, quản trị tốt gia đình, ổn
định xứ sở và phục vụ thế gian). Trong xã hội dân
sự văn minh ngày nay kết hợp chính trị, văn hóa, kỷ
thuật và kinh tế một cách phức tạp, cái lộ trình cổ
điển vừa nói còn giữ nguyên giá trị.
II
– Những giai đoạn kế tiếp đưa trí thức VN vào khủng
hoảng
A
– Thời mất chủ quyền .
Trong
chiều dài lịch sử, văn hóa và tư tưởng Việt Nam tiếp
nhận sâu đậm ảnh hưởng của ngoại bang. Điều này dễ
hiểu vì, về địa lý chính trị, nước ta nằm ở ngã
tư nhiều nền văn minh Á châu và mặt khác, từng bị
Trung Hoa và Pháp đô hộ khá lâu. Tuy nhiên, sự tiếp
nhận vừa nói không thụ động và không máy móc. Dân tộc
Việt luôn luôn cố gắng cải biến, mô phỏng, sáng tạo
và vươn ra ngoài khuôn khổ kềm tỏa của các đế quốc
thống trị.
Trong
số cự tướng của nền văn hóa quốc gia thuộc giai đoạn
này, Nguyễn Công Trứ tiêu biểu xứng đáng mẫu sĩ phu
lý tưởng Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX. Đúng vậy, ông
là người đầu tiên diễn đạt rỏ ràng quan niệm nhân
sinh của kẻ sĩ trong một bài hát nói gồm 31 câu bất
hủ và ông cũng là tác giả của bản điều trần Thái
bình Thập sách
đề nghị năm 1813 lên vua Gia Long mười biện pháp bảo
quốc an dân. Với khả năng đa dạng, tinh thần bách nghệ,
bản sắc anh hùng, tác phong tài tử, phong thái hàn nho và
trên hết, một hoài bảo sắt đá phục vụ dân và nướcù,
Nguyễn Công Trứ đã vượt qua mọi trở ngại dựng lên
bởi cái học Tống nho từ chương và hình thức của đời
Lê. Không kiêu khi đắc thắng, không nản lúc sa cơ, ông
bình thản trong mọi bối cảnh: hàn vi, xuất chính hay ẩn
dật, và thực hiện được gầân như tuyệt hão tri và
hành, viết và sống.
Đặc
điểm khác là khi xây dựng mô hình kẻ sĩ VN dưới nhiều
ảnh hưởng Đông phương như thuyết chính khí của Chu
Hy, chủ trương “danh
thành thân thoái”
của Lão tử, tinh thần tùy
thời, tự cường
của Dịch Lý và đường hướng thực dụng của phái
Minh Nho, Nguyễn Công Trứ – trong cương vị văn hào hay
danh tướng - luôn luôn tỏ ra là một mẫu người mang
nặng dân tộc tính Việt Nam: phóng khoáng, lãng mạn, yêu
đời và tiến bộ.
B
– Thời kháng Pháp (1858-1945)
Trong
giai đoạn này, các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông
Du, Đông Kinh nghĩa Thục, Duy Tân, Quang Phục..v..v.. nở
rộ để chống thực dân. Bằng võ trang, ngoại giao và
văn hóa.
Về
quân sự, nhiều anh hùng đã khí phách nêu gương tử
tiết: Nguyễn Tri Phương (nhịn đói đến chết), Hoàng
Diệu (tự thắt cổ ), Trần Bích San (nuốt giấy tự
vẫn), Nguyễn Cao (rạch bụng), Phạm Hồng Thái (mang bom
trong mình),
Về
đối ngoại, sứ thần Phan Thanh Giản đã tuẫn tiết khi
thất bại điều đình với Pháp lấy lại 3 tỉnh miền
Tây Nam phần; Nguyễn Trường Tộ kiên nhẫn gởi cho đến
chết điều trần lên vua xin cải cách; Bùi Viện qua Mỹ
năm 1873 và 1875 gặp Tổng Thống Ulysse S.Grant để cầu
cứu chống Pháp; Nguyễn Tư Giản sang Trung hoa và Đức
quốc xin giúp đở.
Khi
thấy thế địch quá mạnh không thể giải quyết bằng
quân sự, giới sĩ phu thay đổi chiến lược, gia nhập
khuynh hướng “Tân
trào”
và chấm dứt việc bất hợp tác để tìm hình thức và
phương tiện chống đối khác. Thời kỳ này, đế quốc
Pháp đưa vào Việt nam khoa học kỷ thuật, những tiện
nghi vật chất, tư tưởng mới của Tây phương và tiếng
Quốc ngữ.
Văn
hóa và Giáo dục trở nên hai khí cụ và mục tiêu đấu
tranh hệ trọng để hun đúc dân trí. Nhiều văn nhân như
Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký, Phan Kế Bính, Nguyễn
Đổ Mục.. dốc hết tâm trí vào công tác truyền bá Tây
học trong khi những sĩ phu khác chủ trương xây dựng nền
tảng Việt văn trong nhiều lãnh vực: báo chí và nghiên
cứu (Phạm Quỳnh với tạp chí Nam
Phong),
biên khảo học thuật tư tưởng Á Đông (Nguyễn Bá Trạc,
Nguyễn Trọng Thuật, Lê Dư..), cổ văn và sử nước nhà
( Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Trọng Thuật..), sách
giáo khoa (Phạm Thế Ngữ, Trần Trọng Kim,..), thi phú (Á
Nam Trần Tuấn Khải, Tương Phố, Đông Hồ Lâm Tấn
Phát..)
Năm
1925 đánh dấu một khúc quanh chính trị tại Việt Nam.
Đảng Xã hội Cấp tiến của Edouard .Herriot nắm quyền
tại Pháp cho phép Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trở về
nước. Phan Bội Châu là lãnh tụ của Việt Nam Quang Phục
(hội kín), tác giả hai lời kêu gọi quốc dân danh tiếng
Lưu
Cầu Huyết Lệ
(1904) và Hải
Ngoại
Huyết thư
(1906) cổ võ “tôn
quân, thảo tặc”,
tức đưa Kỳ ngoại hầu Cường Để lên làm vua, giết
giặc Pháp, đồng thời đẩy mạnh Phong trào Đông Du để
đào tạo cán bộ và cầu viện. Phan Châu Trinh là người
đã từng viết thơ kết tội bảy điều vua Khải Định
(1922), lãnh đạo Phong trào Duy Tân, và vận động “tôn
dân,
đồ
vua”
tức quý dân, thí vua, bằng cách dựa vào Pháp để lập
nền dân chủ và thực hiện tiến bộ.
Vào
thời ấy, tại VN có bốn xu hướng chính trị hệ trọng:
1- Quân
chủ Lập hiến,
chủ trương bạo động, của Phan Bội Châu, ủng hộ
Cường Để. 2- Quân
chủ Lập hiến,
ôn hòa, của Phạm Quỳnh, dựa vào Nam triều, quan trường
và chính phủ thuộc địa, ủng hộ Bảo Đại. 3- Cọng
hòa Dân chủ
của Phan Châu Trinh, với chương trình “hậu
dân sinh, chấn
dân
khí, khai dân trí”
và 4- Trực
trị
của Nguyễn Văn Vĩnh, chủ trương dẹp Nam triều, dựa
vào Pháp và nhóm trí thức Âu hóa.
C
– Thời các Chính phủ Quốc gia tại Miền Nam VN
(1954-1975)
Đểå
chống lại duy vật biện chứng Các Mác, ông Ngô Đình
Nhu, cố vấn của Tổng thống Ngô Đình Diệm, trang bị
tinh thần miền Nam với hệ thống tư tưởng Nhân vị,
Personnalisme,
một học thuyết công giáo cấp tiến, đại diện bởi
triết gia Emmanuel Mounier, linh mục Lebret, học giả Jacques
Maritain.. và phát xuất tại Pháp từ 1908 dưới danh xưng
Volontarisme,
Humanisme..
Ngày 2.9.1954, đảng Cần Lao ra đời, chủ trương cải tổ
xã hội theo mô hình “nhân
vị, cộng đồng, đồng tiến”.
Theo Chính cương của Cần Lao, Đảng và Xã hội là phương
tiện để phụng sự con người, chính con người mới là
cứu cánh.
Trong
quyển hồi ký “Nhân
chứng một chế độ”,
tập ba, phát hành năm ngoái, nơi trang 208-220, tác giả
Huỳnh Văn Lang, nguyên Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt
Cần lao, kể lại những tranh chấp nội bộ của tổ chức
này về quyền hành và trách nhiệm vì thiếu sự lãnh đạo
sít sao từ trung ương đến địa phương. Cái sai lầm
quan trọng nhất là đưa đảng phái vào Quân đội, làm
tan rã kỷ luật đặt trên hệ thống quân giai. Cuối năm
1957, Liên kỳ bộ bị giải tán. Đảng Cần lao gây tai
tiếng. Một số tướng lãnh gốc Cần Lao đã bắt tay với
Hoa kỳ lật đổ Đệ nhất Cọng hòa và hạ sát anh em
Tổng thống Diệm ngày 2.11.1963.
“Đảng
kaki”
(để dùng ngôn từ của tướng Nguyễn Cao Kỳ) khai sinh
Đệ nhị Cộng hòa trong tình trạng hỗn loạn với những
vụ đảo chính, chỉnh lý nội bộ liên miên cho đến khi
TT Nguyễn Văn Thiệu thật sự tóm thu mọi quyền bính
trong tay. Tại Bắc Việt, đảng CS chỉ huy Quân đội. Tại
miền Nam, Thiệu chỉ huy Quân đội lẫn đảng Dân chủ,
một tổ chức hữu danh vô thực do Thiệu lậâp ra để
tái ứng cử. Quân đội không có tính chất đảng nên
chống cộng trên chiến trường mà bỏ ngỏ đấu tranh
chính trị. Chế độ quân phiệt không chấp nhận sự phê
bình của giới trí thức. Trí thức hoàn toàn bất lực.
Vận mạng của Miền Nam do một tay TT Thiệu quyết định
năm 1975 trong vụ rút quân khỏi Cao Nguyên và miền Trung.
D
–Cộng sản nắm quyền sau Hiệp ước Genève (1954) và
Hiệp định Paris (1973)
Sau
khi đất nước chia đôi, CS hưởng một số lợi thế:
Bắc Việt thuần nhất hơn miền Nam về chính trị, không
chia rẽ nội bộ, đảng kiểm soát chặt quần chúng, Nga
Tàu và khối xã hội chủ nghĩa ủng hộ hết mình Hànội,
đặc biệt Đảng có kinh nghiệm lãnh đạo và chiến đấu,
với hai mục tiêu rỏ rệt: chống thực dân và căm thù
giai cấp. CS đã mượn danh nghĩa dân tộc để tiêu diệt
đối lập chính trị gồm có 2/3 giới trí thức Bắc Việt
(xử tử, lưu đày, tẩy não..), các đảng phái quốâc
gia rời rạc và đặc biệt, nhóm trotskyist Đệ tứ quốc
tế (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trẩn Văn Thạch.., phần
đông gốc miền Nam) mà chúng xem như những đối thủ
nặng ký nhất.
Việt
Nam thống nhất năm 1975. Tuy xín vín với sự sụp đổ
của Nga sô và khối chư hầu Đông Âu, CSVN tuyên bố vẫn
trung thành với xã hội chủ nghĩa, mặt khác cố gắng
tồn tại bằng cách “đổi
mới”
kinh tế và mở rộng đối ngoại. CS ngày nay bị đặt
trước một sự chọn lựa: “Theo
Mỹ thì rã Đảng, theo Tàu thì mất
Đất”.
Đúng vậy, nếu áp dụng thẳng thừng bản Hiệïp thương
ký năm ngoái với Hoa kỳ thì phải chấp nhận pháp trị,
quyền tư hữu, các tự do căn bản và sau đó, đa nguyên,
tức là đảng sẽ tiêu ma. Còn muốn giữ đặc quyền thì
chỉ còn có cách tùng phục Bắc kinh, hiến đất và dâng
biển. Hànội đã u mê chọn giải pháp thứ hai.
III
– Cuộc khủng hoảng hiện tại của trí thức Việt Nam
Tổng
dân số VN nay vượt đến gần 80 triệu, trong đó trên ba
triệu đi tìm tự do tại trên 70 quốc gia, 60% hiện sinh
sống ở Hoa kỳ. CS đã thực hiện một cuộc biến động
lịch sử vô tiền khoáng hậu, thay bậc đổi ngôi trong
xã hội và xáo trộn mọi ức đoán.
Trời
làm một trận lăng nhăng
Ông
xuống làm thằng, thằng lại lên ông.
Trong
bài “Đôi
điều suy nghĩ của một công dân”,
Hà Sĩ Phu chán ngán nhận xét:
“Dân tộc phải đương đầu với một cuộc tổng khủng
hoảng nhân cách. Xã hội đang lộn ngược do thang giá trị
bị lộn ngược. Chủ nghĩa vô hồn tạo ra một khoảng
trống ghê rợn. Về văn hóa, lý tưởng và nhân cách”.
Công
bằng mà nói, yếu tố CS chỉ làm trầm trọng thêm một
tình trạng suy đồi tích lũy từ lâu. Xã hội VN đã
tiếp nhận nhiều ảnh hưởng tiêu cực trước và sau
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa:
1
– Qua một ngàn năm đô hộ, đế
quốc Trung hoa
đã thành công đào tạo tại VN một lực lượng hủ nho
bạc nhược, phản động và thoái hóa, với lối học cử
nghiệp, thiếu óc sáng tạo. Lớp người này quan niệm
vũ trụ, nhân sinh và luân lý một cách hẹp hòi và kém
khoa học.
2
- Tiếp
theo, dưới chế độ thuộc địa kéo dài một thế kỷ,
thực dân Pháp cũng
huấn luyện được – như cụ Huỳnh Thúc Kháng đã viết
trong bài tựa “Phan Tây Hồ Lịch sử “ – “một
bọn Âu học đầu lưỡi, cũ không ra cũ, mới chẳng ra
mới, giơ gạc vênh sừng, chia nhà cắt ngõ, chống chỏi
nhau mà không sao hiệp lại làm một được”.
3
–
Sự hấp thụ quá độ hay sai lầm các trào lưu, tư
tưởng “cấp tiến” Tây phương
cũng gây tỗn hại không ít. Tuy có phần nào suy yếu sau
1954, văn hóa Pháp vẫn còn ảnh hưởng mạnh giới trí
thức Việt, ít nữa cho đến 1975. Mặc dù Hoa kỳ can
thiệp vào VN bằng quân sự trên hai chục năm , văn hóa
Mỹ không đâm chồi mọc rể sâu trên đất nước chúng
ta vì những dị biệt tâm lý và truyền thống.
Thập
niên 60-70, triết học phương Tây phát triển mạnh ở
miền Nam. Triết lý hiện sinh của Jean Paul Sartre, Simone de
Beauvoir, Merleau Ponty, lý thuyết phi lý (théorie
de l’absurde)
của Albert Camus, trường phái cấu trúc (structuralisme)
với R Barthes, Lévi-Strauss, trào lưu nhân vị (personnalisme)
của Emmanuel Mounier… .. đã lưu lại những dấu vết sâu
đậm trên tâm khảm của cả một thế hệ nhà văn và
học giả Việt. Các tư trào đó không dễ tiêu hóa, lắm
khi trở thành mode
thời thượâng và ảnh hưởng tiêu cực tới sinh viên,
trí thức và lan qua văn nghệ. Hảy đọc lại những
trang tiểu thuyết của nhóm Sáng
Tạo
ướt đẫm rượu hiện sinh với những nhân vật sống
vật vờ, không lý tưởng tại các phố phường, sàn
nhảy, phòng trà một cuộc đời trừu tượng, vô nghĩa
và bế tắc.
4
-
Chiến
tranh
bấp bênh làm nảy sanh một thế hệ sống trác táng và
thác loạn. CS Bắc Việt thừa cơ xâm nhập vào giới
viết văn, làm báo và sáng tác âm nhạc tại Miền Nam,
tạo ra phong trào phản chiến, ngụy hòa, ủy mị, ru ngủ
quần chúng với “tiếng sáo Trương Lương.” Chính phủ
quân nhân đương nhiệm không có đủ bản lãnh và kinh
nghiệm để chận đứng chiến dịch tuyên truyền-phá
hoại agit-prop này của địch. Thêm vào đó, sự hiện
diện của Quân đội Mỹ và Đồng minh nuôi sống vô số
hộp đêm, khuyến khích nạn mãi dâm và buôn lậu. Xã
hội miền Nam là một con bệnh nặng, về thể chất lẫn
tinh thần, trước ngày sụp đổ toàn diện.
5
–
Mao Trạch Đông từng tuyên bố: “Trí
thức không giác ngộ chủ nghĩa Mác Lê
thì
giá trị kém hơn cục phân”. Theo
gót đàn anh, CSVN
triệt hạ tư tưởng trưởng giả
và chống đối trong giới trí thức VN qua nhiều chiến
dịch: 1946-1954,
để
tẩy sạch ảnh hưởng văn hóa Pháp duy tâm, lãng mạn,
nghệ thuật vì nghệ thuật; 1954-1956,
dưới hình thức Cải
cách ruộng đất; 1956-1960,
để đánh trí thức và văn nghệ sĩ tiểu tư sản;
1986-1989
trong vụ gài bẩy văn hóa Trăm
Hoa Đua Nở.
Vừa thống nhất, năm 1975,
VN trở nên một trại goulag khổng lồ, sôi sục hận
thù, nghiền nát nhân phẩm. Chuyên chính đã giết chết
ngẫu hứng và sáng tạo. Mặt khác, chính sách giáo dục
ngu dân, “bứng
gốc
trồng người
(vô sản) ” và chủ trương “hồng
hơn chuyên”
của Hồ Chí Minh đã hủy hoại trí óc của ít nửa ba
thế hệ thanh niên.
Dưới
chế độ hiện tại, đất nước gánh chịu hai tai ương
khủng khiếp: tai ương tư
tưởng chính trị
ngoại
lai
Nga-Tàu và tai ương CS đảng
trị nội xâm.
Bởi thế, trong xứ, dân tình chán nản, dân trí lụn bại
và dân khí suy vi.
****
Hướng
về tương lai.
Người
dân Việt nói chung, trí thức nói riêng, rất hãnh diện
về xứ sở, gốc gác và gia đình của mình. Họ không có
óc phiêu lưu, càng không thích di cư. Nay hoàn cảnh bắt
buộc họ phải bất chợtø thay đổi cách sống, quốc
tịch, môi trường và lắm khi luôn cả lý lịch tại một
đất nước mới. Sự đổi đời này gây ra một địa
chấn về tinh thần, không thể tẩy xóa được hậu quả.
Ít nữa đối với thế hệ di cư đầu tiên.
Như
những cây trốc gốc đem trồng lại nơi phong thổ xa lạ,
người trí thức VN hải ngoại đang sa vào một cơn khủng
hoảng trầm trọng. Nơi đa số chọn làm đất dung thân,
Hoa kỳ, là một thế giới tạp chủng và đa văn hóa,
khác ngôn ngữ và truyền thống dị biệt. Một
terra incognita. Nền
văn minh nước Mỹ năng động, dựa vào sức mạnh của
khoa học kỹ thuật, cởi mở, đề cao dân chủ và nhân
quyền nhưng cũng thực tế tàn nhẫn, cạnh tranh không
khoan nhượng, lỏng lẻo về gia đình, vinh danh cá nhân và
thường lấy sự thành công vật chất để đánh giá con
người. Ở Đông phương, văn hóa tạo sức mạnh. Tại
siêu cường Hoa kỳ, sức mạnh tạo ra văn hóa, văn hóa
của sức mạnh, đang thay đổi bộ mặt của địa cầu.
Bởi
thế, dễ hiểu vì sao trí thức VN hiện hoang mang về ngày
mai của Đất nước, hoài nghi chính mình, ngờ vực luôn
cả xã hội nơi dung thân vì những giá trị tinh thần,
đạo lý và cách mạng yêu nước đều bị cơn bảo táp
chính trị quay cuồng đảo lộn.
Trong
tap chí Foreign
Affairs,
Gs Samuel Huntington, thuộc đại học Harvard, đã hữu lý
nói đến “ sức va chạm giữa các nền văn minh, the
shock of
civilizations”.
Con người trí thức Việt cảm thấy mình chỉ là hạt
cát trong cơn lốc toàn cầu. Đến nay, phần lớn sáng
tác của ngành văn học lưu đày mang tính chất yếm thế
và tiêu cực. Một danh từ mới “văn
học tuyệt vọng,
littérature
du désespoir”
được đem ra áp dụng.
Thái
độ vừa nêu chỉ là một tâm trạng, chưa biến thành
một trào lưu, may thay. An phận, cam chịu, thờ ơ, chán
nản hay bất mãn thụ động, đều không phải là những
thái độ thích ứng. Thật vậy, kẻø sĩ VN trải qua
nhiều thử thách, phạm nhiều lầm lở nhưng cũng đã
cống hiến không ít cho đại cuộc. Với ý chí tìm một
xuất lộ cho Đất nước, người trí thức chân chính
quyết không từ bỏ trách vụ tiền phong, dù biết trước
sẽ bị bạc đải và đày ải.
Để
dành thế chủ động chính trị trong nước, cần gắp xây
dựng lại sức mạnh của trí thức, bằng cách tôn trọng
và khai thác triệt để các giá trị đa dạng của giới
này. Ngày nay, trí thức đã nhận thức được những nhu
cầu thực tiển và cấp thời của xứ sở trong đó có
việc chấn hưng đạo đức, tái lập công lý xã hội và
xây dựng pháp trị.
Cuộc
đấu tranh sẽ chuyễn hướng khi hàng ngũ trí thức tâp
hợp chặt chẻ trong và ngoài nước để hành động.
Khối di cư Việt hiện có tiềm năng tài chính khá dồi
dào, đặc biệt một kho chất xám 300.000 chuyên viên,
thuộc đủ mọi ngành, được huấn luyện trong tự do,
dân chủ. Những tiềm năng ấy chưa được tận dụng
theo một kế hoạch hợp lý đề dân chủ hóa đất nước.
Còn nhiều phí phạm đáng tiếc.
Mặt
khác, cần sớm lấp bằng cái khoảng cách thế hệ và
tạo cho giới trẻ một tinh thần sĩ phu, không để họ
mất gốc hay vọng ngoại, hảy đưa họ về với dân tộc
VN. Họ là hạt nhân, chất men và ánh sáng trong công cuộc
quang phục Quê hương. Là những luồn gió thoáng, họ sẽ
quét sạch ám khí CS phủ lên trên giang san gấm vóc Việt
Nam.
Dân
tộc thức tỉnh, Đất nước mới hồi sinh. Đoàn kết
tạo đồng tâm, biến chiến hữu thành đồng chí. Đoàn
kết tuy khó, không phải là vấn đề nan giải nếu tất
cả coi trọng sự sống còn của xứ sở, nếu mọi người
không luôn luôn dành làm cái đầu và có nhiều người
tình nguyện làm cái đuôi. Nếu mổi người chiụ khó
nghe và làm, thay vì chỉ nói và bàn suông, tri hành bất
nhất.
Chúng
ta hảy tự vấn: CS đoàn kết được để phản bội dân
tộc và hủy hoại toàn diện hệ thống giá trị của xứ
sở. Tại sao người quốc gia, thường tự cho là nắm
chính nghĩa trong tay, lại không đoàn kết được để đấu
tranh? Phải chăng chính chúng ta đã làm cho chúng ta mất
nước? Phải chăng sự chia rẻ giữa chúng ta đã tạo sức
mạnh cho CS? đang giúp CS sống cầm hơi?
Ngoài
những điều lếu láo phát ngôn trọn đời, Hồ Chí Minh
có nói một câu ít nữa nghe được: “Có
Dân là có tất cả.” Nhưng
làm thế nào thu phục và giữ được lòng dân? Thành công
trong tương lai tùy thuộc vào cách giải đáp đúng câu
hỏi này. Chế độ, đảng phái, học thuyết chính
trị...chỉ là những viên đá lót đường cho Lịch sử.
Tất cả đều phù du. Dân mới bất diệt, Dân mới trường
cửu. Dân thiếu lãnh đạo là một cái xác không hồn.
Còn lãnh tụ mà không có dân thì không khác gì một cái
đầu không có thân xác.
Thuở
trước, các bậc tiền bối đã nêu gương sáng cho chúng
ta: Khi Phan Khôi tranh luận với Trần Trọng Kim về Nho
giáo, Ngô Đức Kế phản bác chính kiến của Phạm Quỳnh,
hay Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu “hòa
nhi bất đồng”,
họ luôn luôn tự chế, lễ độ và tương kính, bất đồng
nhưng không bất hòa. Đối với họ, quốc gia là cứu
cánh, dân tộc là đối tượng, ngoại xâm mới là kẻ
thù chung, kẻ thù duy nhất.
Đoàn
kết sẽ chấm dứt “hội
chứng chờ đợi”
(người này đợi kẻ khác phất cờ khởi nghĩa!). Đoàn
kết cũng sẽ xóa bỏ “dị
ứng tổ chức
“ một cơ cấu đấu tranh có uy tín, có lãnh đạo, cán
bộ, kỷ luật và kế hoạch dân chủ hóa VN.
Để
kết luận, không ai đương nhiên là trí thức. Không ai
bổng nhiên trở thành sĩ phu. Sĩ phu là một sự chọn
lựa đúng lý tưởng, một quyết tâm dấn thân phục vụ,
đầy gian khổ, ít vinh quang.
Như
con tằm nhả cho hết tơ mới chết, như cây nến cháy cho
tận bấc, lệ mới hết tuôn rơi: Đó là thân phận của
người sĩ phu yêu nước, theo hai câu thơ của Lý Thương
Ẩn:
“Xuân
tàn đáo tử ti phương tận,
Lạp cự, thành hội lệ thủy can”
Xin
cám ơn sự chú ý của các bạn,
LÂM LỄ TRINH
Thủy
Hoa Trang, Californie
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
-
Nho giáo, Trần Trọng Kim, nxb Xuân Thu 1990
-
Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945), Lê Văn Siêu, nxb Xuân Thu, 1991
-
Tình tự dân tộc, Võ Thu Tịnh, nxb Xuân Thu 1999
-
Thân phận trí thức, Vũ Tài Lục, nxb Xuân Thu 1990
-
Dăm ba điều nghĩ về Văn học Nghệ thuật, Trần Hồng Châu, nxb Văn Nghệ 2001
-
Vietnam, NOW, David Lamb, Public Affairs, New York, 2002
-
Nhân chứng một chế độ, tập ba, Huỳnh Văn Lang, tác giả xuất bản, 2001
-
Sức mạnh của Văn hóa - Văn hóa của Sức mạnh, Lâm Lễ Trinh, tạp chí HNNV, 1999
-
Hồ sơ Đệ tứ Quốc tế VN, tập 1, Tủ sách Nghiên Cứu, Paris, 2000
-
Việt Nam: Đệ Ngũ Thiên Kỷ, Một nhóm thức giả, nxb Trung Tâm VHVN, 1994