Phạm Hồng-Lam
Người phỏng-vấn hồng-i Joseph Ratzinger trong sách “Muối Cho Đời” và “Thiên Chúa và Trần Thế”.
Trước câu hỏi của Seewald, có bao nhiêu con đường dẫn tới Thiên Chúa,
hồng-i Ratzinger, nay là giáo-chủ Biển-đức XVI, đáp: Có bao nhiêu con
người thì có bấy nhiêu con đường…Bởi vì tuy cùng trong một niềm tin
nhưng hành-trình đức tin của mỗi người mỗi khác.
Chào Chúa…được viết năm 2002. Năm đó tại Đức có chưa đầy
chín ngàn người trở lại với Giáo-hội, so với trên một trăm ngàn rời
Giáo-hội. Nhưng lí-do nào đã làm cho gần chín ngàn người kia trở lại,
sau khi đã rời xa một tổ-chức mà họ coi là lỗi thời, cố-chấp, thiếu
trong-sáng?
Kí-giả Seewald là một trong những kẻ liều-lĩnh kia. Seewald sinh ra
(1954) và lớn lên trong một gia-đình công giáo miền quê gần tỉnh Passau,
miền nam nước Đức. Lúc nhỏ, hăng-hái tham-gia đoàn giúp lễ, cũng có lúc
ước-mơ làm linh-mục. Năm 1968, lúc 14 tuổi, cậu bị phong-trào tả, phản
chiến cuốn hút và dần lao theo cuộc sống phóng-túng của thế-hệ
thanh-niên phản-kháng 68 tại Âu châu. Bỏ đạo, vì đạo chỉ còn là “thuốc
phiện của nhân-dân”. Thần-tượng bây giờ chẳng còn là Chúa, là ông
linh-mục, nhưng là những Mao, Ché, Hồ… Bỏ nhà đi thuê phòng sống chung
tập-thể với các đồng chí nam nữ, ngày-ngày đi rải truyền-đơn hô-hào
cách-mạng cải-tạo thế-giới! Năm 1976, anh ra một tờ tuần báo cực tả ở
Passau, nhưng phải đình bản hai năm sau đó. 1981 khởi sự làm kí-giả cho
tuần báo chính-trị Der Spiegel, tờ tuần báo cấp trung nổi tiếng và có
lượng ấn hành cao nhất, nội-dung hơi “tả”. Sáu năm sau, quay sang đầu
quân cho tuần báo Stern, thuộc cánh “hữu”. Năm 1989, khi hay tin nhật
báo Süddeutsche Zeitung (nhật báo trung-dung, trung cấp, có ảnh-hưởng và
lượng ấn-hành cao nhất hiện nay ở Đức) mở phụ trang văn-hoá, Seewald
xin đầu quân với tư-cách kí-giả tự-do và đề-nghị mở một mục “Cầu-nguyện”
và được sự hoan-hô hết mình ngay của Süddeutsche Zeitung. Chàng
thanh-niên 35 tuổi nhận mục này với lí-luận rằng, một người không
dính-dáng gì hết với Giáo-hội như anh có thể viết về những đề-tài
tôn-giáo khách-quan và trung-thực hơn. Nhưng rồi, càng tiếp-cận với các
đề-tài tôn-giáo, trong anh dần nẩy lên một tiến-trình tra-khảo nội-tâm
không thể nào cưỡng lại được nữa. Cuối cùng, toà báo uỷ cho anh nhiệm-vụ
gặp-gỡ hồng-i trưởng Bộ giáo-lí đức tin là Ratzinger với một đế-án
phỏng-vấn lớn rộng. Đó là năm 1992. Vì ngôn-từ trao-đổi lần gặp-gỡ đầu
tiên này quá nặng giọng phê-phán chỉ-trích nên hai bên đã không tiến xa
hơn. Dù sau đó thỉnh-thoảng Seewald có ghé thăm Hồng-i và đôi lúc có đi
ăn chung, nhưng cả hai vẫn giữ khoảng-cách cần-thiết.
Tới 1996, câu chuyện dang-dở lại được tiếp-tục. Và kết-quả cuộc phỏng-vấn nhiều ngày với 40 cuộn băng ghi âm là cuốn “Muối Cho Đời”
(1996), một thành-công lớn, best seller quốc-tế, đã được dịch ra 23 thứ
tiếng (Bản tiếng Việt do Phong-trào Giáo-dân Việt-nam Hải-ngoại
phát-hành tháng 3 năm 2006). “Muối Cho Đời” cũng là một biến-cố
bản-lề cho cuộc đời Seewald. Vào thời-điểm đó, ông đã bắt đầu nghĩ về
Chúa và đã bắt đầu cầu-nguyện. Nhưng cụ-thể bắt đầu từ lúc nào thì ông
không biết. Chỉ biết nhiều cơ-hội nhỏ trong cuộc sống đã khiến ông
thao-thức, nghĩ-suy. Nhưng việc gặp hồng-i Ratzinger, đụng-độ với
tư-tưởng và thấm-thía với những suy-tư của ngài qua cuộc trao-đổi đã là
cú đẩy cuối cùng đưa ông trở về với Giáo-hội. “Ai chỉ muốn đứng xa mà nhìn không thôi thì sẽ chẳng có được kinh-nghiệm nào hết”,
Hồng-i đã nói thế. Ông tương-đắc với phân-tích của Ratzinger về
hình-ảnh Thiên-chúa và thế-giới. Ông nhìn-nhận vị Hồng-i là một người “xuất-phát từ niềm tin vào đức Kitô để cố-gắng đi tìm sự thật”.
Ông coi ngài là một nhà thần-học lớn của thế-kỉ, hiện ít ai biết tới,
nhưng tầm ảnh-hưởng có thể không thua gì một Tôma đất Aquino trước đây.
Sau khi trở lại với Giáo-hội, ông tiếp-tục cuộc trao-đổi những thao-thức về Đạo với hồng-i Ratzinger và đã hoàn-thành cuốn “Thiên Chúa và Thế-giới” (2000). Một tiếp-nối của “Muối Cho Đời”.
Nhưng lần này không phải của một người ngoài nhìn vào Giáo-hội, như
trong MCĐ. Mà trái lại, là câu chuyện của hai kẻ tin đang tìm hiểu những
gì mình tin, hay nói như hồng-i Ratzinger trong sách TC và TG, đang
“tra-khảo” niềm tin của mình (Chúng tôi đang chuyển dịch cuốn này và sẽ
giới-thiệu sách vào một dịp sau).
Đọc “Chào Chúa…” người ta có hai cảm-nhận: Seewald vẫn là
một tay cách-mạng như xưa, nhưng đồng thời cũng là một kẻ thành-tâm đi
tìm sự thật. Tinh-thần quyết-liệt vẫn còn, nhưng thay vì với khẩu-hiệu
của thế-hệ 68 trước đây: “Hãy đạp đổ những gì làm hại ta”
(Macht kaputt, was euch kaputt macht), thì nay những chỉ-trích cạn tàu
của ông mang đầy tính xây-dựng. Ông cho hay, cuộc hành-trình trở về của
ông không bằng-phẳng, chẳng dễ-dàng gì, mà cũng chẳng ghê-gớm gì cho
cam. Đó là một quá-trình lần-mò dài với thao-thức và nghi-hoặc.
Thao-thức về mình, về Thiên Chúa và về lời hứa cứu-độ của Ngài (Những
thao-thức đó ta có thể thấy phần nào qua các câu hỏi và vấn-nạn ông đặt
ra cho hồng-i Ratzinger trong “Muối Cho Đời” và sau đó qua “Thiên Chúa
và thế-giới”). Ông thành-thật khi viết rằng con đường dài trở về ông mới
chỉ bước được đoạn đầu, còn nhiều gian-nan phải bước tiếp. Cái may nơi
Seewald là ông vẫn luôn giữ được óc phê-bình trong cuộc sống, không vì
thất-vọng hay bồng-bột mà để mình buông xuôi, như nhiều thanh-niên cùng
thế-hệ. Ông choá mắt về cái nghịch lí của Kitô giáo: vừa trói-buộc mà
đồng thời cũng rất tự-do. Trong cuộc hành-trình “lột xác” này, ông
khám-phá ra rằng đức tin cung-cấp cho ông niềm an-ủi, thảnh-thơi và
thoải-mái, nhưng đồng thời nó đưa ra nhiều đòi-hỏi nơi kẻ tin. Và rốt
cuộc, ông đã đi tới tận cùng cội-nguồn: “Tin không phải là lặn vào vòng riêng-tư cá-nhân. Mà tin có liên-hệ ít nhiều với văn-hoá, với trách-nhiệm đối với toàn-thể”.
Và ông muốn lưu tặng lại niềm tin này cho hai đứa con trai của ông, mà
cho tới lúc đó chúng sinh ra và lớn lên hoàn-toàn ngoài vòng giáo-dục
tôn-giáo.
Peter Seewald quay 180 độ, trở về say-mê với sứ-điệp Phúc-âm, với
truyền-thống và cả tín-lí của Giáo-hội. Và nhất là say-mê thái-độ và
cung-cách phê-bình thẳng-thắn nhưng xây-dựng của Giáo-hội đối với
xã-hội. Xưa kia, một phần chính vì cung-cách trưởng-giả và chạy theo
thời của Giáo-hội đã khiến ông xa-lìa. Nay ông tiếp-tục cực-lực chống
lại khuynh-hướng thời-thượng đó. Theo ông, nền thần-học cấp-tiến mà
nhiều người ngày nay đeo-đuổi ít ơn-ích cho những kẻ tìm-kiếm đức tin,
nó làm họ khiếp-sợ hơn là dẫn họ tới niềm tin. Ông vui-mừng khi tham-dự
lại những nghi-lễ và được hát lại những bài thánh ca: “Theo tôi, Giáo-hội chẳng cần gì ngoài các việc làm bác-ái và những nghi-lễ linh-thiêng”. Về những cởi-mở trong Giáo-hội, ông phàn-nàn: “Giáo-hội
từ lâu rồi chẳng còn khả-năng trói-buộc con người nữa, như con người
vẫn hằng tố-cáo Giáo-hội về điều đó. Những lời dạy của Giáo-hội giờ như
nước đổ lá môn”. Đọc những nhận-định của ông, ta cứ tưởng như đó là
những suy-nghĩ của một chức-sắc cao trong Giáo-hội hay của một cụ già
gần đất xa trời, có nhu-cầu ăn-năn “trước khi về cõi” (chữ của Vũ Cao Quận). Nhưng không, đó là tâm-tình chân-thành và chín-chắn của một thanh-niên lúc đó mới trên dưới 45 tuổi đời.
Điều Seewald viết không chỉ là một kinh-nghiệm tu-đức riêng-tư, nhưng
nó cho thấy lối sống và suy-tư của cả một thế-hệ, thế-hệ của đập-phá
truyền-thống, phản-kháng quyền-bính, phản-chứng. Hậu-quả của phong-trào
phản-chứng đó là một Âu châu ngày nay muốn vứt bỏ mọi “xiềng-xích” ki-tô
giáo, xiềng-xích đã tạo cho họ sức sống và sự liên-kết cộng-đoàn. Đôi
khi ông không kìm nổi tức-giận: Rồi mà coi, khi đã chặt đứt hết mọi
giá-trị ràng-buộc ki-tô giáo, xã-hội tân-tiến ngày nay chắc-chắn phải
hoảng-hốt vì sẽ thấy mình như đàn thú không chuồng vì thiếu dây
liên-kết! Ông rút ra kinh-nghiệm này, một phần, từ trách-nhiệm của một
người cha gia-đình trong khi giáo-dục hai đứa con.
“Grüß Gott. Als ich wieder begann an Gott zu denken”
[Deutsche Verlags Anstalt, München 2002, 180 trang, giá 19,90 âu kim],
mới chỉ có bằng tiếng Đức. Ai đọc được, rất nên tìm đọc. Đọc để vững tin
vào con đường mình đang đi. Có nhiều con đường tới Chúa. Con đường
việt-nam. Con đường đức. Con đường của anh, của tôi, của Seewald… Nhưng
đường nào, dù cá-nhân đến đâu, cũng phải đi với người khác, cũng phải
nhập vào đoàn lữ-hành, nếu không, chẳng bao giờ tới đích. Đặc-biệt
những ai nghi-ngờ về sự cần-thiết của các giá-trị ki-tô giáo cho xã-hội
tân-tiến hôm nay và ngày mai thì rất nên đọc. Cho tới nay, hiếm có những
lập-luận vững-chãi và thuyết-phục như của Seewald.
Phạm Hồng-Lam