Niềm
đau Bến Hải
MẶT
TRÁI VÀ BÀI HỌC CỦA HIỆP UỚC GENÈVE
Lâm
Lễ Trinh
Ký
giả TRUNG VIỆT, trong Chuơng trình Chân Trời Mới (CTM)
phát thanh về Việt Nam, phỏng vấn ngày 17.7.2004 LS LÂM LỄ
TRINH, (LLT), Chủ nhiệm / chủ bút tạp chi Anh- Pháp Human
Rights / Droits de l’Homme tại Californie, tường trình từ
Úc châu.
-
CTM: Thưa Luật sư, tháng 4 vừa qua, các Cộng đồng Việt Nam ở Thụy sĩ,
Pháp
và Bỉ có mời Ls qua Genève, Paris và Bruxelles để nói
chuyền về Hiệp ước Genève và vấn đề Hoà giải Hoà
hợp. Vậy xin Ls vui lòng cho biết a) mối liên hệ giữa
chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp ước Genève? b)
Hiệp ước này gồm có những nước nào tham gia? C) Có
phải do Việt Minh chủ trương để bắt tay với Pháp chia
đôi Việt Nam hay không?
LLT: Đúng
vậy, tháng tư vưà rồi, tôi có qua Aâu châu ba tuần nóí
chuyện về hai đề tài nêu trên, nhân dịp 50 năm kỷ
niệm chiến thắng của CSVN tại Điện Biên Phủ đưa đến
việc ký kết Hiệp định Genève ngày 20.7.1954.
Để
trã lời điểm 1 trong câu hỏi của anh, tôi xin nhắc lại:
cuộc chiến đấu 9 năm của dân tộc VN chống Pháp từ
1945 dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh đã
kết thúc tại Điện Biên Phủ. Quân đội Pháp đầu hàng
sau 2 tháng cầm cự, từ 13 tháng 3 cho đến 7.5 .1954. Hai
phe đối thủ vào bàn hội nghị. Pháp kiệt quệ. Mặt
khác, Việt cộng hy vọng khai thác tối đa chiến thắng
về mặt chính trị. Bốn đại cường Liên xô, Trung cộng,
Mỹ và Anh cũng gây áp lực rất mạnh. Với những lý do
riêng biệt.
Vềø
điểm 2, xin trã lời: có tất cả 9 thành phần tham dự
Hội nghị. Pháp, Việt Minh, Anh quốc, Nga, Tàu cộng, Cam
bốt và Lào. Hoa kỳ và Chính phủ Bảo Đại gởi quan sát
viên, là Bedell Smith và Trần Văn Đỗ. Đại diện Mỹ,
Việt không chịu ký vào Hiệp ước. Đồng chủ tịch của
Hội nghị là ngoại trưởng Anthony Eden và Mikhail Molotov.
Điểm
3: “Việc chia đôi VN có phải do Việt Minh cấu kết với
Pháp hay không?” Câu hỏi này khá phức tạp. Trong năm
tuần lễ đầu, Hội nghị dẫm chân tại chổ vì trưởng
đoàn VC Phạm Văn Đồng nhất quyết đòi liên kết sự
ngưng chiến với việc giải quyết song song các vấn đề
chính trị. Chính phủ Laniel đổ, ngoại trưởng Bidault từ
chức. Ngày 17.6.1954 - tức là hai mươi bốn giờ sau khi
Quốc trưởng Bảo Đại trao cho ông Ngô Đình Diệm thành
lập nội các thay thế Bửu Lộc - Quốc hội Pháp tấn
phong Mendès France làm Thủ tướng. Để dễ làm việc,
Mendès France kiêm luôn chức ngoại trưởng và trưởng
phái đoàn. Ông hứa sẽ rút lui nếu hoà đàm không kết
thúc trước ngày 20 tháng 7. Molotov và Chu Aân Lai tăng áp
lực để VC đồng ý tách vấn đề chính trị ra khỏi
việc đình chiến. Hoa kỳ và Anh quốc đe dọa can thiệp
mạnh bằng quân sự nếu chiến tranh tái diễn. Cuối
cùng, Viêt Minh nhân nhượng, chấp nhận chia cắt VN nơi
vĩ tuyến 17 vì hình thức đóng quân theo kiểu “da beo”
bất lợi cho chúng. CSVN phải chiụ trách nhiệm với dân
tộc về việc ký kết này. Chính phủ Bảo Đaị – Ngô
Đình Diệm và các đảng phái quốc gia luôn luôn cực lực
phản đối giải pháp phân chia đất nước mặc dù lúc
đó, trên thế giới, đã có tiền lệ một số quốc gia
chia đôi như Đông- Tây Đức, Nam-Bắc Triều Tiên và Đài
loan-Trung cộng.
2
- CTM
: Xin Luật sư cho biết lý do vì sao Trung Quốc và Nga sô
gây sức ép đối với chính phủ Hànội để ký kết với
Pháp? Một số sử liệu cho rằng Bắc Kinh và Mạc Tư
Khoa đã “phản bội” đàn em Việt côïng. Sự thật bên
trong là thế nào? Mục tiêu chiến thuật của Nga và Tàu
có giống nhau hay không?
LLT: Danh
từ “phản
bội” anh
vừa dùng không có gì quá đáng. Thực tế, Liên xô và
Tàu cộng đã bỏ rơi phần nào đàn em Việât Minh tại
Genève, dưạ vào nhưng tính toán riêng biệt. Thật vậy,
quan tâm ưu tiên của Moscou là Âu châu đang dự trù thành
lập Cộng đồng Phòng thủ Aâu châu chống Nga. Có một
lúc Stalin nghi ngờ về đường lối chính trị không dứt
khoát của Hồ Chí Minh. Sau ngày Stalin qua đời năm 1953,
Nga muốn có hoà bình tại Đông Nam Á. Có lẽ anh còn nhớ:
Tổng bí thơ Khrustchev từng làm Hanoi bực tức vì đề
nghịvào tháng giêng 1957 cả Nam và Bắc VN gia nhập Liên
Hiệp Quốc. Cho đến năm 1950, Moscou tỏ ra hờ hửng với
VN. Tại Điện Biên Phủ, sự hổ trợ của Liên xô không
mấy hệ trọng nếu sánh với Tàu cộng, ngoài một số
hoả tiển Katiusha để trang bị hai tiểu đoàn cao xạ. Số
võ khí của Nga cấp cho Việt Minh đi ngang qua Trung quốc
theo một thoả ước mật.
Về
phiá Bắc
kinh, Việt Minh được giúp đở tận tình mọi mặt. Bắc
kinh xem đó như một nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên sau Điện
Biên Phủ, Mao có những lo âu mới: Chiến tranh với Mỹ
tại Bắc Hàn gây hệ quả nặng nề, kinh tế Tàu xuống
dốc thê thảm sau 9 năm ủng hộ Việt cộng chống Pháp,
Đài loan đe dọa tách khỏi Trung hoa và nguy cơ Việt Minh
say máu chiến thắng thôn tính Miên, Lào. Mặt khác, Mao
nghĩ đã đến lúc cần giảm đối đầu với Tư bản để
thực hiện chương trình công nghiệp hoá và xã hội hoá
nông nghiệp trong nước.
Chủ
trương của Bắc kinh thắng bớt thái độ hung hăng của
Việt cộng không phải mới bắt đầu từ hoà hội
Genève. Trong hồi ký “Điện
Biên Phủ, Điểm
hẹn lịch sử”, xuất
bản tại Hànội năm 2000, Võ Nguyên Giáp tiết lộ rằng,
sau Điện Biên Phủ, tướng cố vấn Tàu Vi Quốc Thanh đã
khuyến cáo Giáp không nên thừa thắng xông lên, tiến
chiếm Hànội và đồng bằng Bắc Việt. Vi Quốc Thanh là
người tuyên bố: “Cần
dạy cho VN một bài học” khi
Đặng Tiểu Bình cho tấn công Bắc Việt năm 1979. Tại
nghị hội, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng than phiền bị
đối xữ bất công vì không được dự những cuộc “đi
đêm” giữa Chu Aân Lai, Molotov, Eden và Mendès France ở
Berne, đặïc biệt phiên họp hệ trọng ngày 23.6.1954.
Trong khi đó, Đại sứ Mỹ Douglas Dillon tại Paris được
thông báo thường xuyên đầy đủ nội dung những điểm
thoả thuận. Phải đợi cho đến ngày 3 tháng bảy, Chu
Aân Lai mới gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tại Liểu
Châu để khuyên nên chấp thuận những điều kiện hoà
đàm hầu tránh Hoa kỳ nhảy vào vòng chiến. Giáp ghi
trong hồi ký: “Bác(Hồ) và
chúng tôi đều ngỡ ngàng”.
Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu được chỉ thị
yêu cầu Hội nghị “đàm
luận đóng kín cửa”
về
vĩ tuyến. Chủ đích hàng đầu của Việt Minh là tranh
thủ quốc tế thiết lập một giới tuyến quân sự và
hợp thức hóa chính phủ du kích Việt Minh dưới danh
nghiã là một Nhà Nước, có lãnh thổ, chủ quyền, thủ
đô và một hải cảng giao thuơng với thế giới. Trong
các phiên nhóm, để tránh mang tiếng xử hiếp chú em VC,
Chu Aân Lai thường khéo léo để Molotov quyết định cuối
cùng những điểm hệ trọng. Và Molotov không nương lời
điều chỉnh Phạm Văn Đồng.
Một
vố đau khác cho VC là trong buổi tiếp tân giả từ sau
khi ký Hiệp ước Genève, Chu công khai đề nghị với Ngô
Đình Luyện, đại diện của Bảo Đại – trước một
Phạm Văn Đồng đau khổ - cho mở một toà lãnh sự Miền
Nam VN tại Bắc kinh. Cho đến ngày qua đời , Đồng thường
cay cú nhắc đến những “cú
đâm sau lưng”
của
đàn anh Tàu cộng.
Nói
tóm tắc, ý đồ của Trung quốc là chấm dứt chiến sự
ở Đông dương và tạo vùng suy yếu này thành một khu
đệm, một bàn đạp bành trướng trong vùøng Đông Á,
đồng thời tránh xung đột với Mỹ.
3
– CTM: Thưa Luâït sư, vì sao Thủ tướng Mendès France
thành công thuyết phục mọi bên ký kết trong thời hạn
một tháng? Hiệp ước Genève đã giúp Pháp rút khỏi vũng
lầy Đông Dương nhưng Pháp còn giữ ảnh hưởng tại
Đông Dương sau ngày Hiệp ước được ký hay không?
LLT: Mendès
France là
một dân biểu gốc Do thái, thuộc đảng Xã hội Cấp
tiến, một luật sư nói lưu loát nhiều sinh ngữ từ lúc
19 tuổi, có kinh nghiệm chính trường 20 năm. Để gây một
sốc tâm lý, Mendès France ban cho chính mình tối hậu thơ
phải chấm dứt hoà đàm trong ba chục hôm, bằng không y
cam kết sẽ từ chức. Đặc biệt, Mendès France thành công
đánh tan mối ngờ vực của đồng minh Hoa kỳ rằng ông
sẳn sàng “bán
đứng Đông Dương”.
Theo ký giả Jean Lacouture ghi lại, Ngoại trưởng Mỹ John
Foster Dulles đề cao Mendès France với báo chí: “This
guy is terrific, Tay này thật là cừ!”. Để
tạo lợi thế cho Mendès France, ngày 29.6.1954, Tổng thống
Eisenhower và Thủ tướng Churchill cho phổ biến một bản
tuyên cáo chung xác nhận 7 điều kiện căn bản đem hoà
bình cho Đông dương, gồm có việc bảo vệ nền trung lập
của Lào Miên, ủng hộ sự độc lập của Miền Nam VN,
không loại bỏ khả năng thống nhất VN bằng biện pháp
hoà bình, tôn trọng quyền tự do dời chổ của dân chúng
VN từ vùng này qua vùng khác, đặt một hệ thống quốc
tế kiểm soát hữu hiệu ..vv..
Với
hậu thuẩn của Hoa Thịnh Đốn, Mendès France không gặp
khó khăn thuyết phục Liên xô và Trung quốc để họ ép
Việt Minh. nhượng bộ nhiều điểm như: ngưng chiến tức
khắc để tạo điều kiện đi tới một giải pháp chính
trị lâu dài cho toàn vùng Đông dương; VC rút hết quân
ra khỏi Lào Miên; tập trung quân đội mỗi bên vào hai
vùng riêng biệt; ấn định 300 ngày cho quân Pháp rút khỏi
Miền Bắc (thay vì ba tháng, theo VC đề nghị); dùng vĩ
tuyến 17 để chia hai miền Nam-Bắc (thay vì vĩ tuyến 13,
giữa Qui Nhơn và Nhatrang, như VC kêu nài); ấn định thời
hạn tổ chức tổng tuyển cử là 2 năm (thay vì 3 tháng
như VC đòi).
Hiệp
ước Genève không xóùa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của
Pháp. Tại Miên, Lào trung lập, Pháp vẫn giữ một số cơ
sở và cố vấn. 75.000 quân Pháp ở lại Đông dương để
giúp bảo đảm thi hành Hiệp ước. Chính phủ Miền Nam
dưới vĩ tuyến 17 sẽ biểu quyết ra khỏi hay ở lại
trong Liên Hiệp Pháp. Mendès France hài lòng. Việt Minh
thắng trên chiến trường nhưng thiệt thòi tại bàn hội
nghị.
-
CTM: Hoa kỳ không tham dự Hôi nghị Genève nhưng có gởi quan sát viên.
Tuy
thế, Hoa kỳ – trong hậu trường – đóng một vai trò
quyết định . Xin Luật sư vui lòng cho biết chi tiết về
áp lực của Hoa kỳ.
LLT: Để
trã lòi câu hỏi này, tôi nghĩ nên nhắc lại vài sử
liệu thuộc Đệ nhị thế chiến. Tại Hội nghị Téhéran
(1953) và Yalta (11.4.1945), Tổng thống Franklin Roosevelt đồng
ý với Thủ tướng Churchill không cho thực dân Pháp trở
lại Đông dương, và giao cho quân đội Anh và Trung hoa của
Tưởng Giới Thạch giải giới Nhựt. Thời Harry Truman, Mỹ
để mặc Pháp thi hành chính sách thuộc địa. Tuy nhiên
Hoa kỳ bắt đầu lo ngại khi Tàu cộng tràn ngập lục
địa Trung hoa năm 1951, tham chiến tại Bắc Hàn và giúp
Việt cộng chống Pháp. Để ngăn chận Đông Á bị xích
hóa theo chủ thuyết domino, Mỹ giúp Pháp về tài chính và
võ khí.
Khi
tình hình Điện Biên Phủ trở nên tồi tệ, ngoại trưởng
Dulles hai lần lên tiếng – ngày 11.5 và 10.6 – rằng Hoa
kỳ có thể can thiệp. Tướng Paul Eùly bay qua Hoa Thịnh
Đốn kêu cứu. Đô đốc Arthur Radford đặt kế
hoach giải nguy Vautour (Kên
Kên) bằng việc xử dụng phi cơ của Đệ thất hạm đội
ở Phi Luật Tân để oanh tạc các vị trí đại bác và
đạn dược của CS. Cuối tháng 4, Eisenhower còn dự trù
cấp cho Pháp hai bom nguyên tử nhỏ nhưng tuyên bố Hoa kỳ
chỉ can thiệp nếu Trung quốc tham chiến.
Bắc
kinh và Mạc tư khoa không coi thường lời cảnh cáo của
Hoa Thịnh Đốn. Gần đây, sách giáo khoa lịch sử xuất
bản năm 2001 tại Hànội giải thích vì sao VNDCCH phải
chấp nhận giải pháp Genève: “ Nếu
đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh thì lực lượng
so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không có
lợi cho ta.”
VC
lép vế, chỉ còn cách diụ giọng điều đình và chấp
nhận một thắng lợi giới hạn.
-
CTM: Chính phủ Miền Nam VN, do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo, và do
Thủ
tướng Ngô Đình Diệm đại diện, cũng tẩy chay Hiệp
ước Genève như Hoa kỳ. Nhưng sau khi Hiệp ước ký xong,
chính quyền NĐD gánh hậu quả nặng nề là phải định
cư trên một triệu dân miền Bắc và phải chuẩn bị
cuộc tổng tuyển cử dự trù trong Hiệp ước. Tại sao
quần chúng di cư đông như vậy? Phản ứng của chinh phủ
Diệm và các đảng phái quốc gia như thế nào?
LLT: Cũng
như Hoa kỳ, Chính phủ Ngô Đình Diệm do Bảo Đại bổ
nhiệm, tẩy chay Hiệp định Genève. Tuy nhiên, sự phản
đối này không thay đổi một tình trạng đã rồi. Các
chử ký trong Hiệp ước chưa ráo mực thì ông Diệm phải
gánh hết hệ quả của việc chia đôi đất nước. Từ
tháng bảy 1954, trên một triệu đồng bào Miền Bắc –
đa số là người công giáo Bùi Chu- Phát Diệm và sắc
tộc Nùng, Thái – ồ ạt đổ về Nam. Thời hạn để
đổi vùng quy định trong Hiệp ước là 300 ngày. Có lối
80 000 cán binh Vẹm tập kết về Bắc. Làn sống di cư vĩ
đại vào Nam này có thể lớn hơn rất nhiều nếu CS
không dùng mọi thủ đoạn gian manh để ngăn lại, bất
chấp lời cam kết tại Genève.
Ngày
22.7, Thủ tướng Diệm cực lực lên án trên đài phát
thanh việc giao 4 tỉnh Miền Trung cho VC. Các công sở treo
cờ rủ. Ngày 24.10.1954, TT Eisenhower gới thẳng một bức
thơ cho Thủ tướng Diệm khẳng định ủng hộ vô điều
kiện và viện trợ trực tiếp Chính phủ Miền Nam. Ngày
14.9.1956, quân đội Pháp hoàn toàn rút khỏi Miềân Nam VN
theo lời yêu cầu của ông Diệm. Aûnh hưởng của Paris
chấm dứt.
Ngày
10.8.1955, Thủ tướng Diệm từ chối gặp Phạm Văn Đồng
để bàn vụ tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7.1956
như quy định bởi điểu 7 trong bản tuyên bố cuối
cùng, Déclaration
finale,
của Hội nghị Genève .Không có nước nào ký vào văn
kiện này. Thủ tướng Diệm nói thẳng cho Đồng biết
Miền Nam không sợ thua nhưng vì ông không tin CS sẽ lương
thiện thi hành điều kiện của Hiệp định Genève. Đúng
vậy, nếu bầu cử ngay thẳng, không chắc Bắc Việt sẽ
thắng vì lúc đó, dân tình ta thán sau vụ Cải cách Ruộng
đất thất bại (1953), khai trừ dã man nhóm sĩ quan theo
khuynh hướng “xét lại” trong Quân đội Nhân dân, tàn
sát văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân Văn-Giai phẩm (1956),
mùa màng thất bát., cầu kỳ bị Pháp phá hoại...vv..
Cũng trong thời điểm đó, uy tín của ông Ngô Đình Diệm
lên cao đối với quốc tế và trong xứ nhờ nhiều thành
quả: định cư tốt đồng bào Miền Bắc, dẹp loạn Bình
xuyên và giáo phái, chấn chỉnh xã hội, ban hành Hiến
pháp, tổ chức Quân đội quốc gia, cải cách hành chánh,
xây dựng guồng máy an ninh....vv..
6-
Chúng tôi cũng được biết : khi CP Tổng thống N Đ Diệm
từ chối tổ chức tổng tuyển cử và đuổi phái đoàn
Việt cộng trong Uûy ban kiểm soát đình chiến về Bắc
thì Ls lúc đó giữ chức Bộ trưởng Nội vụ và phụ
trách vấn đề này. Ls có thể cho biết vài chi tiết hệ
trọng về những ngày chót của phái đòan VC ở Saigon hay
không?
LLT: Tôi
còn nhớ: trong hai ngày liên tiếp , đồng
bào ta – phần đông gốc di cư Hố Nai - bao vây rầm rộ
và đốt Khách sạn Majestic Saigon là nơi VC đặt Văn
phòng, ở Bến Bạch Đằng . Chúng hoảng hốt bỏ chạy
về Gia định, trốn trong doanh trại, kế bên Bịnh viện
Nguyễn Văn Học. Nhóm người biểu tình không tha, cô lập
chúng, cắt điện, nước và lương thực, hò hét đả đảo
ngày đêm khiến chúng phải điện thọai cho Công an của
ta, xin được lên phi trường trong xe bít bùng để về
Hànội. Sáu giờ sáng hôm sau, tôi đích thân đến Tân
Sơn Nhứt để kiểm soát mọi thủ tục. Trước giờ phi
cơ quân sự của Ủy hội quốc tế đình chiến cất
cánh, viên sĩ quan trưởng đoàn VC lể phép đến gặp
tôi, tự xưng là...trung tá Văn Tiến Dũng để cám ơn
được ra đi an toàn với các đồng chí (!).
7-
CTM: Xin Ls cho biết đại cương nội dung của Hiệp ước
Genève (1954). Nếu
có
thể, xin so sánh với Hiệp ước Paris ký năm 1973.
LLT: Như
một số sử liệu VC sau này cho biết, nhu cầu cấp bách
của Hội nghị Genève là “ngăn
chặn Mỹ can thiệp quân sự ở Đông Dương”. Mục
tiêu khác là
tạo danh nghiã và một cái thế quốc tế cho tổ chức
kháng chiến của chúng. Để đạt kết
quả này, phái đoàn Phạm Văn Đồng phải đắng cay xét
lại những đòi hỏi hách dịch lúc đầu , liên hệ đến
điều kiện ngưng bắn, việc chiếm đóng lân bang Lào
Miên, vị trí tập trung quân đội mỗi bên, lịch trình
rút quân, vẽ lằn giới tuyến giũa hai miền và thời hạn
tổ chức tổng tuyển cử. Vừa ra khỏi một cuộc chiến
chin năm, VC chuẩn bị cuộc chiến tranh Đông Dưong lần
thứ hai, kéo dài 20 năm để kết thúc năm 1973 bằng Hội
nghị Paris. Lê Duẩn cho chôn súng và gài cán bộ ở Miền
Nam hầu xữ dụng lại. Trong nhiều năm sau, chính phủ Bắc
Việt chối một cách ngáo ngổ rằng chúng không có vi
phạm Hiệp định Genève bằng cách đưa quân đột nhập
dưới vĩ tuyến 17.
Trong
lịch sử, đến nay, VN từng bị chia cắt bởi hai con sông
Gianh và con sông Bến Hảøi. Sông Gianh phân cách hai vương
triều nhưng con sông Bến Hải vẫn mãi để lại trong tâm
tư người dân Việt những ký ức sầu thảm như bức
tường ô nhục Bá Linh.
Hai
Hiệp ước Genève và Paris đều tìm cách giải quyết vấn
đề đình chiến: giữa VC và Pháp, rồi giữa Nam-Bắc VN,
dính đến Hoa kỳ. Cả hai dự trù tổng tuyển cử hầu
thực hiện “hoà giải hoà hợp dân tộc” và thống
nhứt VN. Cả hai đều không được thi hành nghiêm chỉnh.
Đặc biệt, CS đã vi phạm trắng trợn Hiệp ước Paris,
nuốt trửng Miên Nam trước sự khiếp nhược của thế
giới. Tại Genève, Nga Tàu “phản bội” đàn em Việt
Minh. Tại Paris, Mỹ thô bỉ bỏ rơi đồng minh VNCH
.
Chiếân tranh Đông dương lần thứ nhứt gây chết chóc
và thương tích cho nửa triệu người . Trong chiến tranh
Đông dương lần thứ hai, tổn thất gần bốn lần cao
hơn, không kể trên một triệu người bỏ nước ra đi.
Năm 1976, CSVN phát động cuộc chiến tranh Đông dương lần
thứ ba để chiếm đóng Cam bốt. Ba cuộc chiến này đều
do CSVN chủ mưu theo lịnh của Đệ tam Quốc tế và đều
không cần thiết vì một nước Việt Nam không CS vẫn có
thể thu hồi độc lập với một cái giá ít đau khổ và
tốn kém hơn. Đây là một đề tài nên trở lại trong
một dịp khác.
Nhìn
tổng quát, Hiệp định Genève tương đối ít nguy hại
cho phiá quốc gia hơn Hiệp ước Paris. Năm 1954, VC phải
rút toàn quân khỏi Miền Nam VN trong khi năm 1973, Bắc Việt
và tay sai Mặt trận Giải phóng Miền Nam được phép đồn
trú dưới vĩ tuyến 17 theo hình thức “da beo”. Mặt
khác, tại hoà đàm Genève, Hoa kỳ còn giử “thế thượng
phong” đối với Việt Minh. Cái thế này không còn nửa
khi hoà đàm Paris bắt đầu. Về cánh quốc gia VN, nội bộ
nát bét và uy tín bị suy sụp vào giai đọan hoà đàm này
kết thúc.
Ngày
nay, công và tội của CSVN thấy rỏ. Thống nhứt là bánh
vẽ, nhân tình ly tán tột bực; xứ sở tụt hậu trầm
trọng; tham nhũng , bất công và sa đoạ ở mọi tầng lớp
xã hội; dân và nhân quyền bị chà đạp không nương
tay..
8-
CTM: Xin Luật sư vui lòng cho biết một cách tổng quát
những bài học lịch
sử
nào có thể rút được từ Hiệp định Genève?
LLT: Có
rất nhiều bài học. Sau đây là tóm tắc ba bài học
chính:
-
Vấn đề liên minh với Đế quốc. Liên minh với một đại cường, dù mạnh đến đâu, cũng chỉ đưa đất nước đến ngõ cụt nếu không có sự ủng hộ tích cực và hy sinh nhiệt tình của toàn khối dân tộc. Muốn thế, nhà lãnh đạo phải nắm vững chính nghĩa. Vong bổn và vọng ngoại làm mất chính nghĩa. Yếu tố chiến thắng là dân tộc chớ không phải đồng minh.
-
Một quốc gia không có thân hữu, chỉ có quyền lợi. Quyền lợi quyết định nhu cầu liên minh. Không một quốc gia nào sẳn sàng xã thân hy sinh cho sự tồn vong của một xứ khác. Không thể ủy quyền yêu nước, Không ai yêu nước chúng ta hơn chúng ta.
-
Sức mạnh dân tộc vô song và vô địch. Chủ nghĩa, chế độ, đảng phái.. vv.., tất cả rồi sẽ ra đi. Chỉ có dân tộc mới bất diệt, mới trường cữu. Chiến thắng Điện Biên Phủø không phải là công lao riêng của Việt cộng. Nó là thành quả của toàn dân tộc VN câm thù Thực dân Đế quốc và tiếp nối cuộc đấu tranh anh dũng của ông, cha, từ Bạch Đằng, Yên Bái cho đến Yên Thế.
Không
tạo ra được và khai thác cái thế dân tộc thì thất
bại, lẽ đương nhiên.
Thiếu
cái thế dân tộc, không có một lãnh tụ nào đứng vững.
Xin
cám ơn sự chú ý của các thính giả.