TỪ
CAO NGUYÊN VIỆT NAM
TIẾNG
VANG TỚI VẠN TƯỢNG (VIENTIANE)
THỦ
ĐÔ LÀO (LAOS)
Nguyễn
Văn Nghiêm
SƯ
ĐOÀN 7 BỘ BINH, MỸ THO
Sau
Biến Cố Banmêthuột 20, tháng 9, 1964, mà tôi đã dẹp
xong 5 Trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng chiếm đài
phát thanh và bao vây thị xã Banmêthuột một cách hòa
bình không cần đến súng đạn hành quân, có người ganh
ghét gửi thư cho Phủ Đắc Ủy Trung Ương Tình Báo chụp
mũ tôi là Cộng Sản nằm vùng, là người trong Tổ Chức
FULRO của Đồng Bào Thượng, và nói xấu Trung Tướng Tư
Lệnh Quân Đoàn II, Tư Lệnh của tôi! Đúng ngày nghỉ Lễ
Giáng Sinh 1964, sau khi đưa vợ con đi chơi Biển Hồ về
thì bị An Ninh Quân Đội Pleiku đến nhà bắt đem đi
nhốt. Sau vài tuần lễ bị giam ở Ty ANQĐ, tôi được
chuyển về Nha An Ninh Quân Đội Sài Gòn nhốt tiếp để
điều tra.
May
sao ở Vùng IV này tôi có một người bạn thân tên là
Nguyễn Bảo Trị cùng Khóa I Sĩ Quan Trừ Bị, Anh tốt
nghiệp ở Nam Định, tôi tốt nghiệp ở Thủ Đức, nhưng
có cơ hội gặp nhau ở Điền Hộ, Tiểu Khu Phát Diệm
1952, 1953, hợp nhau và thân nhau. Bây giờ gặp lại nhau
sau 11 năm xa cách, cấp bậc tôi mới là Thiếu Tá, còn
Anh đã là Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở
Mỹ Tho, nhưng Anh không thay đổi vẫn giữ tình bạn xưa,
Anh xin với Thiếu Tướng Minh Tư Lệnh Phó Vùng IV cho tôi
về Sư Đoàn 7 làm việc với Anh. Tôi được Anh cử làm
Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Đoàn, và được
Anh cấp ngay cho một căn biệt thự để đón vợ con từ
Cao Nguyên về sống với nhau.
Thời
gian làm việc với anh Nguyễn Bảo Trị là thời gian êm
đềm nhất trong cuộc đời quân ngũ của tôi. Tôi không
phải làm công việc Thượng Vận nữa, vừa khó khăn, vừa
bị cấp trên hoàn toàn coi thường không hề để ý đến,
chỉ khi có biến cố người Thượng nổi loạn mới gọi
đến và sai đi dẹp loạn mà thôi, xong rồi tình trạng
lơ là đối với vấn đề Đồng Bào Thượng vẫn y như
cũ!. Tuy nhiên, dù tôi làm việc ở Mỹ Tho, nhưng các Anh
Em Thượng kết nghĩa với tôi vẫn từ Sài Gòn liên lạc
với tôi. Đặc biệt có Em Ksor Hip đang là học viên
Trường Sư Phạm Long An nhận học bổng từ Quỹ Phát
Triển Giáo Dục Học Sinh, Sinh Viên Thượng Chăm của 3
chúng tôi (Kỹ Sư Nguyễn Văn Mừng ỏ Viện Nguyên Tử
Lực Đà Lạt, Touneh Hàn Thọ Phó Đốc Sự người Churu,
và tôi) thường xuống Mỹ Tho thăm tôi và cho tôi biết
tin tức về Cao Nguyên.
TRUNG
TƯỚNG CHỦ TỊCH ỦY BAN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA
Vào
một đêm, khoảng tháng 7, tháng 8, 1965, lúc ấy đã hơn
11giờ khuya, có tiếng chuông điện thoại reo, tôi vội
vàng nhấc điện thoại. Có tiếng của Thiếu Tướng
Nguyễn Bảo Trị, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 của tôi: “ Allo!
Nghiêm đấy hả? Ngủ chưa?” Ông nói tiếp: “Ông Thiệu
(Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh
Đạo Quốc Gia) vừa gọi tôi. Ông hỏi Nghiêm, và muốn
gặp Nghiêm ở Văn Phòng của Ông ở Dinh Gia Long lúc 8 giờ
30 sáng” Tôi hết sức ngạc nhiên, hỏi lại: “Ủa!
tôi có quen biết gì Ông Thiệu đâu? Làm sao Ông ấy lại
biết tôi, và gọi tôi đến gặp Ông để làm gì?”
Thiếu Tướng trả lời: “Chắc Ông ấy lại hỏi Nghiêm
về tình hình Đồng Bào Thượng. Mai lên gặp Ông ấy nhớ
đem theo đầy đủ những tài liệu về vấn đề này
nhé!”
Thật
là lạ! Tôi có quen biết gì Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu
đâu! Tại sao Ông lại biết tôi? Ai giới thiệu? Và Ông
muốn gặp tôi để hỏi về vấn đề gì? Tuy ngạc nhiên,
thắc mắc nhưng thi hành lệnh của Thiếu Tướng Tư Lệnh
Sư Đoàn, tôi cũng dậy chuẩn bị một số sách vở, bản
đồ liên quan đến các Sắc Tộc Thiểu Số, rồi mới đi
ngủ lại.
Sáng
sớm một binh sĩ tài xế lái xe Jeep đưa tôi lên Sài Gòn.
8 giờ sáng tôi đã có mặt ở Dinh Gia Long, một dinh thự
rất lớn của Pháp để lại. Hồi Biến Cố Banmêthuột
20, tháng 9, năm 1964, thì Thủ Tướng Chính Phủ là Trung
Tướng Nguyễn Khánh, nhưng ngày 25, tháng 2, 1965, Ông đã
mất quyền hành và trở thành Đặc Sứ Lưu Động ở
ngoại quốc. Ngày 14, tháng 6, 1965, Đại Hội Quân Lực
VNCH gồm 50 Tướng Lãnh đã họp và cử Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc
Gia (Quốc Trưởng), và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư
Lệnh Không Quân làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương
(Thủ Tướng) Lúc này Dinh Độc Lập đang được xây cất
chưa xong nên Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo
Quốc Gia tạm đặt Văn Phòng tại Dinh Gia Long.
Trước
8 giờ 30 tôi vào trình diện Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh
Văn Phòng Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Ông
đưa tôi sang một phòng họp rất rộng ở bên cạnh Văn
Phòng của Ông. Phòng rộng có thể chứa cả trăm người
họp, nhưng hôm nay phòng bỏ trống, các ghế xếp dựng
dọc các thành tường. Giữa phòng chỉ có một cái bàn
dài, mỗi bên có 5 ghế, thêm 2 ghế 2 đầu là 12 ghế.
Tôi ngồi trên một ghế để chờ, chồng tài liệu sách
vở và bản đồ để trên bàn. Đúng 8 giờ 30, Đại Tá
Chánh Văn Phòng mở một cánh cửa ở bên hông, Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu bước vào, theo sau Ông là Thiếu Tướng
Phạm Quốc Thuần Phụ Tá Quân Sự và Đại Tá Vũ Ngọc
Tuấn Sĩ Quan Tùy Viên cùng vào.
Trung
Tướng Thiệu kéo ghế ngồi ở đầu bàn, và chỉ một
ghế bên tay trái, tươi cười bảo tôi ngồi vào đấy.
Thiếu Tướng Phạm Quốc Thuần thì ngồi ở một ghế xa
tận đầu bàn bên kia. Đại Tá Vũ Ngọc Tuấn, Sĩ Quan
Tùy Viên của Trung Tướng thì đứng tận xa mãi tận một
góc ở cuối phòng. Tôi chào Trung Tướng và nói theo lệnh
Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị lên gặp Trung Tướng.
Trung Tướng nói: “Tôi nghe nói Anh làm công tác Thượng
Vận đã lâu, và rất am tưởng về vấn đề này, nên
tôi muốn gặp Anh để nghe Anh trình bày và tôi cũng rất
muốn biết vấn đề này ra sao?”
Tôi
trải lên mặt bàn tấm bản đồ những sắc dân thiểu
số ở Đông Nam Á và thưa với Ông: “Thưa Trung Tướng,
nếu Trung Tướng cho phép, tôi sẽ trình bày sơ qua vấn
đề thiểu số của các nước xung quanh, như Trung Quốc,
Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Lào, Miên, Miền Bắc Việt
Nam, và cuối cùng sẽ trình bày vấn đề ở trên Cao
Nguyên Miền Nam Việt Nam vì tất cả có liên hệ xa gần,
trực tiếp và gián tiếp với nhau.” Ông đồng ý bảo
tôi cứ tuần tự trình bày.
Chỉ
tay trên bản đồ tôi nói: “Đây là biên giới giữa
Trung Quốc và các nước láng giềng Miến Điện, Thái
Lan, Lào, và Việt Nam. Từ 1949, Cộng Sản đã thành công
chiếm trọn Trung Hoa, và thành lập ra nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng
Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan. Mao Trạch Đông có dã
tâm muốn xâm lược các nước Đông Nam Á, đã từng
tuyên bố sẽ đưa 500 triệu nông dân Tàu xuống các nước
miền Nam. Để thực hiện mộng ước xâm lược này Mao
chủ trương một chính sách rất thâm độc là “Dùng Man
Di quản lý Man Di”. Ở dọc biên giới Trung Quốc và các
nước vừa kể có rất nhiều các Sắc Tộc Thiểu Số ở
cả hai bên biên giới. Họ đều thuộc các hệ ngôn ngữ
Hmong-Miền Thai-Kdai, Hán – Tạng vv. Bên phía Trung Quốc,
Mao bắt chước Nga Sô, tổ chức các vùng có các sắc tộc
thiểu số thành các Khu, các Châu, các Kỳ, các Huyện Tự
Trị. Lãnh tụ tự nhiên của các sắc tộc thiểu số
được quyền cai trị dân chúng của mình một phần nào
thôi dưới sự cai trị và giám sát trực tiếp của các
cán bộ hành chính địa phương của Trung Quốc. Rồi dùng
những Lãnh Tụ này lôi kéo những bà con thân thuộc cùng
sắc tộc ở các nước bên kia biên giới đòi tự trị
và hướng về Trung Quốc.
Ví
dụ trường hợp ở Miến Điện, dưới thời thuộc địa
của Anh, người Anh có chính sách chia để trị y như
người Pháp đã áp dụng ở Việt Nam. Người Anh dùng
người Ấn để kiểm soát hành chánh kinh tế và cho các
săc tộc thiểu số ở xung quanh nhiều quyền tự trị để
khống chế nhà cầm quyền người Miến ở Thủ Đô trung
ương.
Năm
1948, khi lấy lại được nền Độc Lập khỏi Thực Dân
Anh, Chính Phủ Miến đã tổ chức Quốc Gia thành một
Liên Bang nhưng các Săc Tộc Thiểu Số với sự xúi dục
của Trung Cộng vẫn muốn có nhiều quyền hành hơn để
duy trì những tài nguyên của họ như vàng, ngọc bích và
thuốc phiện v v. Có tới 20 nhóm võ trang thiểu số, đáng
kể nhất là ở Vùng Tam Giác Vàng bên Miến Điện, và
Thái Lan có Sắc tộc Shan, với trùm buôn thuốc phiện
Khun Sa là có vũ khí hùng mạnh hơn cả. Chính phủ Miến
Điện sau nhiều lần thất bại trong nỗ lực thương
thuyết nên đã sử dụng quân đội để đánh dẹp lực
lượng võ trang của các sắc tộc thiểu số, nhưng không
thành công. Nội chiến cứ thế kéo dài suốt từ năm
1948 đến nay chưa dứt. Mặt khác để giảm thiểu sự
can thiệp của Trung Cộng vào vấn đề sắc tộc chính
phủ Miến cũng phải áp dụng một chính sách ngoại giao
thân thiện với Trung Cộng và dành cho Trung cộng nhiều
dễ dài trong việc đầu tư kinh tế, khai thác những tài
nguyên và sử dụng vị trí địa dư của Miến như là
một con đường chuyển vận hàng hóa nguyên liệu, năng
lượng lên những tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên vv là những
tỉnh nằm sâu trong đất liền xa vùng duyên hải trù phú
ở dọc bờ biển Miền Đông. Quan trọng hơn nữa là
Trung Cộng có thể dùng hải cảng của Miến cho những
tàu chiến của Trung Cộng có thể hoạt động ở Ấn Độ
Dương tranh hùng với Ấn Độ. Chắc chắn Hoa Kỳ cũng có
những hoạt động ở Miến để Miến khỏi rơi vào tay
Trung Cộng, nhưng đến nay tôi chưa sưu tầm được tin
tức về vấn đề này.
Còn
đây là Thái Lan, đất nước này có 75% người Thái, 14%
người Hoa, 3% người Mã Lai, ngoài ra còn người Môn,
người Khmer, người Chăm, người Việt, và nhiều sắc
tộc thiểu số nói tiếng Thai-Kdai, Hmông-Miền ở dọc
biên giới phía Bắc giáp ranh với Miến Điện, và Lào
như Shan, Lự, Lahủ, Karen, Hmông v.v. Thái Lan hiện cũng
đang gặp khó khăn về vấn đề thiểu số.
Khó
khăn thứ nhất là nhóm sắc tộc Shan ở Khu Tam Giác Vàng
ở 2 Tỉnh Chiêng Rai, Chiêng Mai bên Thái Lan cũng bị Vua
thuốc phiện Khun Sa bên Miến Diện kiểm soát. Lượng
thuốc phiện sản xuất ở đây chiếm tới ¾ lượng
thuốc trên thế giới. Trung Quốc bán vũ khí lấy thuốc
phiện kiếm lời. Các con buôn thuốc phiện người Hoa ở
Hồng Kông, Chợ Lớn VN, Bankok, Mã Lai cũng bí mật buôn
để tung ra thị trưởng thế giới. Vì Khun Sa có vũ khí
hùng mạnh, quân đội Miến chưa dẹp được, và chính
phủ Thái cũng gặp khó khăn để kiểm soát vùng này.
Khó khăn thứ hai do nhóm
người Hoa và người Việt gây ra. Lúc đầu họ thành lập
hai Đảng Cộng Sản riêng. Sau họ sáp nhập làm một để
hoạt động chung với mục đích là lật đổ chính phủ
Hoàng Gia Thái. Trung Cộng và Việt Cộng yểm trợ mọi
hoạt động của họ. Đến nay lực lượng vũ trang của
họ cũng đã có cả ngàn người. Lào vốn có hận thù
với Thái vì bị Thái đô hộ, nhờ Pháp mà lập được
quốc gia. Nhưng khi Pháp và Thái phân định biên giới
giữa hai nước đã lấy Sông Mê Kông làm ranh giới, khiến
cho cả một vùng rất đông dân Lào chiếm tới 1/3 dân số
Thái, nay là Vùng Đông Bắc Thái nhập vào lãnh thổ Thái.
Lào luôn luôn mong muốn giành lại vùng đất này, nên đã
cho Đảng Cộng Sản Thái đặt căn cứ trên đất Lào và
hoạt động mạnh trong Vùng Đông Bắc Thái.
Khó khăn thứ ba do nhóm
thiểu số người Hoa và Mả Lai ở phía Nam gây ra. Để
xâm lăng Mã Lai, Trung Cộng yểm trợ người Hoa ở Mã Lai
thành lập Đảng Cộng Sản, và hoạt động võ trang chống
chính quyền. Đảng Cộng Sản Mã Lai đặt căn cứ nơi có
người Mã và người Hoa ở Miền Nam Thái. Họ vừa đánh
phá Mã Lai vừa chống Thái Lan đòi ly khai sáp nhập vào
đất Mã Lai.
Chinh Phủ Thái vùa dùng
quân đội, cảnh sát đánh dẹp vừa dùng thương thuyết
lôi cuốn họ trở về hợp tác với chính quyền nhưng
chưa thành công. Xưa nay truyền thống ngoại giao của Thái
Lan vẫn là “gió chiều nào ngả theo chiều đó”. Hễ
cường quốc nào hiện diện trong vùng là Thái làm thân
để tránh chiến tranh và lợi dụng sức mạnh của họ
cho lợi ich của riêng mình. Hiện nay Hoa Kỳ là một cường
quốc đang nỗ lực can thiệp vào chiến tranh ở Việt Nam
chống lại sự bành trướng của Nga Sô, Trung Cộng Đệ
Tam Đế Quốc Cộng Sản. Thái Lan đã cho Hoa Kỳ đặt
nhiều căn cứ trên đất Thái để yểm trợ cho các hoạt
động chiến tranh ở 3 nước Đông Dương. Trung Cộng mới
thành công lấy được quyền hành trong tay Tưởng Giới
Thạch, chưa đủ mạnh để thành một cường quốc nên
Thái chưa kết thân với Trung Cộng, và vẫn tự lực cùng
với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, để giải quyết những
khó khăn với nhóm thiểu số ở Tam Giác Vàng, nhòm Cộng
Sản Việt-Hoa, và nhóm
Cộng Sản Hoa – Mã.
Trong khi tôi trình bày,
Trung Tướng chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng mới ngắt
lời hỏi lại một vài điều muốn tôi trình bày chi tiết
hơn và rõ ràng hơn. Khoảng nửa giờ, một giờ, Đại Tá
Chánh Văn Phòng lại mở cửa trình rằng đã đến giờ
hẹn với một vị khách nào, hay đoàn thể nào, nhưng
Trung Tướng đều khoát tay nói: “Tôi đang bận. Việc
này quan hệ hơn. Dời lại và sắp xếp một cái hẹn
khác.”
Tiếp tục trình bày tôi
đề cập đến tình hình ở Lào. Chỉ trên bản đồ, tôi
nói đây là nước Lào. Năm 1949, Trung Cộng thắng, Tưởng
Giới Thạch chạy ra Đài Loan, tàn quân Quốc Dân Dảng
khác chạy sang các nước Lào, Thái Lan, Miến Điện, và
cả sang Vùng Tây Băc của Việt Nam. Khun Sa, trùm buôn
thuốc phiện bên Tam Giác Vàng của Thái và Miến là con
một Sĩ quan Quốc Dân Đảng, và mẹ là một người Shan.
Nhóm tàn quan QDĐ ở bên Lào tập trung ở Vùng Tam Giác
Vàng thuộc tỉnh Bokeo. Họ cũng kinh doanh thuốc phiện lậu
để mua vũ khí lương thực tiếp tục chống Trung Cộng
và kiểm soát vùng này. Chính Phủ Lào không thể kiểm
soát được họ. Nhưng sự kinh doanh thuốc phiện cũng
khiến có sự cạnh tranh va chạm với sự kinh doanh thuốc
phiện của trùm Khun Sa bên Thái và Miến. Do đó thường
có những sự đụng độ quân sự giữa hai bên. Không
biết Cơ Quan Tình Báo Trung Ương của Mỹ ở Thái Lan có
trợ giúp gì cho những đám tàn quân QDĐ này để chống
Trung Cộng hay không?
Riêng với chính phủ
Hoàng Gia Lào thì sau khi Pháp thua trận Diện Biên Phủ,
phải ký kết Hiệp Định Geneve 1954, và rút khỏi 3 Nước
Đông Dương, fhì Hoa Kỳ đã trực tiếp giúp Chính Phủ
Lào, cùng vói sự trợ giúp của Chính Phủ Thái và Chính
Phủ VNCH ở Miền Nam VN. Trong khi ấy thì Nga Sô, Trung
Cộng, và Việt Cộng Bắc Việt trợ giúp cho Đảng Cộng
Sản Pathet Lào và những thành phần Trung Lập Lào chống
lại Chính Phủ Hoàng Gia. Sau Hiệp Định Geneve 1954, Lào
hoàn toàn được Độc Lập. Pathet Lào là lực lượng
kháng chiến được tập kết ở hai tỉnh Phongsaly và Hua
Phăn ở cực Băc Lào ráp gianh với Trung Cộng và Vùng Tây
Bắc của VN để chờ bầu cử theo Hiệp Định. 1955 bầu
cử được diễn ra, Chính Phủ Liên Hiệp đầu tiên được
thành lập do Phe Trung Lập Lào làm Thủ Tướng. Nhưng vì
có sự chia rẽ nội bộ trong Hoàng Gia Lào, một phe Bảo
Hoàng do Hoàng Thân Boun Oum, một Tiểu Vương Vùng Champasak
Hạ Lào cầm đầu, một Hoàng Thân theo Cộng Sản Lào là
Souphanouvong, một Hoàng Thân khác chủ trương Trung Lập là
Souvanna Phouma, em trai cùng cha khác mẹ của Hoàng Thân
Souphanouvong, cộng thêm sự can thiệp của hai bên trợ
giúp kể trên nên nhiều cuộc đảo chánh đã xẩy ra, nội
chiến lại tiếp diễn.
Năm 1959, Quân Đội Pathet
Lào, và cả Quân Đội Công Sản Bắc Việt, hình như có
cả sự tham dự của Quân Đội Trung Cộng như hồi có
chiến trận Điện Biên Phủ, mở cuộc tấn công lớn vào
Quân Đội Hoàng Gia Lào. Chính Phủ Lào tố cáo với Liên
Hiệp Quốc là Việt Cộng Bắc Việt xâm lược Lào. Cuộc
chiến giằng co kéo dài chưa ngã ngũ. 1961, Hoa Kỳ đồng
ý cùng Nga Sô mở Hội Nghị Geneve chấp nhận Trung Lập
Hóa Nước Lào, cả hai bên đều đồng ý rút quân. Trong
khi Hoa Kỳ rút lui không can dự ảnh hưởng vào Chính Phủ
Trung Lập Lào do Thủ Tướng Souvanna Phouma lãnh đạo, thay
thế Thủ Tướng Chính Phủ Hoàng Gia Lào Boun Oum, từ 1962
cho đến nay, thì Bắc Việt chỉ rút một số ít tượng
trưng, còn đại bộ phận Quân Đội Bắc Việt vẫn ở
lại, yểm trở Pathet Lào mở rộng sự kiểm soát nước
Lào và giúp Cộng Sản Bắc Việt mở rộng Đường Mòn
Hồ Chí Minh chuyển quân đội, vũ khí vào xâm lược Miền
Nam Việt Nam.
Trước tình hình chính
trị rối ren của chính phủ Lào, tình trạng của các sắc
tộc thiểu số Lào rất khốn khổ. Họ gồm 48 sắc tộc,
chiếm tới 32% dân số Lào. Một nhóm ở Vùng Cao Miền
Bắc gọi là Lào Sủng (Lào Vùng Cao), gồm Hmong (Mèo),
Dao (Yao, Miền), Thái Đen, Shan, vv. Một nhóm ở miền núi
Miền Trung và Nam Lào gồm những sắc tộc cùng hệ ngôn
ngữ Môn – Khmer như người Thượng ở Cao Nguyên VN, dược
gọi là Lào Thơng. Nằm trong sự kiểm soát của Pathet Lào
và Quân Đội Cộng Sản Việt Bắc họ phải đóng thuế
thật nặng, con trai thì bị bắt đi lính , đàn bà con gái
đàn ông thì đi dân công làm những việc nặng nhọc
khuân vác, địu trên lưng, chặt quang rừng làm đường
sá v..v Thuốc phiện của họ bị Cộng Sản độc quyền
thu mua, đem về tung ra thị trường thế giới để mua vủ
khí của Nga Sô. Người thiểu số đã chống lại Cộng
Sản Lào và Việt. Nổi bật nhất là săc tộc Hmông với
Tướng Vang Pao trong Quân Đội Hoàng Gia Lào.
Từ 1961 đến nay Vang Pao
được CIA Mỹ sử dụng lập căn cứ ở sắc tộc Hmong ở
Long Cheng, Cao Nguyên Trấn Ninh giáp ranh giới với Nghệ
An, huấn luyện đạo quân du kích bí mật để chống
Pathet Lao, đánh phá ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh,
và xâm nhập phá hoại Cộng Sản Bắc Việt. Quân số đã
lên tới nhiều ngàn người. Đối phó lại Pathet Lao cũng
bắt lính người Hmong với số lượng tương đương để
đánh quân Vang Pao. Săc Tộc Hmong hiện đang ở trong hoàn
cảnh bắn giết lẫn nhau, môt bên do CIA Mỹ tổ chức,
huấn luyện chỉ huy, một bên do Pathet Lao băt đi lính.
Vừa rồi là tình hình
người thiểu số ở Lào. Bây giờ là vấn đề thiểu số
ở Miên (Kampuchia)
Miên có 10% dân số là
người thiểu số gồm Chăm, Mã Lai, Lào,Thái, Miến, Hoa,
Việt, và khoảng 10 săc tộc Thượng như người Thượng
ở Việt Nam, trong số này chủ yếu là sắc tộc Phnong,
cùng sắc tộc với người Mnông Tỉnh Quảng Đức Việt
Nam, người Jarai cùng sắc tộc với người Jarai ở
Pleiku, Phú Bổn.
Trong số những sắc tộc
thiểu số ở Miên, người Việt bị hận thù, kỳ thị
và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhiều khi
bị giết hại ngấm ngầm. Hiện nay Quốc Trưởng Miên là
Cựu Hoàng Norodom Sihanouk. Ông chủ trương chính sách Trung
Lập nhưng nghiêng về khối Cộng Sản Nga Tầu để thu về
những mối lợi viện trợ, buôn bán, nhờ yểm trợ cho
Cộng Sản Miền Bắc mở chiến tranh xâm lược Miền Nam.
Do đó có sự bất hòa với Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tình Báo Phủ Tổng
Thống VN phối hợp với Tòa Đại Sứ VN ở Phnom Penh đã
âm mưu đảo chánh hụt Sihanouk vào tháng 2 – 1959, và mưu
sát hụt Sihanouk và vợ vào tháng 6, 1961, nên năm 1963,
Sihnouk cho lệnh tập trung 3 tổ chức chống phả VN thành
môt tổ chức gọi là Tổ Chức FULRO, Front Unifié de la
Lutte des Races Opprimeés, Mặt Trận Thống Nhất Tranh Đấu
Của Các Dân Tộc Bị Áp Bức. Ba tổ chức ấy là Mặt
Trận Giải Phóng Vùng Hạ Kampuchia (Front de Liberation du
Kampuchia Krom), Mặt Trận Giải Phóng Vùng Bắc Kampuchia
(Front de Liberation du Kampuchia Nord), và Mặt Trận Giải
Phóng Nước Chàm Front de Liberation du Champa) để đánh phá
VN. Tổ chức FULRO do Đại Tá Um Savuth, Trưởng Phòng 2
Quân Đội Hoàng Gia Miên, làm Chủ Tịch, và Trung Tá Les
Kosem, người Miên gốc Chăm làm Phó.
1964, Tổ chức này móc
nối với một số người Thượng trong các Trại Lực
Lượng Đặc Biệt Thượng ở Tỉnh Đắc Lắc của ta,
tấn công chiếm Banmêthuột để thành lập một Vùng Tự
Trị của người Thượng trên Cao Nguyên, gây ra Biến Cố
20, tháng 9, 1964,tại Banmêthuột. Sau Biến Cố này Tổ
Chức FULRO ở Phnom Penh, có thêm Y Bhăm, cựu Phó Tỉnh
Trưởng Darlac, là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch, và hàng ngàn
tay súng của người Thượng đi theo Y Bhăm đóng ở Tỉnh
Mondulkiri Gần đây qua tin tức của những người Thượng
theo FULRO đi qua lại giữa Phnom Penh và Banmêthuột cho
biết, họ được cho ăn ở, được phát lương hàng
tháng, được đi tắm biển có chụp hình rất đẹp. Theo
họ nói Trung Tá Les Kosem Đệ Nhất Phó Chủ Tịch FULRO là
người rất giàu. Hăn ta được Quốc Vương Sihanouk giao
nhiệm vụ chuyên chở vũ khí đạn dược do Nga, Tầu chở
đến Cảng Sihanoukville lên các căn cứ của Việt Cộng
được phép của Sihanouk cho đồn trú trên đất Miên sát
biên giới VN. Lợi dụng nhiệm vụ này hắn cũng thầu
cung cấp gạo, thực phẩm và những đồ cần dùng cho
Việt Cộng. Vì vậy hắn giàu lắm!
Thưa Trung Tướng tôi đã
trình bày tình hình các sắc tộc của các nước xung
quanh như Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Lào, Miên. Ở đâu
cũng thấy có bàn tay của Trung Cộng nhúng vào theo chính
sách “Dùng Man Di quản lý Man Di”. Còn ở Lào, Miên thì
có thêm cả Nga, và Việt Cộng nữa. Bây giờ tôi trình
bày tiếp Vấn Đề Sắc Tộc Thiểu số ở Miền Bắc và
Miền Nam VN.
Sau Hiệp Dịnh Geneve
1954, Miền Bắc cũng phải giải quyết chính sách chia để
trị của Thực Dân Pháp để lại, như Vua Xứ Thái ở
Sơn La, Lai Châu, Vua Mèo ở Đồng Văn, Mèo Vạc ở Hà
Giang v..v
Để lấy lòng người
Thượng Miền Bắc và người Thượng Miền Nam hầu có
thể dùng tài nguyên nhân vật lực của đồng bào trong
cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam, Đảng Cộng Sản
cũng bắt chước chính sách của Nga Sô, Trung Cộng, cho
thành lập những Khu Tự Trị cho các sắc tộc thiểu số,
và phong cho những lãnh tụ của họ những chức vụ cao
trong Đảng và chính quyền.
Vào tháng 1, 1955, nhà cầm
quyền Miền Bắc tổ chức một buổi lễ có tới 600 đại
biểu thiểu số tham dự. Trước những đại biểu này Hồ
Chí Minh tuyên bố chính sách này và hứa sẽ cho thành lập
cho họ những Khu Tự Trị.
Ngày 29, tháng 4, 1955, Khu
Tự Trị Thái – Mèo được thành lập đầu tiên. Khu này
gồm các Tỉnh Sơn La, Lai Châu, nên còn gọi là Khu Tự
Trị Tây Bắc. Tháng 5, 1955, Ủy Ban Lãnh Đạo Khu Tự Trị
Thái-Mèo ra mắt. Tất cả có 23 Ủy Viên, trong đó chỉ
có 2 Ủy Viên thuộc sắc tộc Kinh.
Ngày 10, tháng 8, 1956, Khu
Tự Trị thứ hai được thành lập có tên là Khu Tự Trị
Tày – Nùng. Khu này gồm các Tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái,
và Lạng Sơn nên còn có tên là Khu Tự Trị Việt Bắc.
Ủy Ban Lãnh Đạo Khu Tự Trị này có tới 72 Ủy Viên,
đứng đầu là Tướng Chu Văn Tấn, sắc tộc Nùng.
Thang 3, 1957, thành lập
thêm một Khu Tự Trị thứ ba, có tên là Khu Tự Trị
Lào-Hà-Yên, gồm 3 Tỉnh Lào Kay, Hà Giang, Yên Bái. Tháng
3, 1959, Khu Tự Trị này bị dẹp bỏ một cách âm thầm
không rõ lý do.
Năm 1954, theo Hiệp Định
Geneve, Hà Nội phải rút hết quân đội về Bắc Vỹ
Tuyến 17. Họ đã mang theo được khoảng 6 ngàn người
thiểu số Miền Nam tập kết ra Bắc. Phần lớn là quân
nhân và gia đình họ. Những người này đã được huấn
luyện kỹ càng. Năm 1959, 1960, Hà Nội lại cho họ theo
Đường Mòn Hồ Chí Minh, từng toán một, xâm nhập vào
Cao Nguyên Miền Nam để bí mật tuyên truyền lôi kéo Đồng
Bào Thượng theo Cộng Sản, chống lại Chính Phủ Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngày 20, tháng 12, 1960,
Đảng Cộng Sản cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam để lừa bịp dư luận các nước trên thế giới nghĩ
rằng cuộc chiến tranh nổi dậy ở Miền Nam là do dân
Miền Nam đấu tranh chống nhà cầm quyền của họ, không
liên can gì tới Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Miền Bắc. Ngày 19, tháng 5, 1961, Mắt Trận Giải Phóng
Miền Nam cho thành lập Ủy Ban Dân Tộc Tự Trị Tây
Nguyên, sau đổi thành Tổ Chức Tây Nguyên Tự Trị. Y Bhi
Aleo, sắc tộc Rhadé được bầu làm Chủ Tịch. Người
này vốn là Cựu Xã Trưởng, theo Phong Trào Bajaraka, (chữ
đầu của 4 sắc tộc lớn trên Cao Nguyên: Bahnar, Jarai,
Radhé, Kahô), chống Chính Phủ của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Theo những tài liệu tịch thu được của Cộng Sản
trong các cuộc hành quân ở Cao Nguyên thì Võ Nguyên Giáp
đã chủ trương xâm chiếm Miền Nam bằng “Chiến Lược
Hai Chân”, đặt chân trái lên Cao Nguyên trước, đặt
chân phải xuống đồng bàng Nam Bộ sau. Cao Nguyên chính
là mục tiêu xâm chiếm hàng đầu của Cộng Sản Bắc
Việt.
Thưa Trung Tướng, tôi
nghĩ Chính Sách Tự Trị cho các Vùng có các sắc tộc
thiểu số cư ngụ vừa có lợi nhưng cũng vừa có hại,
mà cái hại thì rất là to lớn lâu dài về sau rất khó
giải quyết. Ví dụ, trong nhất thời Cộng Sản có thể
tuyên truyền lấy lòng người thỉểu số để khai thác
lợi dụng họ trong chiến tranh. Nhưng từ trước đến
nay mọi chủ trương chính sách của Cộng Sản chỉ là
lừa bịp trong giai đoạn. Khi đạt được mục đich thì
bỏ rơi theo kiểu “văt chanh bỏ vỏ”. Nếu sau này vì
một lý do nào đó Cộng Sản xóa bỏ chính sách cho người
thiểu số được tự trị, thì người thiểu số Miền
Bắc sẽ bất mãn chống đối lại. Đất nước như là
một miếng bánh, đang yên lành nguyên vẹn, bỗng dưng
chia cắt ra thành nhiều miếng, dù có hàn gắn lại vết
căt vẫn để lại dấu vết. Trung Cộng sẽ có cớ để
can thiệp và xâm lược. Qua các Khu Tự Trị ở bên kia
biên giới Tầu, các sắc tộc thiểu số đều cùng bà
con với các sắc tộc thiểu số bên Việt Nam, họ có thể
bí mật chuyển vũ khí cho bà con bên này đấu tranh đòi
Tự Trị, đòi có nhiều quyền hành hơn, và nhất là đòi
ly khai sáp nhập vào những Khu Tự Trị cùng bà con bên
Trung Cộng theo “Quyền Dân Tộc Tự Quyết”.
Còn ở trên Cao Nguyên
Miền Nam, Đồng Bào Thượng rất chuộng “Chữ Tín”.
Đã hứa thì phải giữ lời, làm khác đi không giữ lời
hứa họ sẽ bảo là “Nói Láo”
họ sẽ không bao giờ tin
nữa. Họ sẽ lại bất mãn, đấu tranh và hận thù sẽ
mãi mãi kéo dài không bao giờ dứt. Đối với tôi, Chính
Sách Tự Trị này là một mối họa tiềm ẩn lâu dài có
hại cho sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt
Nam!
Đấy là Vấn Đề Thiểu
Số ở Miền Bắc, còn Vấn Đề Thiểu Số ở Miền Nam
thì như sau:
Dưới thời Pháp thuộc,
Pháp thi hành chính sách chia để trị. Họ chia rẽ Kinh
Thượng, gây thù hận giữa hai bên, người Kinh bị cấm
lên Cao Nguyên, muốn lên phải có giấy phép. Tư bản Pháp
độc quyền khai thác Cao Nguyên. Khi trở lại Cao Nguyên
sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ngày 27, tháng 6,1946,
toàn quyền,
D' Argenlieu biến Cao
Nguyên thành một Miền Tự Trị riêng gọi là Pays
Montagnards du Sud Indochine (PMSI), với một nền hành chánh
riêng biệt trực thuộc Pháp. Đến khi phải ký Thỏa Hiệp
với Cựu Hoàng Bảo Đại ngày 8, tháng 3, 1949, trao trả
Độc Lập cho Việt Nam, thì trong Thỏa Hiệp Pháp cũng
buộc VN phải ban bố những Quy Chế Riêng Biệt cho những
sắc tộc không phải người Kinh trên Cao Nguyên. Nội dung
Quy Chế này phải được sự thỏa thuận của Pháp, và
nếu có sửa đổi điều gì cũng phải có sự đồng ý
và được phép của Pháp.
Ngày 25, tháng 7, 1950, Cựu
Hoàng ra Sắc Lệnh tổ chức Cao Nguyên thành một Vùng
riêng biệt gọi là Hoàng Triều Cương Thổ, trực thuộc
Văn Phòng Quốc Trưởng đặt tại Đà Lạt. Ngày 21, tháng
5, 1951, Văn Phòng Quốc Trưởng ra Dụ số 10, ban hành Quy
Chế Riêng Biệt nâng đỡ Đồng Bào Thượng. Người
Thượng rất hài lòng với Bản Quy Chế này, sau này họ
cứ đòi hỏi phải tái lập lại Bản Quy Chế Riêng Biệt
cho họ.
Sau một cuộc Trưng Cầu
Dân Ý, ngày 26, tháng 10, 1955, Cựu Hoàng Bảo Đại bị
truất phế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm hủy bỏ Hoàng
Triều Cương Thổ, và cũng không nhắc gì đến Quy Chế
Riêng Biệt cho Đồng Bào Thượng. Các Quân Nhân Công Chức
Thượng đang giữ những chức vụ chỉ huy quan trọng trên
Cao Nguyên đều bị mất chức và bị thay thế bởi người
Kinh. Họ còn bị bắt buộc đồi tên họ từ tên họ
Thượng sang tên họ Kinh. Tiếng Thượng không được dạy
ở các trường trên Cao Nguyên nữa. Bao nhiêu sách dạy
học bằng tiếng Thượng để ở trong kho các trường học
thì theo lệnh Bộ Giáo Dục phải đem đốt hết cả đi.
Các địa danh bằng tiếng Thượng cũng bị đổi thành
địa danh Kinh. Ví dụ Hdrung, tên một ngọn đồi ở
Pleiku thì đổi thành Hàm Rồng. Hồ Lak thì đổi thành Hồ
Lạc Thiện v..v. Nhưng điều mà người Thượng phẫn uất
nhất là quyền sở hữu đất đai của họ không được
Chính Phủ công nhận. Năm 1958, Tổng Thống ký một Nghị
Định ấn định rằng người Thượng không có quyền sở
hữu đât đai mà chỉ có quyền hưởng dụng hoa màu canh
tác.
Vì những biện pháp trên
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên người Thượng đã
chống đối, thành lập Phong Trào Bajaraka, họp ở Pleiku,
năm 1958, để gửi kiến nghị lên Tổng Thống. Công An đã
bắt hết đoàn viên của Phong Trào đem bỏ tù, và còn
cho thuyên chuyển phần lớn công chức Thượng xuống các
Tỉnh
Duyên Hải Miền Trung, tạo
nên một khoảng trống về lãnh đạo chỉ huy trong các
sắc tộc. Đây chính là cơ hội cho Cộng Sản Bắc Việt
cho những cán bộ Thượng đã tập kết ra bắc, trở về
nắm lấy các sắc tộc Thượng ở Cao Nguyên. Cũng vì thế
tình
trạng an ninh càng ngày
càng tồi tệ, khiến cho dân chúng nhiều Buôn, Plei phải
bỏ Buôn làng di cư tị nạn về những vùng có an ninh
hơn.
Trước tình hình ấy CIA
và Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đã huấn luyện dân
Buôn, phát vũ khí thành lập Lực Lượng Dân Sự Chiến
Đấu Thượng để bảo vệ Buôn làng. Lực Lượng Đặc
Biệt Mỹ cũng huấn luyện và thành lập nhiều Trại Lực
Lượng Đặc Biệt Thượng đóng dọc biên giới giáp với
Lào, Miên để ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội
Bắc Việt theo Đường Mòn Hồ Chí Minh vào Cao Nguyên và
xuống Duyên Hải Miền Trung.
Bất ngờ đã xẩy ra
Biến Cố ngày 20, tháng 9, 1964, tại Tỉnh Darlak. 5 Trại
Lực Lượng Thượng trong Tỉnh đã kéo về chiếm Đài
Phát Thanh, bao vây Thị Xã, tuyên bố thành lập Miền Cao
Nguyên Tự Trị. Theo lệnh Thủ Tướng Nguyễn Khánh, tôi
và một số người Thượng có uy tín đã thuyết phục
thành công họ buông súng trở về với chính phủ và tiếp
tục đi chiến đấu trở lại. Tình báo Thượng phát hiện
ra kẻ chủ mưu cuộc phản loạn này là Tổ Chức FULRO do
Sihanouk thành lập để đánh phá VN, chia cắt Miền Cao
Nguyên ra khỏi VN, đồng thời tái lập lại nước Chàm,
lấy Nha Trang làm Thủ Đô.
Sau khi dẹp yên cuộc
phản loạn ấy Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã ban hành một
chính sách mới bảo đảm Dân Quyền và Nhân Quyền cho
Đồng Bào Thượng nói riêng và cho toàn thể Đồng Bào
Thiểu Số VN nói chung. Chính sách mới đã hứa sẽ ban
hành nhiều chương trình nâng đỡ phát triển đời sống
dồng bào mau chóng tiến kịp với đời sống chung của
đồng bào toàn quốc. Chính Sách này đảm bảo được
Chủ Quyền Quốc Gia và Sự Toàn Vẹn Lãnh Thổ. Nha Công
Tác Xã Hội Thượng dưới thời Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã được đổi thành Nha Đặc trách Thượng Vụ
trực thuộc bộ Quốc Phòng, do một Trung Tá người Kinh
phụ trách. Sau Thủ Tướng lại bổ nhiệm Trung Tá Ya Ba,
người sắc tộc Churu, ở Đà Lạt, về làm Giám Đốc
Nha, và đặt Nha trực thuộc Phủ Thủ Tướng. Bây giờ
thì trực thuộc Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung
Ương.
Nha Đặc Trách Thượng
Vụ là một cơ quan nhỏ, nhân viên ít, ngân sách eo hẹp,
không thể có những chương trình phù hợp với nhu cầu
phát triển đồng bào. Nha cũng không có thẩm quyền để
phối hợp và cố vấn cho các Bộ, các Tổng Nha thực
hiện những chương trình chuyên môn trên Miền Thượng.
Thí dụ chương trình Kiến Điền cấp phát bằng khoán
đất đai cho đồng bào. Quan trọng nhất là Nha cũng chưa
xúc tiến được việc thuyết phục thành phần Thượng
võ trang trong Tổ Chức FULRO hiện đóng ở Mondulkiri. Nếu
không sớm thực hiện được những điều ghi trong Chính
Sách mới, đồng bào sẽ nóng lòng, hoài nghi những lời
hứa của Chính Phủ, và tôi e rằng Tổ Chức FULRO ở
Phnom Penh lại có thể xúi dục binh lính Thượng gây ra
những cuộc bạo loạn khác. Nếu Cộng Sản lợi dụng
khai thác tình trạng bất ổn này mà lấy được Cao
Nguyên thì chắc chắn cũng khó mà giữ được Miền Nam!
Thưa Trung Tướng phần
trình bày của tôi đến đây là hết. Trung Tướng có cần
hỏi thêm điều gì, tôi sẽ xin trình bày tiếp. Mới đấy
đồng hồ treo trên tường đã chỉ 1 giờ trưa, tuy nhiên
không thấy Trung Tướng có vẻ gì là mệt mỏi. Trung
Tướng tươi cười rất hài lòng, Ông nói: “Anh đã
trình bày rất rõ ràng, tôi không hỏi gì thêm. Anh đã
thuộc hết vấn đề rồi, Anh không cần những tài liệu
này nữa. Anh để hết lại đây cho tôi, tôi cần phải
nghiên cứu thêm.” Trung Tướng, Thiếu Tướng Phạm Quốc
Thuần và Sĩ Quan Tùy Viên dời Phòng Họp. Đại Tá Chánh
Văn Phòng sang tiễn tôi và thu dọn chồng sách, bản đồ
và những tài liệu trên bàn.
Tôi ra về với sự tiếc
nuối lớn lao số tài liệu sưu tầm công phu từ nhiều
năm qua, đồng thời trong lòng cũng đầy thắc mắc. Không
biết vì sao Trung Tướng biết tôi? Và tại sao Trung Tướng
lại muốn tìm hiểu cặn kẽ vấn đề này?...
PHỦ ĐẶC ỦY THƯỢNG
VỤ
Trở
về Sư Đoàn 7 tại Mỹ Tho, tôi trình lên Thiếu Tướng
Tư Lệnh mọi diễn tiến trong cuộc gặp Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
Thiếu Tướng ghi nhận có vẻ suy tư, nhưng không nói gì.
Bẵng đi vài tháng, vào
một ngày Chủ Nhật, em Ksor Hip từ Trường Sư Phạm Long
An xhống thăm tôi. Em báo một tin quan trọng.
Có 2 tên Thượng theo Les
Kosem ở Phnom Penh đã theo lệnh của Les Kosem, lén lút giả
danh nghĩa của Ông Y Bhăm ra lệnh cho các toán võ trang
Fulro, gây bạo loạn ở Pleiku và Phú Bổn vào ngày 17,
tháng 12, 1965. Tại Quận Phú Thiện, Phú Bổn, cuộc bạo
loạn đã gây thiệt hại một số mạng người cả Kinh
lẫn Thượng. Trung Tướng Vịnh Lộc Tư Lệnh Quân Đoàn
II, và Vùng II Chiến Thuật đã cho Quân Đội đàn áp
thẳng tay. Một số kẻ phản loạn đã bị băt tại trận.
Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng II đã họp tại Pleiku
ngày 27, 28, tháng 12, 1965, và tại Banmêthuột ngày 10,tháng
2, 1966. Một số kẻ FULRO phản loạn đã bị tử hình,
một số bị kết án tù nhiều năm.
Tôi rất buồn trước
những tin như vậy!
Một ít ngày sau, bỗng
lại có Touneh Hàn Thọ xuống gặp tôi gấp. Em phấn khởi
cho biết, Anh Paul Nưr, người Bahnar, Phó Tỉnh Trưởng
Thượng Kontum đã tổ chức biểu tình ở Kontum lên án
cuộc bạo động của FULRO ở Pleiku, Phú Bổn. Sau đó Anh
lại cho tổ chức Đại Hội Kinh Thượng ở trong Tỉnh
ngày 12, tháng 2 1966, phản đối mọi hành động bạo
loạn gây mất đoàn kết Kinh Thượng.
Để giải quyết vấn đề
trên Cao Nguyên, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch
Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, cho lệnh Anh Ya Ba, Giám Đốc
Nha Đặc Trách Thượng Vụ, đạt giấy mời Anh Paul Nưr,
Anh Y Chôn Mlô, Em (Touneh Hàn Thọ), cùng với Anh Ya Ba sang
Văn Phòng Thiếu Tướng họp.
Sau khi đã kiểm điểm
tình hình trên Cao Nguyên, Thiếu Tướng hỏi Anh Em có
nguyện vọng gì không? Anh Paul Nưr đại diện mấy anh em
xin 3 điều:
-
Xin nâng Nha Đặc Trách Thượng Vụ lên thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ, trực thuộc Hội Dồng Nội Các, dể có đủ phương tiện và thẩm quyền để thi hành công tác.
-
Xin cho Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ được toàn quyền phối hợp với Bộ Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, thuyết phục nhóm FULRO Thượng do Ông Y Bhăm cầm đầu trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia.
-
Trả lại cho người Thượng chúng tôi Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm. Anh ấy là người thường giúp đỡ học sinh, sinh viên Thượng, bị An Ninh Quân Đội bắt và bị chuyển về Vùng IV Chiến Thuật.
Thiếu Tướng nói OK tất
cả 3 điều. Đổng Lý Văn Phòng sẽ làm giấy tờ. Mấy
Anh Paul Nưr, Ya ba, và Y Chôn bảo Em xuống tin cho anh biết
ngay. Anh chuẩn bi, nhận được giấy thuyên chuyển thì
Anh về ngay, để Anh Em mình cùng bắt tay vảo làm việc.
Tôi rất mừng, và tràn
đầy hy vọng. Tuy nhiên tôi vẫn thắc mắc chuyện Trung
Tướng Nguyễn Văn Thiệu hỏi tôi Vấn Đề Dồng Bào
Thượng để làm gì? Cho đến nay vẫn chưa có lời giải
đáp.
Bất ngờ một hôm có
một anh bạn thân đến thăm. Anh tên Khu Đức Hùng, Khóa
4 Đà Lạt, hiện đang là Trung Tá, giữ chức vụ Sĩ Quan
Tùy Viên Quân Sự ở Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Lào. Anh
là bạn thân với Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị, và cũng
quen thân với tôi. Nghe nói Anh lấy được một người vợ
thuộc họ hàng Hoàng Gia Lào. Anh cho biết, tuy ở Vạn
Tượng nhưng Anh vẫn theo dõi những việc tôi thực hiện
ở Cao Nguyên, và nhất là đã xin Thủ Tướng chấp thuận
một Chính Sách Mới cho Đồng Bào Thượng Anh đã đem
những chuyện tôi làm nói với Cựu Thủ Tướng Boun oum.
Sau năm 1962, Ông đã lui về sống ở Vương Quốc Champasak
của Ông ở Nam Lào. Ông đã yêu cầu Chính Phủ Lào gửi
giấy sang cho Chính Phủ Việt Nam, xin cho tôi sang làm cố
vấn cho Chính Phủ Lào để phát triển Vùng Champasak Nam
Lào của Ông. Rất tiếc Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu
đã trả lời không chấp nhận vì lý do ở Việt Nam đang
cần Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm.
Câu chuyện của Anh Hùng
đã giải đáp mọi thắc mắc của tôi. Thì ra, những
việc tôi làm trên Cao Nguyên Việt Nam đã có tiếng vang
sang đến Vạn Tượng (Vientiane), Thủ Đô Nước Lào!!!