Thái Công Tụng
Xin mượn vài chữ trên trong bài thơ sau đây của Nguyễn
Công Trứ than về nỗi nghèo để làm tựa đề cho bài
này:
Chém cha cái khó, chém cha cái khó
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó
Nhà cửa để ở thật thảm thương:
Bốn vách tường mo
Ba gian nhà cỏ
Dàu kèo mọt tạo vẽ sao
Trước cửa nhện giăng màn gió
Phên trúc ngăn nửa bếp, nửa buồng
Cái nghèo thời Tú Xương (quãng 1920) với những vần thơ
rút gan rút ruột, diễn tả số phận bi thương của
chính mình:.
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Xin hãy ngậm ngùi đọc lại mấy vần thơ mà Trần Mạnh
Hảo đã viết vào một đêm ' Giao thừa nhớ Nguyễn
Bính':
'Năm ấy, trưóc đêm giao thừa trên ổ rơm
Anh gục xuống, nhờ bạn bè vuốt mắt
Miệng còn chóp chép thèm cơm
Anh chết rồi còn bạc tóc ( ..)
Thời thế vô tâm như kẻ qua đường ( ..)
Nhà thơ ạ
Không ai lừa được thời gian
Anh chưa vay đã vội trả
Sao chúng ta cứ phải đồng nghĩa với cơ hàn
Cơn gió đói khoác tàu chuối rách
Mà gió bấc kia ưa phách lối luận bàn'
Cái nghèo thời nay, qua bài thơ Chiếc chiếu của Hữu
Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng Những đồi hoa sim:
Có ai thấy một người cha
Từng buổi từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng
Tí mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đã hạ giá
Trong óc nổi bòng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Tục ngữ nói rằng không những chiếc nhà dột từ nóc
trên dột xuống
Từng sáng mai nhìn gầm giường
Đốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Đôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Nhưng con đái dầm lại tiện
v.v.
Vô hình chung, khi các định chế quốc tế nghiên cứu về
cái nghèo cũng có những tiêu chí đánh giá cái nghèo
tương tự như những gì đã được cảm nhận trong các
bài thơ trên, nào là nhà cửa nhếch nhác (xem lại bài
thơ của Nguyễn Công Trứ ), không có vật dụng trong nhà
(bài thơ của Hữu Loan), thiếu dinh dưỡng (bài thơ của
Trần Mạnh Hảo) v.v. nghĩa là cái mà các nhà kinh tế học
gọi là 'nhu cầu cơ bản ' (basic needs).
Và trên bình diện thế giới ngày nay, theo thống kê Liên
Hiệp Quốc, hơn một nửa trong sáu tỷ dân đang sống
nghèo khổ với mức thu nhập dưới 2 Mỹ kim/ngày, và
hàng trăm triệu người thuộc nhiều nước Phi Châu đói
kinh niên do loạn lạc, do sâu bọ cắn phá mùa màng, do
hạn hán v.v..
Cái nghèo do nhiều tác nhân gây ra và kéo theo nhiều hệ
qủa. Cái nghèo thường đi liền với đông con; đông con
lại dẫn đến đói, ăn không no ; mà đói thì học tới
đâu, chữ mất tới đó vì không tập trung được. Như
vậy, cái nghèo đói đi liền với nạn mù chữ. Cũng
vậy, cái nhân và cái qủa của hiện tượng nghèo đói ở
nông thôn có tương quan tương nhập. Thực vậy, nếu như
sự suy thoái môi trường thiên nhiên (như phá rừng) là
nguyên nhân của nghèo đói nông thôn qua các hệ qủa như
lụt lội, chuồi đất v.v. thì phá rừng cũng là hệ qủa
của cái nghèo. Những nguyên nhân khác của cái nghèo
thường cắt ngang qua các phạm vi tài nguyên, chính sách,
định chế, văn hoá, kỹ thuật v.v.
Xưa kia, trong xã hội Nho học, các giá trị đề cao theo
thang: sĩ, nông, công, thương.
Vai trò của sĩ đặt hàng đầu, nhưng lối học thi cử
chỉ học theo lối từ chương, không chú trọng khoa học
kỹ thuật vốn là vectơ của sự tiến hoá nhanh chóng các
xã hội. Minh Trị Thiên Hoàng xứ Nhật đã hiểu điều
này và nhờ vậy, nước Nhật ngày nay có trình độ phát
triển mạnh mẽ trên mọi lãnh vực .
Nông đứng hàng hai, nhưng cũng là nông nghiệp quảng
canh, không sử dụng phân bón, không có thuốc bảo vệ
chống sâu bọ, không có giống tốt :Mùa gặt hái, rơm
nhiều thóc ít (thơ Nguyễn Duy). Do đó, sản lượng nông
nghiệp chỉ vừa đủ nuôi gia đình, không có thặng dư
để buôn bán tạo ra của cải
Công đứng hạng ba nhưng cũng chỉ là thủ công nghệ với
điêu khắc, chạm trỗ chứ không có công nghệ tạo ra
phương tiện sản xuất tăng năng xuất lao dộng
Vai trò thương ở hàng sau chót, trong khi một xã hội
giàu mạnh phải đặt trên thương mãi.
Thật ra, mọi yếu tố trên đều có tương quan, tương
thuộc:
Sĩ liên hệ đến giáo dục, đến đầu mối khoa học kỹ
thuật, là đầu tàu của nền kinh tế tri thức (knowledge
economy) ngày nay .
Nông cũng phụ thuộc vào thương vì sản xuất ra cần
phải thương mãi hoá; nông cũng phụ thuộc vào công vì
các công nghệ như các loại công nghệ phân bón, biến
chế, bảo quản.
Công là công nghệ cũng phụ thuộc vào sĩ là người chế
tạo dụng cụ phương pháp, chương trình, công cũng phụ
thuộc vào nông (có nguyên liệu để chế biến), và cũng
phụ thuộc vào thương vì giúp tiêu thụ hàng hoá do công
nghiệp sản xuất ra .
Thương lại phụ thuộc vào sĩ vì sĩ đóng góp vào tiếp
thị, vào quản trị vận hành, và cũng phụ thuộc vào
nông nghiệp và công nghiệp v.v.
Chính các tương quan tương thuộc như trên tạo ra cái tư
duy hệ thống theo đó cái toàn bộ lớn hơn số cộng các
phần tử (the whole is more than the sum of its parts)
Sau đây, ta thử tìm hiểu trong chi tiết các yếu tố chi
phối đến sự nghèo
.nguồn vốn thiên nhiên
Việt Nam đất hẹp, người đông: với một dân số 81
triệu trên diện tích 325 000 km2 đứng hàng thứ 14 trên
thế giới và xếp thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau
Indonesia và Phi Luật Tân ).Trong tổng số diện tích này,
chỉ có 7 triệu ha là dất nông nghiệp, phần còn lại là
núi đồi, sông ngòi, đầm lầy, hồ ao v.v. Dân số mỗi
ngày một tăng,-cứ mỗi năm , dân số Việt Nam tăng trên
1 triệu người-, nên số lượng thực phẩm sản xuất ra
phải càng ngày càng lớn. Với 75% dân số sống ở nông
thôn và tăng mãi với thời gian thì diện tích đất canh
tác càng lúc càng giảm nên thiếu đất hoặc không đất
canh tác cũng là một nguyên nhân dẫn đến nghèo.
Tài nguyên thiên nhiên còn đặc biệt quan trọng nhất là
đối với kinh tế nông thôn vì đời sống nông dân chủ
yếu dựa vào các tài nguyên như đất và nước là hai
yếu tố quan trọng của môi trường. Thế nhưng, nguồn
vốn thiên nhiên lại còn giảm chất lượng với hạn
hán, kéo theo chất mặn vào sâu trong nội địa, với nạn
sụp lở bờ sông, nạn chuồi đất v.v.
Như vậy, vấn đề là phải khai thác một cách khoa học
mới duy trì được tính cách bền vững. Thực vậy :
-môi trường đất là một phạm vi có tầm quan trọng
chiến lược đến nền kinh tế vì có liên quan đến sản
xuất lương thực, đến nguyên liệu trong kỷ nghệ biến
chế v.v do đó nếu đất không được bảo vệ chống sự
thoái hoá do xói mòn, do chua hoá, mặn hoá thì năng lực
đáp ứng của đất bị suy giảm, kéo theo cả một loạt
hậu qủa khác như giảm năng suất, giảm thu nhập, gây
ra sự nghèo đói.
-môi trường rừng cũng vậy : Độ che phủ của rừng năm
1945 chiếm 43%, ngày nay chỉ còn 17%. Hàng triệu ha là đồi
trọc không cây cối. Suy thoái môi trường có quan hệ
với nghèo đói nông thôn: nạn lụt liên tục trên miền
Trung cũng một phần do suy thoái môi trường rừng ở các
lưu vực
-môi trường nước có liên quan đến nhiều khía cạnh
khác của đời sống như sản xuất, y tế, sức khoẻ.
Thực vậy nếu khai thác cạn kiệt nguồn nước ngầm,
nước mặt thì nạn mặn hoá sẽ xâm nhập sâu hơn vào
đất liền, ảnh hưởng đến sản xuất cũng như cuộc
sống .
Muốn giảm sức ép của dân số lên môi trường thiên
nhiên, phải đẩy nhanh tăng trưởng trong các công việc
phi nông nghiệp ở nông thôn như cần phát triển những
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lãnh vực biến chế
các nông sản (mía, bông vải, cà phê, lúa) cũng như trong
lãnh vực trợ nông ( nông cơ, nông cụ) ; phát triển các
dịch vụ như ngân hàng, tín dụng, vận tải tại ngay
nông thôn v.v
Ngoài các công việc phi nông nghiệp để giảm sức ép
của dân số trên đất liền, còn phải chú trọng đến
mặt biển. Thực vậy, vì Việt Nam có một bờ biển dài,
nhiều vịnh lặng sóng và môi trường sạch như các vịnh
miền duyên hải Trung Việt nên có nhiều lợi thế so sánh
so với nhiều nước khác trong việc nuôi thủy sản ngoài
biển, ven bờ, đánh bắt xa bờ vừa khai thác đúng tiềm
năng, vừa không đụng chạm đến qũy đất vốn qúa eo
hẹp. Và từ đó tạo ra nhiều kỹ nghệ như chế biến
hải sản, các dịch vụ như du lịch v.v..
. nguồn vốn xã hội
Hầu như một phần ba dân số Việt Nam sống dưới ngưỡng
nghèo đói, đặc biệt tại các vùng miền núi và nông
thôn hẻo lánh. Mà như trên đã nói, nghèo đói làm ta
liên tưởng đến cái tam thức quen thuộc: càng nghèo-càng
đẻ nhiều-càng đói. Sự tăng gia không kiểm soát dân số
liên quan nhiều đến các sắc tộc thiểu số ở các vùng
xa, vùng sâu cũng như cư dân sống trên sông nước (vạn
đò)
Dân số cũng lại liên hệ đến dân trí (trình độ hiểu
biết, công dân) và dân sinh (nếp sinh hoạt, tăng gia chất
lượng cuộc sống). Trong dân trí, nâng cao trình độ giáo
dục của phụ nữ rất quan trọng để giảm dân số.
Có sự tương quan giữa dân số với môi trường (mất
rừng, trữ lượng gổ giảm, ảnh hưởng đến nước
ngầm, hạn hán). Vì gia tăng dân số nên diện tích canh
tác cho mỗi đầu người giảm và sản lượng lương thực
theo đầu người giảm theo luôn nên không đủ ăn. Vì gia
tăng dân số nên thời gian cho đất nghỉ ngắn hơn do đó
rừng cây tái tạo chậm hơn, môi sinh bị ảnh hưởng.
Tóm lại, chương trình điều hoà sinh đẻ tức kế hoạch
hoá gia đình không những giúp giảm sức ép lên môi
trường thiên nhiên mà lại giúp nâng cao chất lượng của
cuộc sống, từ y tế đến giáo dục. Muốn vậy, phải
nâng cao dân trí, nhất là qua vai trò của phụ nữ vì nếu
phụ nữ được giáo dục tốt và có thu nhập cao hơn,
nếu phụ nữ được chăm sóc về mặt sức khoẻ sinh
sản, được tiếp cận với các biện pháp tránh thai an
toàn thì tốc độ tăng dân số mỗi năm sẽ giảm dần
xuống quãng 1.1-1.2 %, giúp giảm bớt áp lực trên môi
trường.
Nâng cao dân sinh cũng giúp giảm dân số. Nó đòi hỏi một
loạt chương trình nước sạch, chất đốt, y tế để
chăm sóc sức khoẻ . Hiện nay, nhiều vùng miền núi cũng
vì thiếu nước sinh hoạt sạch và điều kiện vệ sinh
kém nên có rất nhiều loại bệnh: sốt rét, tiêu chảy,
lây nhiễm theo đường hô hấp tóm lại cần cải thiện
các dịch vụ y tế..
Do sự gia tăng dân số nên người dân từ các vùng nông
thôn đổ ra thành thị càng đông, nẩy sinh ra vô vàn
nhiều vấn nạn xã hội như siêu vi SIDA, cần sa, ma túy,
băng đảng , đó là chưa kể đến sự gia tăng chênh lệch
giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị và điều này
ảnh hưởng đến sự gắn kết xã hội . Chênh lệch giữa
10% người giàu nhất với 10% người nghèo nhất lên quá
12 lần theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam đưa ra . Ngoài
ra, đối với một dân số đông đảo thì vấn đề duy
trì an toàn lương thực rất cần thiết, để giảm bớt
sự dao động quá đáng giá thực phẩm ảnh hưởng đến
nhóm người nghèo.
. nguồn vốn tài chính
Trong một xứ mà 75% là nông dân thì phải đầu tư vào
nông dân nhiều hơn qua vấn đề tín dụng nông thôn. Tín
dụng để vay vốn khởi nghiệp, để sản xuất nông
phẩm, súc phẩm, biến chế, bảo quản. Tín dụng để
tồn trữ và thương mãi hoá sản phẩm. Tín dụng cho các
việc làm ngoài nghề nông như trong các dịch vụ chuyên
chở, dịch vụ ngân hàng, thương mãi, các công nghiệp
nông thôn, tóm lại cung cấp tín dụng để đa dạng hoá
kinh tế nông thôn, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1,2
triệu người gia nhập thị trường lao động đi tìm việc
mỗi năm.
Ngoài ra, thương mãi là một phạm vi có nhiều tác động
nhất trên sự phát triển các nước vì 'phi thương bất
phú' và thuần nông thì không thể giàu được .Với trào
lưu hiện nay như khu vực hoá, toàn cầu hoá, với các
hiệp định thương mại Việt-Mỹ, với khu vực tự do
thương mãi trong khối ASEAN, được biết dưới danh từ
AFTA (Asian Free Trade Area), mà nội dung chính là giúp các
hàng hoá tự do lưu thông giữa nước này với nước kia,
cắt giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan thuế
v.v.thì Việt Nam muốn xuất cảng là phải chấp nhận
canh tranh với các nước khác. Do đó, vào luồng trong sự
gia nhập thương mãi quốc tế đòi hỏi phải có các sản
phẩm nhiều, chất lượng tốt, giá rẽ mới cạnh tranh
được với các hàng xứ khác. Nhận xét này hàm nghĩa
các doanh nghiệp phải giảm chi phí và nâng hiệu suất,
hoặc phải liên kết với các tập đoàn sản xuất lớn
trên thế giới, tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ
hậu mãi. Như vậy, thực hiện AFTA, hàng hoá Việt Nam có
thuận lợi vì có thị trường rộng hơn, nhưng cũng có
nhiều thách thức cần phải vượt qua.
. nguồn vốn nhân lực
Đầu tư vào nguồn vốn nhân lực vì con người có khả
năng tạo ra của cải vật chất và sản sinh ra các nguồn
thu nhập trong tương lai. Cũng vì thiếu đất canh tác và
sự tăng nhanh lực lượng lao động mỗi năm nên sự trau
dồi kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm, dạy ngành nghề
thực dụng cho các cơ sở sản xuất sẽ tạo điều kiện
giúp phát triển công ăn việc làm trong các hoạt động
phi nông nghiệp như ngân hàng, thương mãi, bưu điện,
dịch vụ, tiểu công nghệ, du lịch, kỹ nghệ, công nghệ
thông tin, nghĩa là những hoạt động không khai thác đến
môi trường thiên nhiên.
Nguồn vốn nhân lực cũng có nghĩa phổ cập và nâng cao
chất lượng giáo dục cũng như thu hẹp sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa Kinh, Thượng để vực dậy
các tiềm năng của họ. Hiện nay tại Việt Nam có trên
13% dân số, tương đương 10 triệu người là dân tộc
thiểu số, do đó cần quan tâm đến các nhóm dân tộc
này.
Con người Việt Nam ở thế kỷ 21 này đang đứng trưóc
thời đại của kinh tế tri thức. Trái với các tài
nguyên vật chất như đất đai, khoáng sản, nguyên vật
liệu có tính cách hữu hạn, tri thức lại là thứ tài
nguyên phi vật chất, vô tận và ngày một nhiều hơn, tốt
hơn. Thực vậy, chính tri thức đã tạo ra các công nghệ
hiện đại như công nghệ thông tin, với bao nhiêu áp dụng
hàng ngày như thơ từ điện tử, báo chí điện tử,
thông tin điện tử, buôn bán điện tử, giáo dục điện
tử v.v, biến cải luôn tính chất của lao động, từ
lao động sử dụng tay chân sang lao động sử dụng tri
thức, giúp nâng cao năng suất lao động mà năng suất lao
dộng cao thì mức thu nhập cũng cao, ảnh hưởng đến
giảm dân số cũng như kéo theo tiêu thụ cao, làm kinh tế
tăng. Công nghệ sinh học là một ví dụ khác của kinh tế
tri thức: tháp gen vào thực vật tạo giống chống sâu
bệnh/ không bệnh, cấy mô, tạo lúa lai, trị liệu bằng
gen v.v., mục đích là hạ giá thành sản phẩm
Trong thời đại của kinh tế tri thức, tri thức là tài
nguyên quan trọng nhất, hơn hẳn các tài nguyên vật chất
như đất đai, khoáng sản, nguyên vật liệu . Trước
kia, kinh doanh tài nguyên vật chất (gỗ, dầu hoả, khoáng
sản v.v.), ngày nay, thế giới càng có khuynh hướng kinh
doanh tri thức là tài nguyên phi vật chất. Nhiều người
giàu vì biết dùng các tri thức có giá trị để làm ra
các sản phẩm hoặc dịch vụ được xã hội rất cần
như điện thoại di động, máy ảnh số, máy xác định
vị trí địa lí v.v.Họ là những nhà 'bán cháo óc',
những tri bản chứ không phải tư bản.
. nguồn vốn cơ sở
vật chất
Ở trên có nói là dân trí và dân sinh còn thấp do đó
việc phát triển cơ sở hạ tầng xã hội như bệnh xá,
trường học và cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông
nông thôn, mạng lưới điện, cung cấp nuớc uống sạch,
bưu chính viễn thông, thủy lợi cũng giúp đuổi được
đói nghèo, giảm sự phân hoá nông thôn-thành thị.
Đầu tư vào giao thông nông thôn là phương tiện để đưa
nông phẩm từ nơi sản xuất ra chợ nhanh chóng, khiến
hàng hoá bán được, giá cao, giúp các phương tiện sản
xuất (phân bón,cây trồng..), cũng như giúp tăng cường
các dịch vụ xã hội, y tế , học đường đến thôn xã
dễ dàng hơn, như vậy mới thay đổi được bộ mặt
của các vùng hẻo lánh, để cuộc sống ổn định.
Giảm nghèo không thể thực hiện được nếu thiếu năng
lượng. Năng lượng cần thiết cho tăng trưởng kỹ nghệ,
trong nông nghiệp, trong sinh hoạt cải thiện điều kiện
sống. Năng lượng từ mọi nguồn: thủy điện, nhiệt
điện, khí đốt cần được đầu tư để đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội. Thực vậy, hiện nay,
mức tiêu thụ năng lượng trung bình mỗi người Việt
mới chỉ đạt mức 340kwh/năm trong khi đó, Thái Lan 2
000kwh/người/năm, Malaysia 2 500 kwh/người/năm; Singapore: 6
000kwh/người/năm. Như vậy, có nghĩa là Việt Nam cần đầu
tư xây thêm rất nhiều nhà máy điện mới bắt kịp mức
tiêu thụ năng luợng các nước láng giềng.
Vì Việt Nam nhiều nơi có gió mạnh và có mặt trời
quanh năm nên các nguồn năng lượng từ gió, từ mặt
trời cũng cần được phát huy. Tại các vùng sâu ở thôn
quê, những nhà máy khí sinh (biogas) nhỏ, rẽ tiền, dùng
chất thải của người và động vật để nấu nướng.
Phát triển năng lượng tự tái tạo sẽ giúp cho phát
triển bền vững vì cung cấp điện mà tránh được ô
nhiễm gây ra do đốt dầu hỏa, than đá v.v., như vậy,
giúp giảm các khí nhà kiếng, đúng với nghị định thư
Kyoto. Vì thiếu năng lượng như hơi đốt nên người dân
phải vào rừng lấy củi, làm suy thoái tài nguyên thiên
nhiên và song song với tăng dân số, tốc độ phá rừng
ngày càng tăng
*
*
*
Tóm lại, cái nghèo là một quan niệm nhiều chiều kích
(multidimensional) với nhiều yếu tố như: không có đất
sản xuất, thiếu tài nguyên, học vấn hạn chế, không
sản xuất nhiều, không có tay nghề chuyên môn ..Nói khác
đi , cái nghèo là một hàm số phụ thuộc vào nhiều
thông số mà các thông số này lại có tương quan, tương
tác với nhau, do đó muốn tác động lên cái khó, cái
nghèo, muốn 'chém cha cái khó ', phải tác động lên mọi
mặt, từ điều hoà sinh đẻ đến cải thiện giáo dục
qua các mặt cắt khác như bảo vệ môi trường, xây hạ
tầng cơ sở với tín dụng sản xuất v.v. vì chúng có
tương quan nhiều chiều, phi tuyến tính. Một vấn đề
quan trọng khác là với đà toàn cầu hoá như hiện nay,
Việt Nam tiến đến thị trường khu vực, thị trường
toàn cầu thì phải cạnh tranh, nâng cao hiệu năng để
giảm giá thành, tăng gia xuất cảng .Mà một điều kiện
tiến vào kinh tế thị trường là một khung luật pháp
rõ ràng, một nền hành chánh hiệu năng .. Mà ai cũng
biết là nền hành chánh Việt Nam hiện nay thì quá ư lủng
củng, chồng chéo, không hiệu năng! Một nền hành chánh
minh bạch cũng giúp thu hút đầu tư nước ngoài vì Việt
Nam rất cần vốn đầu tư mới mong thoát nghèo đói để
vươn lên. Sau cùng, sự phát triển đồng bộ các nguồn
vốn nói trên đòi hỏi phải quan tâm đến gìn giữ môi
trường và tài nguyên, phải có tính cách bền vững,
nghĩa là không vay mượn của tương lai trên đầu của
các thế hệ về sau, nói khác đi không làm cạn kiệt môi
trường thiên nhiên .