Ngôn-ngữ việt
và tính khách-quan khoa-học
3. NHƯ VẬY THÌ KHÔNG THỂ CÓ KHÁCH-QUAN KHOA-HỌC !
Chính-danh cần-thiết cho việc xử-thế, nhưng lại là cản-trở cho tính khách-quan khoa-học.
Tôi thường để ý và khó chịu khi đọc thấy trong các bài tường-thuật hay các bản dịch từ ngoại-ngữ những từ (xưng-hô) phản-ánh cái chủ-quan và tiên-kiến của người viết. Tại sao trong thông-điệp ngày hoà-bình của Gioan Phaolô II gởi cho toàn thế-giới mà lại có thể sử-dụng từ "Ta" kênh-kiệu để dịch chữ Ich (I, Je) của Giáo-chủ ? Tại sao Gioan Phaolô II (trong bài đáp-từ nhân cuộc thăm-viếng vừa qua) lại cả gan dùng chữ "các con" để gọi các hồng-i, giám-mục việt-nam ? Rõ-ràng chính cái tâm-thức phong-kiến của người dịch đã gắn vào miệng Giáo-chủ thứ ngôn-ngữ lạc-hậu đó, chứ một hiền-nhân sla-vơ Gioan Phaolô II làm gì có thứ ngôn-từ cha-chú đó ! Từ xưng-hô việt-nam quá phong-phú. Một chữ er / sie (tiếng đức) ta có một lô từ tương-ứng: nó, ông, hắn, y, ngài, cụ, đức (ông), cậu (bé), chú (bé), thầy, anh ấy, lão ấy, bà, cô, chị, con (ấy), (thằng) cha ấy, (con) mẹ ấy... nghĩa là tuỳ tình-cảm của người dịch đối với nhân-vật được đề-cập mà ghép vào cho... hợp (lòng mình) ! Các từ er, sie, il, elle, he, she của đức, pháp, anh-ngữ không chuyên-chở một thứ tình-cảm hay phân cấp nào cả. Chúng trung-tính (neutre) khách-quan. Thành ra khi lấy tình-cảm chủ-quan của mình để áp-đặt vào một thực-tại trung-tính thì người dịch đã xuyên-tạc nguyên-bản.
Thêm nữa, đã tình-cảm chủ-quan thì nhận-định thường trở thành bản án. Cái lối tường-thuật chuyện Tổng-giám-mục E. Milingo là một thí-dụ. Khi vị này còn giữ độc-thân thì một "ngài" hai "ngài". Khi ông bỏ luật thì "ngài" tụt xuống "ông" ! (Thực ra "ông / bà" là hai đại-từ tương-đối khách-quan nhất, có thể áp-dụng cho mọi trường-hợp. Nhưng trong ngữ-cảnh của trường-hợp Milingo thì "ông" là dấu chỉ một sự hạ thấp nhân-phẩm). Không hiểu sau khi ông quay trở lại thì người viết dùng từ gì cho hợp ... với bản án phúc-thẩm của mình đây! Trớ-trêu là nhân-cách của một người ở đây hoàn toàn bị nhào-nặn bởi người viết. Mà chỉ có các cây viết người việt thôi, chứ ngòi bút âu mĩ thì không có chuyện "ngài" "ông" "y" "hắn"... này ! Mà nếu bảo là "tội" thì việc bỏ luật độc-thân của Tgm. Milingo nhằm nhò gì so với việc tách-lìa giáo-hội của Tgm. Lefèvre và của Gm. Ngô Đình Thục. Vậy mà trong hai trường-hợp sau lúc sinh-thời chẳng thấy ai bỏ "ngài" mà gọi "ông". Vì các vị ấy được nhiều người theo chăng ? Vì Giám-mục là người "mình" nên chín bỏ làm mười ? Hay vì Milingo chỉ là một ông da đen cô-thế ? Tôi nghĩ, nếu có, thì đấy chỉ là những lí-do rất phụ. Lí-do chính nằm trong cái quan-niệm sai về tội của người mình, khi coi trọng những lỗi cá-nhân (bỏ độc-thân, không vâng lời, lỗi chay-tịnh...) hơn lỗi liên-quan tới tha-nhân (thiếu bác-ái, bất-công, bóc-lột...). Phải chăng tây phương nhờ vượt qua được lối nhìn tội chiều dọc (cá-nhân) và coi trọng tội chiều ngang (liên-đới) nên mới có thể tiến lên được dân-chủ, văn-minh ?
4. Thế phải làm gì để giữ được khách-quan ?
Lối suy-nghĩ cảm-tính và thứ ngôn-ngữ tình-cảm của ta quả nguy-hiểm. Chúng như một ông quan-toà ngồi sẵn trong đầu mỗi người việt. Chúng là căn-nguyên của sự thù dai, của những hiểu-lầm, những hằn-học, chửi-bới ra-rả hàng ngày trên các diễn-đàn truyền-thông người mình. Vì khi một tình-cảm đã được bạch-hoá bằng ngôn-ngữ kết án rồi thì khó mà quay về lại được tình-trạng khách-quan ban đầu. Một lời nói ra một trăm ngựa đuổi không kịp, là thế.
Tuy nhiên, chúng ta có thể chữa được yếu điểm trên. Ý-thức được sự hiện-diện của quan-toà tình-cảm nơi mình là chúng ta đã hầu như giải-quyết xong vấn-đề.
Viết ra những điều này tôi muốn thưa chuyện với những người cầm bút là nên cẩn-trọng hơn, đặc-biệt trong ngôn-từ xưng-hô. Viết giải-trí hoặc để hô-hào bà-con làm gì thì sao cũng được. Nhưng khi làm khoa-học thì không nên để Chính-danh chi-phối ngòi bút. Tại sao hễ đụng tới Phan Bội Châu là một "cụ" hai "cụ" ? Chả cần cụ thì Phan Bội Châu với tuổi đời, tấm lòng và sự-nghiệp của ông cũng đã đáng trọng rồi. Nếu chỉ căn-cứ tuổi-tác thì "cụ" Châu 73 tuổi còt.n được, chứ "cụ" Phan Chu Trinh mới ngoài 50 thì nghe không ổn. Nhà cầm quyền cộng-sản gọi các giám-mục việt-nam bằng "cụ". Ai cũng hiểu là chẳng phải vì họ kính-trọng gì, nhưng là vì từ đó diễn-tả được thái-độ kẻ-cả của họ mà thôi. Bớt đi ít chữ "đức" thì nhiều giám-mục, tổng-giám-mục, hồng-i chẳng vì thế mà giảm giá. Chữ "ngài" cũng là điều nên nghĩ. Tiết-kiệm dùng nó thì cũng chẳng vì thế mà trở nên bất-kính. "Ngài" bắt nguồn từ phong-kiến, chỉ sự kính-trọng trong xa-cách. Nó nguyên chỉ thông-dụng trong giáo-hội công-giáo. Nay được cộng-sản việt-nam sử-dụng đại-trà với tinh-thần rất ư là phong-kiến và ba-phải. Thanh-niên xã-hội chủ-nghĩa ở ngoại quốc gọi tất cả những người của cơ-quan công-quyền địa-phương hoặc với bất cứ người ngoại-quốc nào có quyền đều là "ngài" ráo. Và cũng nên phân-biệt ngôn-ngữ nói (tình) với ngôn-ngữ viết (sự-kiện). Chẳng hạn từ "cha" là để nói, viết thì "linh-mục" khách-quan hơn...
Tâm-thức của đa số độc-giả người việt chưa quen với thứ ngôn-ngữ khách-quan. Điều này đòi-hỏi sự can-đảm và lòng thành-thật của người viết. Thay-đổi một thói-quen văn-hoá đã thành nếp là điều khó-khăn vô-vàn. Và đó cũng là sứ-mạng cao-cả của người cầm bú
|