Chính sách đối với các sắc tộc thiểu số của VNCH từ 1964-1975



Chính Sách Đối Với Các Sắc Tộc Thiểu Số  Của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa từ 1964 đến 1975.
                                                 Nguyễn Văn Nghiêm

Gần đây Giáo Sư Nguyễn Văn Huy, một nhà Dân Tộc Học, phụ trách Khoa Các Dân Tộc Đông Nam Á tại Đại Học Paris 7, có viết một số bài về người Thượng trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, được đăng trên báo Người Việt ở Quận Cam, California, Hoa Kỳ.  Ong cho rằng thời gian mười năm 1965 – 1975 là thời kỳ vàng son của người Thượng, và sở dĩ người Thượng có được thời kỳ như vậy là nhờ áp lực của các cường quốc Pháp và Mỹ.  Nguyên văn câu viết của ông như sau:
        
  “Vì không muốn bị diệt vong, từ 1956 người Thượng tìm hậu thuẫn ở các thế lực phương Tây (Pháp và Mỹ) để được tồn tại, và dưới áp lực của các cường quốc này cộng đồng người Thượng mới có một chỗ đứng vinh dự hơn, nhưng thời vàng son này đã không kéo dài lâu, chỉ được mười năm thì chấm dứt (từ 1965 đến 1975) .” (Người Việt, ngày 11/4/2001, trang B2)
          Là một sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có may mắn được phục vụ trong các cơ quan Thượng Vụ từ 1956, tôi thấy rằng thời kỳ vàng son nói trên của người Thượng tuy một phần có ảnh hưởng của người Mỹ, nhưng của người Pháp thì còn cần phải xem xét lại.  Nguyên nhân chính đem lại một chỗ đứng vinh dự cho người Thượng, là do những nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Việt Nam sau chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều là những người đã từng chỉ huy ở Cao Nguyên từ lâu năm và rất có ý thức về những vấn đề của người Thượng.  Chính những vị này đã ban hành và liên tục thực thi một chính sách bảo đảm đem lại đầy đủ quyền công dân và quyền sống của con người, không chỉ cho người Thượng trên Cao Nguyên nói riêng mà còn cho cả người Thượng miền Bắc di cư vào miền Nam từ 1954, mà phần lớn đã định cư trên Cao Nguyên, người Chàm, và sau này cho cả người Miên ở Hậu Giang nói chung nữa.

               Tìm Hiểu Nguyện Vọng Của Người Thượng và Chàm


Y thức được những bất công đối với người Thượng do chính sách của Chính Phủ Ngô Đình Diệm để lại, ngay sau khi đảo chánh lật đổ Chính Phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 1 – 11 – 1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã quan tâm đến vấn đề này.  Thiếu Tướng Đỗ Mậu, cựu Tư Lệnh Phân Khu Duyên Hải (1955-1956) gồm 4 Tiểu Khu: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Uy Viên Chính Trị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đệ trình một kế hoạch đặc biệt nâng đỡ đồng bào Thượng nhằm giải quyết vấn đề nói trên. Một số lớn lãnh tụ Thượng trong phong trào BaJaRaKa chống chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bị bắt từ 1958, đã được Đại Tướng Dương Văn Minh cho lệnh thả ngay.  Ong Paul Nưr, sắc tộc Bahnar, Phó Chủ Tịch Phong Trào sau khi được tha về, đã được bổ nhiệm ngay vào chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Thượng tỉnh Kontum. Tuy nhiên kế hoạch nâng đỡ đồng bào Thượng của Thiếu Tướng Đỗ Mậu đệ trình chưa kịp được thi hành thì ngày 29/1/1964 đã xẩy ra một cuộc Chỉnh Lý lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Chính phủ mới do Trung Tướng Nguyễn Khánh, nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật ở Cao Nguyên, về làm Thủ Tướng là người đặc biệt chú trọng  đến vấn đề người Thượng.  Việc làm đầu tiên của Thủ Tướng Nguyễn Khánh la, ngày 11/2/1964, thả nốt người đứng đầu phong trào BaJaRaKa, Ong Y Bham Enuôl, sắc tộc Rhadé, Chủ Tịch Phong Trào.   Ong cũng được bổ nhậm vào chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Thượng tỉnh Đắc Lắc.  Sau đó chính phủ và chính quyền tại Cao Nguyên đã liên tiếp tổ chức nhiều Hội Nghị các lãnh tụ người Thượng, Chàm, để tìm hiểu nguyện vọng của họ hầu ban hành một chính sách mới phù hợp với nguyện vọng chính đáng của đồng bào. 
Hội Nghị đầu tiên do tác giả bài này, Trửơng Phòng Năm Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Khu 23  Chiến Thuật, tổ chức ngày 9/1/1964, tại Banmêthuột, dưới quyền chủ tọa của Đại Tá Lê Quang Trọng, Tư Lệnh Sư Đoàn và Khu 23 Chiến Thuật.   Ong Y Chôn Mlô Đuôn Đu, Tham Sự Hành Chánh, sắc tộc Rhade, đã đại diện các lãnh tụ Thượng trong hội trường  xin chính phủ có một chính sách công bằng và những chương trình hữu hiệu, thực tế để nâng cao đời sống của đồng bào Thượng, Chàm.
          Ít lâu sau Hội Nghị các lãnh tụ Thượng, Chàm nói trên tại Ban Mê Thuột, Trung Tướng Nguyễn Khánh bổ nhiệm tôi vào chức vụ Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật tại Pleiku.  Với chức vụ mới, tôi bắt đầu soạn thảo tài liệu “Vấn Đề Đồng Bào Thiểu Số Tại Việt Nam”.   Tài liệu này đã được ban hành dưới thời Trung Tướng Đỗ Cao Trí lên thay thế Trung Tướng Nguyễn Khánh làm Tư Lệnh Quân Đoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật.  Tài liệu này đã được dùng làm căn bản cho một chính sách mới trên miền Cao Nguyên.
   Thủ Tương Nguyễn Khánh cũng cho lệnh Nha Đặc Trách Thượng Vụ tổ chức mời 55 lãnh tụ Thượng, Chàm trên Cao Nguyên và các tỉnh miền Trung về thăm viếng Thủ Đô Sài Gòn ngày 5/5/1964.  Nhân dịp này Thủ Tướng đã chủ tọa một hội nghị với các lãnh tụ Thượng, Chàm, và tiếp nhận tất cả những nguyện vọng của họ.  Đây là lần đầu tiên từ 1954, người Thượng, Chàm có cơ hội được tự do trực tiếp trình bày những ý kiến của mình trước người lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia. 
 Hội Nghị lần thứ ba diễn ra tại Hội Quán Phượng Hoàng, Pleiku, do Phòng Thượng Vụ Quân Đòan II và Vùng 2 Chiến Thuật tổ chức vào hai ngày 25, 26/8/1964, dưới quyền chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II.  Một Uy Ban gồm Thiếu Tá Ya Ba, Đại Uy Y Pem Knul, Tham Sự Hành Chánh Y Chôn Mlô Đuôn Đu, và tôi Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II, được thành lập để đúc kết tất cả những nguyện vọng của các sắc tộc Thượng, Chàm đệ trình lên Chính Phủ.
           Một Hội Nghị nữa do Trung Tá Nguyễn Phi Phụng, Giám Đốc Nha Đặc Trách Thượng Vụ thuộc Bộ Quốc Phòng tổ chức ở Đà Lạt ít ngày sau Hội Nghị tại Pleiku nói trên.
           Nhưng đáng kể nhất là Đại Hội đại diện đồng bào thiễu số họp tại Pleiku trong ba ngày 15, 16,17, tháng 10,1964, và cuộc họp của Hội Đồng Nội Các Chính Phủ tại Biệt Điện của Tổng Thống, một biệt thự bằng gỗ trên những cột cao, kiến trúc theo kiểu nhà của đồng bào Thượng, tại Pleiku, đêm 16/10/1964 .  Thủ Tướng Nguyễn Khánh, hai vị Phó Thủ Tướng, các vị Tổng Trưởng các Bộ Tư  Pháp, Giáo Dục...Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II,  ông Tổng Giám Đốc Nha Điền Địa, và Trung Tá Ngô Văn Hùng, nguyên Giám Đốc Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng ở Huế dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hiện là Phó Giám Đốc Nha Đặc Trách Thượng Vụ thuộc Bộ Quốc Phòng, đã nghe tôi, Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II, trình bày những nguyện vọng của đồng bào Thượng, Chàm, và những đề nghị về một chính sách mới, cùng những biện pháp thiết thực giúp đỡ đồng bào về mọi mặt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh tế, y tế, luật pháp, v.v.  Hội Đồng Nội Các đã thảo luận kỹ càng từng điểm một, do đó cuộc họp đã kéo dài suốt bốn tiếng rưỡi đồng hồ, từ 8 giờ 30 tối đến 1 giờ sáng ngày hôm sau.  Chính trong cuộc họp này Thủ Tướng Nguyễn Khánh và Hội Đồng Chính Phủ đã chấp thuận tất cả những đề nghị, và quyết định ban hành một chính sách mới không chỉ áp dụng cho người Thượng nói riêng mà còn áp dụng cho cả người Thiểu Số Việt Nam nói chung.  Người Thiểu Số ở đây bao gồm người Thượng miền Nam, người Thượng miền Bắc di cư tị nạn Cộng Sản năm 1954, hầu hết đang định cư trên Cao Nguyên, và người Chàm.  Chính sách này về sau cũng được áp dụng cho người Miên ở Hậu Giang nữa.

               Chính Sách Đối Với Các Sắc Tộc Thiẻu Số Việt Nam


           Chính sách được ban hành dưới dạng một Thông Điệp của Thủ Tướng Chính Phủ gửi nhân dân cả nước, và do Thủ Tướng đọc trước Đại Hội đại diện người Thượng miền Nam, miền Bắc, và người Chàm ngày 17/10/1964.  Chính sách mới được đặt trên ba nguyên tắc căn bản:

1.     Đồng bào Thiểu Số Việt Nam là công dân của nước Việt Nam.  Đồng bào có quyền được hưởng đầy đủ quyền công dân như mọi công dân thuộc những sắc tộc khác.
2.     Tuy nhiên vì đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, chính phủ có trách nhiệm phải hoạch định ra những chương trình, kế hoạch hầu giúp đồng bào mau chóng tiến bộ theo kịp đà tiến bộ chung của toàn dân tộc.
3.     Chính phủ tôn trọng phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa của đồng baò 
thiểu số.  Toà án phong tục Thượng sẽ được thành lập trở lại.  Tiếng Thượng sẽ được dạy lại trong các trường học.  Quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng được tôn trọng, và một chương trình Kiến Điền sẽ được tiến hành để cung cấp bằng khoán về quyền sở hữu đất đai cho đồng bào.
Ngay trong buổi họp này vị Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp đã thảo một Nghị Định  hủy bỏ Nghị Định cũ của Chính Phủ Ngô Đình Diệm không công nhận quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng, tái xác nhận chính phủ tôn trọng quyền sở hữu đất đai của các gia đình người Thượng, và hứa hẹn sẽ ban hành một chương trình Kiến Điền để đảm bảo quyền sở hữu đất đai canh tác của đồng bào.  Chương trình Kiến Điền sẽ do Tổng Nha Điền Địa thực hiện sau này.  Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục cũng ban hành một Thông Tư  ấn định nhiều biện pháp nâng đỡ học sinh, sinh viên Thượng, và Chàm.

               Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, ngày 1, tháng 4, 1967


          Ngày 1, tháng 4, 1967, Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà được ban hành, trong đó có những điều khoản 2, 24, 97, và 98 liên quan đến chính sách đối với người Thiểu Số. 
Điều 2 công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân.  Mọi công dân đều bình đẳng không phân biệt sắc tộc.  Đồng bào Thiểu Số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc.  Điều 24 công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam.  Phong tục, tập quán của đồng bào Thiểu Số được tôn trọng.  Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử những vụ án về phong tục giữa các đồng bào Thiểu Số.  Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đõ đồng bào Thiểu Số.
Điều 97,và 98 qui định việc tổ chức một Hội Đồng Các Sắc Tộc.  Nhiệm vụ của Hội Đồng là cố vấn Chính Phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào Thiểu Số.  Với sự chấp thuận của Quốc Hội , Hội Đồng Các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.  Các dự luật liên quan đến đồng bào Thiểu Số có thể được Hội Đồng Các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc Hội thảo luận.  Về thành phần của Hội Đồng thì hai phần ba hội viên là do các sắc tộc Thiểu Số đề cử.  Một phần ba hội viên do Tổng Thống chỉ định.  Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Các Sắc Tộc.  Ngoài 4 điều nói trên, còn Điều 66 qui định Phó Tổng Thống là Chủ Tịch Hội Đồng Sắc Tộc.  
          Như vậy, ngoài những điều 66, 97, 98, liên quan đến Hội Đồng các Sắc Tộc, ba nguyên tắc căn bản trong chính sách mới do Thủ Tướng Nguyễn Khánh ghi trong Thông Điệp gửi quốc dân đồng bào ngày 17/10/1964 đã được ghi lại đầy đủ trong hai điều 2 và 24 của Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa.

Quy Chế Quy Định Những Quyền Lợi Đặc Biệt Để Nâng Đỡ Đồng Bào Thiểu Số.

          Để thực hiện điều 2 và 24 của Hiến Pháp,  Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch Uy Ban Hành Pháp Trung Ương đã đệ trình lên Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu Chủ Tịch Uy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ký Sắc Luật số 033/67,  ngày 29/8/1967.  Nội dung Sắc Luật có 10 Điều họp thành một Quy Chế quy định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào Thiểu Số.  Điều 1 và Điều 10 là phần mở đầu vàkết luận. Các điều còn lại từ điều 2 đến điều 8 ấn định những nguyên tắc căn bản nâng đỡ đồng bào thiểu số về mọi mặt Hành Chánh Công Chức, Quân Sự, Kinh Tế, Nông Nghiệp, Quyền Sở Hữu Đất Đai, Y Tế, Xã Hội, Giáo Dục, Văn Hóa.   Sẽ thành lập Viện Bảo Tàng Nhân Chủng để bảo vệ và phát huy nền văn minh của các sắc tộc Thiểu Số, và Viện Nghiên Cứu các Sắc Tộc để giúp Chính Phủ thiết lập các kế hoạch phát triển đời sống đồng bào thiểu số.  Riêng điều 9 quy định nguyên tắc nâng đỡ phải phù hợp với thực trạng của từng địa phương và trình độ của từng sắc tộc, để các sắc tộc thiểu số dù có tình trạng sinh hoạt không đồng đều, cũng có thể theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.  Nội dung Sắc Luật 033/67 làsự tổng hợp tất cả những nguyên tắc nâng đỡ đồng bào Thiểu Số đã được các Bộ ban hành từ sau cuộc họp của Hội Đồng Nội Các tại Pleiku ngày 17/10/1964, và đã được liên tục thi hành.

               Kết Luận


Trên đây là Chính Sách của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa vào thời đó.  Chính nhờ việc ban hành chính sách nói trên và việc tích cực thi hành chính sách của các Bộ chuyên môn trong chính phủ, phối hợp với cơ quan đặc trách vấn đề thiểu số là Bộ Phát Triển Sắc Tộc, cùng với sự hỗ trợ dồi dào về tài chánh cho những chương trình phát triển đời sống đồng bào của Hoa Ky, ma có thời kỳ vàng son của người Thượng nói riêng và người Thiểu Số Việt Nam nói chung trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam từ 1964 đến 1975. Thời kỳ vàng son  của đòng bào thiểu số đã chấm dứt do kết quả của việc Cộng Sản Bắc Việt đã xâm lăng và chiếm trọn miền Nam năm 1975. Mong rằng những nhà viết sử sau này nên tham khảo nhiều nguồn tin tức cả ở trong nước lẫn những nguồn tin của ngoại quốc, nhất là cần phải phối kiểm lại mọi nguồn tin tức, để tránh tình trạng có những nhận định chưa được chính xác, vô tình đã bất công đối với mọi nỗ lực của những nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam Cộng Hòa vào thời gian nói trên trong cố gắng giải quyết vấn đề đồng bào thiểu số của đất nước.