16 ĐIỀU GIAN TRÁ VĨ
ĐẠI
đã gây ra bao khổ đau
cực kỳ khốc liệt cho toàn Dân và
đang quật mạnh lên mọi
giá trị cao quí của Dân tộc Việt
Lm TNLT Nguyễn Văn Lý
Sau khi tôi phổ
biến bài “12 LỜI NÓI DỐI VĨ ĐẠI CẤP NHÀ NƯỚC”
ngày 25-7-2010, cố ý gọn 4 trang A4, cỡ 13 font Unicode
Times New Roman, một số độc giả đề nghị bổ sung thêm
một số điều gian dối cũng đẳng cấp siêu lừa của
CSVN và nên để mở bài viết, mời tất cả những ai có
điều gì thì bổ sung thêm các điều gian trá tầm mức
vĩ đại này, đừng vội chấm hết bài. Vì thế, hôm nay
tôi mạn phép bổ sung thêm 4 điều, 12 trang A4, hi vọng
Dân nghèo vẫn nhân bản được dễ dàng. Kính mời Quí
Vị rộng đường bổ sung.
***
Các Đức Giám mục
Công giáo hoàn cầu 5 năm 1 lần về Rôma để viếng mộ
2 Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Ngoài buổi gặp chung
của Hội đồng GM hoặc từng nhóm GM với Đức Giáo
hoàng, mỗi GM còn gặp riêng ĐGH để trình bày về Giáo
phận mỗi GM coi sóc, mỗi Vị 15-30 phút. Cuộc thăm gặp
này gọi là Ad Limina, có nghĩa là “đến ngưỡng cửa”.
Trong lần Ad Limina của Hội đồng Giám mục VN năm 1980,
Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền hỏi Đức cố
Giáo hoàng Gioan-Phaolô II : “Đức Thánh Cha nghĩ gì về
Cộng sản ?”. Đức Gioan-Phaolô II trả lời ngay không do
dự, rất ngắn gọn, súc tích và chính xác, nguyên văn
bằng tiếng Pháp : “Mensonge ! Et rien que mensonge !” (Dối
trá ! Và chỉ là dối trá !).
Trước 1954, lúc mới
5-6 tuổi, tôi đã thuộc lòng bài thơ về Cộng sản dối
trá :
Dối
thiên dối địa dối vô cùng,
Dối
giấy dối tờ dối tứ tung,
Dối
từ đất Âu sang đất Á,
Dối
từ xuân hạ đến thu đông,
Dối
gạt Dân mê không hóa có,
Dối
phỉnh Dân mù có hóa không,
Dối
mãi dối hoài không hết dối,
Dối
thiên dối địa dối vô cùng. @@@
Tôi đã nhiều lần
lặp đi lặp lại trước công luận quốc tế : “Việt
Nam hiện nay là một trường dạy nói dối tinh vi và khổng
lồ. Từ một phụ huynh tìm trường cho một em học sinh
mẫu giáo và chính em mẫu giáo ấy đến ông Chủ tịch
Nước, kể cả các Chức sắc các Tôn giáo, đều buộc
phải biết nói dối để xuôi thuận công việc. Một Việt
kiều văn minh ở Na-Uy, Thụy Sĩ, Nhật Bản,... đặt chân
xuống Tân Sơn Nhất, Nội Bài,... là phải biết nói dối
để dễ trót lọt hải quan sân bay ngay !”
Cha đẻ của các
bệnh thành tích, bệnh học giả, thi giả, bằng giả, báo
cáo giả, thuốc giả, thực phẩm giả,...hiện nay tại VN
là ai ? Dối trá “made in VN” bắt nguồn từ đâu ? Chắc
chắn chính xác là từ ông HCM : đại gian ác, siêu cao
thủ, lừa gạt được gần cả thế giới.
Những điều gian trá
của CSQT và CSVN nhiều vô kể không thể ghi ra hết được.
Để bổ sung phần nào các điều gian dối của CS mà
nhiều người đã nêu lên trong nhiều sách báo mấy chục
năm qua, tôi xin lược kê thêm 15 bằng chứng tiêu biểu
mang tính khái quát cao, bộc lộ đúng bản chất khách
quan của phong trào CS quốc tế, CSVN và của ông HCM, hoàn
toàn không hề do định kiến của một số người nào đó
cố tình bóp méo xuyên tạc, để lấy cớ mà tẩy chay
CNCS và CNXH tại VN và trên toàn thế giới :
1. Cuối năm 1945,
để lừa mị công luận, HCM tuyên bố giải thể đảng
CS Đông Dương, nhưng thực ra là chỉ rút lui vào bí mật.
Năm 1951 đổi tên là đảng Lao Động VN. Sau 1975 đổi
thành đảng CSVN. Thực tế cả 3 đảng chỉ là một (vô
ra chỉ một con ma ấy !!!).
2. Trong Tuyên ngôn
Độc lập 2-9-1945 và Hiến pháp 1946, HCM và CSVN khôn khéo
cố tình không nhắc đến một lần nào CNXH, CNCS. Nhưng
sau đó lại áp đặt : Độc lập Dân tộc phải gắn liền
với CNXH, rồi độc đoán cột buộc mọi Dân Việt : yêu
Nước là yêu CNXH !?!
3. Sau Hiệp định
Genève 20-7-1954, tất cả các Cán bộ CS ở miền Nam nào
muốn tập kết ra Bắc đều được tự do đi và chính
Pháp cung cấp đủ tàu thủy chở đi. Trái lại rất nhiều
Đồng bào ở miền Bắc muốn di cư vào Nam thì bị đủ
mọi hăm dọa, thủ đoạn ngăn chặn, kể cả bắn chìm
ghe, thuyền, bè của Dân và nhấn chìm Dân chết đuối.
Nếu được tự do di cư, không chỉ có hơn một triệu
Đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, mà con số phải cao
hơn nhiều lần.
4. Năm 1955, HCM ký
Sắc lệnh Tự do Tôn giáo. Kết quả là tất cả các Tiểu
và Đại chủng viện là những trường đào tạo LM ở
miền Bắc đều bị đóng cửa, tất cả các Nữ Tu sĩ
đều bị ép buộc phải về nhà lấy chồng (vì là bọn
trốn đẻ), chỉ một số ít kiên trì bám trụ, khôn
ngoan trốn tránh (tu chui) mới tồn tại cho đến 1975. Rất
nhiều Linh mục, Nam Tu sĩ, Giáo dân nòng cốt bị nhốt
vào các trại cải tạo, một số đã chết trong tù. Sau
1973 CSVN mới cho mở lại 2 Đại chủng viện Hà Nội và
Vinh với giới hạn tuyển sinh rất ngặt nghèo. Hiện nay,
trong cả Nước, tất cả các Tiểu chủng viện (cấp phổ
thông và đại học) đều đang bị CSVN tịch thu, có khi
bằng bạo lực với quân đội, súng ống (như Tiểu chủng
viện Hoan Thiện, 11 Đống Đa, Huế, 13-19.12.1979). 26 Giáo
phận cả Nước hiện nay đều không Giáo phận nào có
Tiểu chủng viện hết mà lẽ ra mỗi Giáo phận đều cần
một Tiểu chủng viện để đào tạo các thanh thiếu niên
tu học chuẩn bị vào Đại chủng viện. CSVN chỉ cho mở
lại 6 Đại chủng viện: Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang, Sài
Gòn, Vĩnh Long. (ĐCV Sài Gòn có một cơ sở phụ tại Xuân
Lộc). Các ứng sinh linh mục bị buộc phải học nhồi sọ
chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng HCM. Không còn một tờ
báo, nhà xuất bản, nhà in,... nào của Tôn giáo nào.
5. Từ 1960 đến
1975, Bộ đội miền Bắc tràn vào xâm lược miền Nam với
đường HCM trên Trường Sơn, trên Biển Đông, với hệ
thống xăng dầu rõ ràng, với hàng ngàn chiến xa đủ
loại, với hàng núi vũ khí kinh người, thế mà CSVN vẫn
rêu rao trước công luận quốc tế là “Đồng bào miền
Nam tự nổi dậy” với lá cờ xảo trá 3 màu xanh, đỏ,
vàng. Nay thì lại trơ trẽn tự hào là quân ta có “đường
Trường Sơn huyền thoại” !!!
6. Hiệp định
“Ngừng chiến và tái lập hòa bình tại VN” tại Paris
năm 1973 qui định: Quân đội các bên tham chiến đều
ngưng chiến, và phải rút khỏi lãnh thổ VNCH, để Dân
miền Nam tự quyết định tương lai của mình trong hòa
bình. Quân đội Hoa Kỳ “ngây thơ” (?) rút. Quân Bắc
Việt chẳng những không rút mà còn phát huy bản chất và
thói quen cực kỳ xấu xa là âm mưu gian trá chuẩn bị
đánh lớn. Kết quả là trong những năm 1973-1975 chiến
tranh liên miên ở miền Nam và ngày càng ác liệt, mãi cho
đến ngày đứt phim gãy súng 30-4-1975. Hoa Kỳ ăn no bánh
lừa. Hơn 2,5 triệu người Dân miền Nam thì quá sợ hãi
tìm mọi cách trốn khỏi “thiên đàng CS”, đành bỏ
mạng nửa triệu trên đường liều chết vượt rừng
hoặc lao ra biển, tạo nên thuật ngữ tiếng Anh mới :
boat peoples (thuyền nhân) made from VN “không nơi nào có
được”. Nếu cột điện đường chạy được, chúng
cũng vượt biên luôn. Hàng triệu quân-cán-chính Việt Nam
Cộng Hòa phải tù đày 2-13 năm (đợt thả cuối cùng đầu
năm 1988). Có người tù đi tù lại lần 2, 3, 4 trong 35 năm
“thống nhất” mà đã “chung thân” đến 33-34 năm rồi
!!!
7. Từ 1975 -2010,
các cấp chóp bu và phát ngôn nhân của Bộ ngoại giao của
Nhà cầm quyền CSVN đi đâu cũng luôn rêu rao không biết
ngượng : “Ở VN, không hề có tù nhân tôn giáo, tù nhân
lương tâm, tù nhân chính trị.” Thực tế là chỉ nguyên
hiện nay đang có hơn 200 tù nhân lương tâm, tù nhân chính
trị, tù nhân tôn giáo của các Giáo hội Tin Lành, Phật
giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Công giáo. Tôi luôn hỏi lại
các Công an bắt và giam tôi : “Thế tôi là loại tù gì
?” các CA ấy luôn im lặng, không thể trả lời được.
Trong trại giam, bất cứ lúc nào báo chí đưa tin câu rêu
rao nêu trên, tôi đều có tuyệt thực phản đối, để
được “bị lập biên bản” hầu có giấy bút ghi lý
do tuyệt thực đằng sau trang giấy biên bản để bênh
vực các Tôn giáo, Nhân quyền, Tự do, Dân chủ, Công lý,
Sự thật. Dịp Tết Kỷ Sửu 2009, sau khi nghe Ông Nguyễn
Minh Triết, Chủ tịch Nước, rêu rao như vậy tại Hoa Kỳ,
tôi tuyệt thực không ăn 3 ngày tết và hát nghêu ngao cho
các bạn tù ở các khu kỷ luật và khu biệt giam khác
nghe bài “Pháo Tết” cải biên : “Tết, Tết, Tết, Tết
đến rồi ! Nhưng rất buồn vì Cộng sản nói dối. Xuân
ơi, Xuân ơi, Xuân đến rồi ! Nhưng rất buồn vì Cộng
sản không thật.”
8. Hiến pháp
CHXHCNVN năm 1992 đã bổ sung năm 2001, điều 59, b : “Bậc
tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.” Mời
chính ông HCM đốt đuốc tìm cho ra dù chỉ một trường
mầm non, mẫu giáo, tiểu học bất kỳ (của Nhà nước)
ở khắp Việt Nam hiện nay mà học sinh “không phải trả
học phí”, thì tôi chết liền. Trái lại, tất cả các
phụ huynh của những học sinh nhà nghèo các cấp này đều
phải lo toát mồ hôi đầu năm học và các kỳ học giữa
năm : nào là học phí, nào là các khoản đóng góp đủ
kiểu, đủ loại. Nếu không có các Nhà Chùa, Nhà Xứ, Tổ
chức, Nhà hảo tâm,... tìm cấp học bổng cho các em, thì
hầu như tất cả học sinh con nhà nghèo đều phải chịu
thất học, bỏ học và mù chữ hàng loạt. Còn các học
sinh cấp cao hơn, sinh viên thì khỏi phải bàn. Học phí
là một gánh quá nặng là chuyện đương nhiên...
9. Hiến pháp
CHXHCNVN năm 1992 đã bổ sung năm 2001, điều 52 : “Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật.” Chỉ có
người điên, dại, khờ mới tin vào điều này ở VN. Hãy
nhìn vào 2 vụ việc gần đây nhất (giữa năm 2010 này) :
Ông Nguyễn Trường Tô, Phó Bí thư tỉnh ủy Hà Giang, Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Giang đã công khai mua dâm,
cưỡng dâm vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật, trong khi các
cô gái nạn nhân lại đang rên siết trong nhà tù. Và Ông
Phạm Thanh Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm
Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam (Tập đoàn Vinashin) đã làm vỡ nợ lên đến 4 tỷ
USD (80 ngàn tỷ VNĐ), sau khi công luận bức xúc quá, ngày
4-8-2010 vừa qua, CA đã bắt và khởi tố kiểu “tế
thần”. Để xem, mức án, nếu có cũng nhẹ hều, và nếu
có hơi nặng tí chút vì “yêu cầu chính trị”, thì
cũng luôn được tha trước thời hạn cách rất “ngoạn
mục”, như hàng trăm vụ chìm xuồng “made by CSVN”
tương tự rồi. Vào tù rồi, CB CSVN vẫn luôn được ưu
tiên 01 !!!
10. Các cấp quyền lực
CSVN hiện nay đều đại ý luôn miệng rêu rao : “Nhà
Nước bồi hoàn thỏa đáng cho Dân khi có kế hoạch “giải
phóng mặt bằng” vì các công trình phúc lợi chung, để
người Dân đến định cư ở nơi mới phải có cuộc
sống tốt hơn hoặc ít ra là bằng ở nơi cũ. Việc này
luôn phải được người Dân cùng tự nguyện đồng thuận
hợp tình, hợp lý.” Hàng vạn vụ “giải phóng mặt
bằng” trong cả Nước đã và đang gây ra bao bất công
uất ức cho Dân nghèo từ hơn 35 năm nay. Hãy nhìn vào 2
vụ việc gần đây nhất : Ngày 25-5-2010, Công an nổ súng
bắn chết em Lê Xuân Dũng, 12 tuổi và anh Lê Hữu Nam, 40
tuổi tại xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
chỉ vì họ không chấp nhận mức bồi hoàn sản nghiệp
đất đai của họ một cách quá bất công. Và ngày
03-7-2010, Công an đã đánh chết giáo dân Tôma Nguyễn
Thành Năm, 43 tuổi sau khi đã tra tấn hành hạ anh cùng
hàng mấy chục giáo dân khác nhiều ngày trước, từ ngày
CA cướp quan tài và đánh đập rất dã man nhiều giáo
hữu, trong đám tang của Cụ bà Maria Đặng Thị Tân hôm
04-5-2010 ở giáo xứ Cồn Dầu, phường Hòa Xuân, quận
Cẩm Lệ, Đà Nẵng, chỉ vì họ không thể chấp nhận
mức đền bù nơi ở của họ quá rẻ mạt, khi Nhà cầm
quyền CS Đà Nẵng muốn cưỡng chiếm quê hương họ để
làm khu du lịch sinh thái, sinh gian, sinh dơ và sinh tội !?!
11. Giáo sư Phan Huy Lê,
hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, trả
lời báo Người Việt là “Nhân vật lịch sử anh hùng
Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật”, ông nói : “Tôi
còn món nợ với anh Trần Huy Liệu mà đến nay chưa trả
được. Đó là lúc anh Liệu làm Bộ trưởng Bộ tuyên
truyền, đã bịa ra nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi
tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc
Pháp ở Thị Nghè…Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê Văn
Tám, anh Liệu có nói với tôi rằng :“Bây giờ vì nhiệm
vụ tuyên truyền tôi viết tài liệu này, sau này khi đất
nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói
lại dùm tôi, lở khi đó tôi không còn nữa”. (Người
Việt, 21-3-2005). Giảng viên Đại học Khoa học Huế Hà
Văn Thịnh cũng như rất nhiều chuyên gia khoa học đều
cho rằng : Lê Văn Tám chắc chắn chỉ là nhân vật bịa
đặt. Lý do đơn giản là không thể có chuyện một thiếu
nhi tự châm lửa cả người rồi chạy xa hàng mấy chục
mét được, vì “em đuốc lửa” ấy chạy chưa được
5 mét là phải gục xuống liền. (Tham chiếu “CSVN lấy
gian dối làm phương châm hành xử” của Đại Nghĩa ngày
6-7-2010). Chuyện lừa bịp quá trắng trợn này đã bị
phơi bày cả chục năm rồi, thế mà hiện nay các sách
giáo khoa học sinh cấp I, II vẫn lì lợm nêu gương Anh
hùng Thiếu niên Lê Văn Tám, Sài Gòn vẫn ngang bướng
trêu ngươi với công viên Lê Văn Tám, nhiều nơi có
trường học Lê Văn Tám, tôn vinh người Anh hùng Thiếu
niên bịa bịp, để lớp lớp triệu triệu thiếu
nhi-thiếu niên ngây thơ trong trắng Việt Nam noi gương
sống theo !?!
12. Từ hơn 35 năm nay,
CSVN phát động chương trình “Bảo vệ bà mẹ và trẻ
em” (?) đại ý như sau : Vì hạnh phúc và chất lượng
cuộc sống tương lai của các em bé đã sinh ra, phải trục
giết bớt các em chưa sinh ra từ 1,2 tháng tuổi cho đến
6,7 thậm chí 8 tháng tuổi, mỗi năm ở VN khoảng 2 triệu
em; hoặc đặt vòng tránh thai, hoặc hút điều hòa kinh
nguyệt (thực chất là phá thai non) đều là các hành vi
đạo đức !!! Lập luận theo kiểu của chủ nghĩa Mao
trong cuộc đại cách mạng văn hóa (1970-1977) : “Để làm
cho hơn 1 tỷ Dân TQ hạnh phúc mà phải giết 30 triệu Dân
TQ, đó là hành vi đạo đức !!!”. (Tôi ở tù với một
số gián điệp người Tàu, có thời đã là đệ tử
trung kiên của Mao, tại K1 Thanh Cẩm, Cẩm Thủy, Thanh Hóa
và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam những năm 1984-1992,
họ đều lập luận như thế).
Dù lấp liếm bao
biện gì gì, thì việc trục giết, nạo giết các thai nhi
là tội “mẹ giết con cách rất dã man, chủ mưu và đồng
phạm”. Ai có lương tri đều phải hiểu chính xác như
thế và chỉ được hiểu đúng như thế : “Trục giết
vô số nhi thai – Ngút trời tội ác họa tai lâu dài!!!”
(Thơ đấu tranh cho Tự do Tôn giáo của tác giả).
“Đặt vòng tránh
thai, điều hòa kinh nguyệt là gì” ? Chính xác là : Bình
thường, với phụ nữ khỏe mạnh, mỗi buồng trứng bên
phải và bên trái thay phiên nhau, mỗi tháng một lần, từ
buồng trứng của phụ nữ, trứng tốt khỏe mạnh rụng
xuống 01 trứng, nằm ở đầu vòi trứng đợi tinh trùng
nam 48 giờ. Sau 48 giờ, nó bắt đầu thối rữa và chuyển
dần xuống tử cung. 12 ngày sau, cơ thể chủ nhân tống
trứng thối ra ngoài với chút máu, gọi là kinh nguyệt.
Từ khi trứng rụng đến đầu kỳ kinh, mọi phụ nữ
toàn cầu đều có nửa chu kỳ này là 14 ngày. Nhưng từ
đầu kỳ kinh đến khi trứng rụng lại của nửa chu kỳ
sau thì mỗi phụ nữ không đều nhau : 14, 16, 18, 20, 30,
40,... ngày. Khi trứng đã thụ tinh (em bé rất bé mới chỉ
là phôi) sẽ tự di chuyển dần từ cửa buồng trứng,
men theo vòi trứng, xuống bám vào thành tử cung để làm
tổ. Nếu đặt vào tử cung 1 vòng plastic hình lò-xo ziczac
dẹt, khi người phụ nữ di chuyển, xê dịch, thì vòng
plastic này sẽ đánh tơi em bé rất bé này, dù chỉ mới
1-2 tháng tuổi. Cơ thể người mẹ sẽ tống xuất em bé
đã chết này ra với một ít máu “gần giống như kinh
nguyệt”. Do đó, thực chất, phụ nữ nào đặt dụng cụ
bị gọi cách gian trá là “vòng tránh thai” này, nếu có
sinh hoạt với người nam, mỗi tháng đều có phá thai non
một lần mà không biết. (Rất hiếm khi phôi ép vòng qua
một bên, nên dù đặt vòng, phụ nữ nào đó vẫn mang
thai bình thường).
Nhà cầm quyền CS
lừa gạt Dân nghèo dụng cụ phá thai non, phá phôi này là
“vòng tránh thai”, trong khi hầu hết các bác sĩ, trí
thức đều biết rõ, nhưng rất ít người can đảm và
chân tình tận tụy giải thích cho Dân. Tội phá thai non
này ai chịu ???
Cũng tương tự, khi
phụ nữ thấy mất kinh, đến phòng “Bảo vệ bà mẹ
trẻ em” xin “điều hòa kinh nguyệt”, thực chất là
vô tình hoặc cố ý nhờ cán bộ sát thủ y tế “hút
thai non” ra. Tội này ai gánh ???
Thay vì dối gạt Dân
nghèo như trên, lẽ ra Chính quyền chân chính cần đầu
tư tăng thêm cán bộ y tế am tường sinh học, biết giải
thích và chỉ dẫn cho Dân các phương pháp sinh con theo ý
muốn hợp đạo đức, như phương pháp Billings,... Ngân
khoản ít hơn mà hiệu quả vừa đạo đức, vừa văn
minh, vừa ổn định, vừa vững bền.
13. Quá nhiều điều ông
HCM tự gian trá hoặc thuộc hạ gian trá về ông ấy mà
nhiều sách báo đã chứng minh rồi, sau khi lược qua vài
điểm mốc, ở đây tôi chỉ chủ yếu đề cập đến 2
án văn đặc biệt liên quan đến học sinh-sinh viên và
UNESCO có tôn vinh HCM thật không ? :
- Ngày sinh (19-5-1946 là
ngày Hà Nội treo cờ giăng hoa đón Đô đốc Pháp
D’Argenlieu, HCM ngụy nhận cho oai);
- Chiếm đoạt biệt
danh/bút hiệu của các Nhân sĩ đã nổi tiếng và có hàng
trăm tên giả: (Nguyễn Ái Quấc/Quốc là bút hiệu của
cả nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh,
Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn
Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự mà HCM chôm tất cả
công trình sách báo của nhóm này thành của Nguyễn Tất
Thành (tức HCM); HCM là hiệu của Cụ Hồ Học Lãm, người
thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội năm 1935.
Sau khi Cụ Hồ Học Lãm qua đời (1938 ?), Nguyễn Ái Quốc
(tức Lý Thụy, Hoàng Quốc Tuấn, Già Thu, Sáu Sán, Ông
Ké) đoạt luôn Hội này năm 1941 và chiếm đoạt trọn
đời biệt danh HCM của cụ Hồ Học Lãm, sát nhập Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và VN Thanh Niên Cách Mệnh
Đồng Chí Hội của Trương Bội Công-Nguyễn Hải Thần
thành Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi là
Việt Minh, vì lúc đó, biệt danh HCM của cụ Hồ Học Lãm
giới chính khách Trung Hoa và Đồng Minh Âu Mỹ chống Nhật
đã biết nhiều);
- Đóng vai sĩ quan T.Lan tự
viết “Vừa đi đường vừa kể chuyện” để tự đề
cao mình quá lố;
*** Đóng vai nhà báo Trần
Zân Tiên (nguyên bản là Zân) tự viết tiểu sử “Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”
tự ca tụng mình như một Vị Thánh, một siêu nhân;
*** Tập thơ chữ Hán
“Ngục Trung Nhật Ký” (Nhật ký trong tù) thực sự là
của ai ?
- Ngày chết (lúc đầu
CSVN công bố 3-9-1969, về sau giấu không nổi nữa đành
thú nhận là HCM đã “đi gặp Các-Mác Lênin” đúng ngày
“Quốc Khánh” 2-9-1969);
- “Di chúc” : Một người
phải chịu trách nhiệm chính về thảm nạn đấu tố hết
sức tàn bạo và giết bỏ quá dã man kinh hoàng hàng trăm
ngàn người Dân vô tội trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất
theo bài bản của Mao Trạch Đông những năm 1953-1957 tại
miền Bắc Việt Nam, bỏ tù và đày đọa đến kiệt sức
chết bằng cưỡng bức lao động hàng vạn nhà trí thức
và người Dân bất đồng chính kiến những năm
1945-1969-1975, giết luôn cả người tình-đồng chí của
mình, mà đến gần chết vẫn cả gan tiếp tục dối gạt
mọi người qua Di chúc : “Suốt đời tôi không ân hận
gì hết”, trong khi Đức Khổng Tử dạy rằng : “Người
quân tử mỗi ngày sám hối bảy lần”.
*** UNESCO của LHQ có tôn
vinh HCM là nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại không ?
***
Nhằm cứu thoát hàng
chục triệu học sinh-sinh viên hàng năm vẫn bị buộc học
và bị thi đi thi lại đến toát mồ hôi mà lòng trĩu
nặng như bị đá đè về thân thế và sự nghiệp của
HCM (khá nhiều em thi lại lần 2, 3 vẫn không thể đủ
điểm về các môn học gian quái), để khỏi quá dài
dòng, điều gian trá thứ 13 của bài này chỉ đề cập 2
“đại tác phẩm” của “Siêu lừa” và vấn đề
UNESCO thôi :
a) “Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần
Zân Tiên. Ngay từ đầu, 1948, ban biên tập của NXB Sự
Thật đã ngờ rằng chính HCM tự ca tụng mình qua văn
phong đậm nét tự thuật. Họ kín đáo so mẫu chữ máy
đánh chữ trên bản thảo thấy giống hệt mẫu chữ máy
hiệu Hermes của HCM, nhưng không ai dám nói, cứ tạm coi
Trần Zân Tiên như một nhà báo cực kỳ bí ẩn xuất quỉ
nhập thần nào đó, không ai biết được tung tích. Không
thể che giấu mãi được, cuối cùng gần đây các cơ
quan chính thức của CSVN đều phải thừa nhận Trần Zân
Tiên chính là HCM, vô liêm sỉ đầy mình khi cả gan tự
phong là “nhà văn hóa lỗi lạc”, “lãnh tụ vĩ đại”,
được “toàn dân gọi là Cha Già Dân tộc kính yêu / Bác
vĩ đại”.
Năm 1985, giáo sư Hà Minh
Ðức đã xuất bản cuốn “Những Tác phẩm Văn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh”, trong đó có đoạn : ‘‘Ðáp lại
tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế
giới. Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết
tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của
Hồ Chủ Tịch.’’ (Hà Minh Ðức, sđd, tr 132, NXB Khoa Học
Xã Hội, Hà Nội, 1985).
Thật tội nghiệp là
“nhà báo Trần Zân Tiên” không tài nào moi được thông
tin gì từ HCM cả : “Nguyên nhân rất đơn giản : Chủ
tịch HCM không muốn nhắc đến thân thế của mình”.
Trần Zân Tiên đặt lên miệng HCM : “Hiện nay có nhiều
việc cần thiết hơn… Còn tiểu sử của tôi, thong thả
sẽ nói đến…”. HCM tự viết về HCM : ‘‘Bác Hồ
của chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho
ai nghe về hoạt động của mình; rồi Bác Hồ được
nhân dân ta coi là cha già của dân tộc; Bác còn vĩ đại
hơn Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào
kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa…’’! Năm 1948 ‘‘vị
cha già của dân tộc’’ ấy 58 tuổi !!! Chỉ cần đọc
thêm một câu sau đây thôi là hiểu được bản chất
thật của HCM. Trần Zân Tiên-HCM tự viết: “Một người
như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn
nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc,
làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được
?” (trang 7, 8 hoặc 9 tùy lần xuất bản).
Có những người
dùng quyền lực / tiền bạc để bắt người khác ca ngợi
mình. Có thể có người mặt dày ẩn danh tự viết tiểu
sử mình, nhưng tự tán dương bốc thơm mình cách cực kỳ
“khiêm tốn nhường ấy” thì may ra trên đời mới chỉ
có một “kết tinh bốn ngàn năm văn hóa của Việt Nam”
trâng tráo vô liêm sỉ hết cỡ đến thế mà thôi. HCM đã
vi phạm tận gốc những giá trị văn hóa mà tổ tiên ta
vẫn hằng nâng niu, trân trọng, giữ gìn từ bao đời
nay. HCM đã dùng sự gian trá điêu ngoa tự hủy hoại
những giá trị văn hóa thiêng liêng của Dân tộc và Nhân
loại.
Điều này không phải
là một sự phỉ báng cực kỳ vĩ đại đối với Dân
tộc VN và lương tri nhân loại là gì ? Các nhà giáo và
trí thức VN thẳng thắn trả lời cho bao thế hệ học
sinh Việt Nam đi !!!
b) “Ngục
Trung Nhật Ký”
(Nhật ký trong tù – từ đây gọi là NKTT) được sáng
tác bởi ai ?
* Về ngoại vi : Theo các
tài liệu chính thức của CSVN xuất bản : Từ thôn Ba
Mông, huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây, HCM muốn đi Trùng
Khánh để gặp một lãnh tụ CSTQ là Chu Ân Lai, nhưng bị
bắt sáng sớm ngày 29-8-1932 tại thôn Túc Vinh, Tĩnh Tây,
Quảng Tây cùng với Dương Đào dẫn đường, trên người
có nhiều loại tiền, nhiều giấy giới thiệu khác nhau
do nhóm HCM tự khắc dấu, tự làm từ Lạng Sơn, VN với
các tên cũng khác nhau (Nguyễn Ái Quốc, HCM, Lý Thụy,
Hoàng Quốc Tuấn, Già Thu) và một số giấy do Trung Quốc
cấp từ trước. Trong đó có 2 giấy giới thiệu của
Phân hội VN của Quốc tế phản xâm lược (chống Nhật),
và của VN Độc Lập Đồng Minh Hội. Do đó, HCM bị nghi
là Hán gian, phải ở tù từ 29-8-1942 đến 10-9-1943, trong
18 nhà tù của quan quân Tưởng Giới Thạch ở vùng Tĩnh
Tây, Liễu Châu, Thiên Bảo, Bình Mã, Long Tuyền, Điền
Đông, Quả Đức, Long An, Đồng Chính, Ung Ninh, Nam Ninh,
Quế Lâm,… tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian ở tù 12
tháng 12 ngày ấy, HCM viết NKTT bằng chữ Hán trên hàng
trăm tờ giấy rời (nguyên bản). Sau đó, HCM được CSVN
phối hợp với CSTQ tìm mọi cách cứu ra tù, nhưng vẫn
bị đưa về quản chế hơn 1 năm tại Cục Chính trị
Chiến khu 4 của Chính phủ Tưởng Giới Thạch đến
20-9-1944. Thời gian này, HCM ghi chép lại (bản biên tập
lại - nguyên bản đã bị HCM hủy bỏ) 133 bài thơ ấy +
1 bài (b.) cuối làm thêm khi vừa ra tù (Tân xuất ngục
học đăng sơn, vừa ra tù học leo núi), tất cả 134 bài
thơ ngắn, trên 1 sổ nhỏ (9,5cm x 12,5 cm) dày 82 tờ (164
trang) bằng giấy bản tốt hơn, cũng toàn bằng chữ Hán
chuẩn, đóng thành 1 tập, ngoài bìa có vẽ hình đôi tay
bị xích, ghi thời biểu 29-8-1932 đến 10-9-1933 (lệch
trước thời gian bị tù thật đúng 10 năm). Bản dịch
phổ biến nhất (134 b.) là của 2 ông Nam Trân-Văn Trực,
do Viện Văn Học chịu trách nhiệm xuất bản lần đầu
năm 1960, dựa trên bản biên tập lại này. Có lần xuất
bản chỉ 111-113 b. Tài liệu khác lại ghi rằng ngay từ
đầu HCM đã viết NKTT trên một cuốn sổ nhỏ, và những
tháng tù cuối cùng kỳ này HCM bị giam ở nhà tù của
Cục Chính trị Chiến khu 4 của Chính phủ Tưởng Giới
Thạch. Tại đây HCM tiếp tục viết xong NKTT cho đến
ngày ra khỏi tù 10-9-1943. Có tài liệu ghi thời gian ở tù
thật sự lần này là gần 14 tháng (28.8.1942-10.1943).
HCM về lại VN cuối
tháng 9-1944, mang theo tập thơ, giữa đường từ Pác Bó
đi Tân Trào, lưu lại lán tranh của ông Hoàng Đức Triều
ở Lam Sơn, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng từ 29-4 đến
9-5-1945. Lần kia HCM tiện tay giắt tập thơ vào mái lán
tranh của ông Triều và bỏ quên nó ở đó. Sau khi HCM đi
khỏi vài ngày, ông Triều phát hiện tập thơ, cậu Hoàng
Triều Ân là con trai út của ông Triều bảo bố cất đi.
Gần 5 năm sau, đầu năm 1950, ông Triều trao tập thơ cho
cậu Triều Ân dặn là phải gửi cho HCM. Hoàng Triều Ân
trao tập thơ cho Bí thư tỉnh ủy Cao Bằng là Dương Công
Hoạt. Ông Hoạt giữ nó thêm 5 năm, đến năm 1955, tập
thơ được gửi đến Phủ Chủ tịch theo đường công
văn : “Gửi văn phòng Chính phủ để trình lên Bác Hồ”.
(Tài liệu khác : Khoảng cuối năm 1954, 1 người Nùng về
Phủ Chủ tịch tận tay trao lại tập thơ mà HCM đã bỏ
quên ở nhà ông ấy). HCM tiếp nhận tập thơ quí của
mình, mừng rỡ, cảm ơn, rồi không màng chi đến nó,
trao cho phòng lưu trữ của Trung ương đảng Lao Động VN
hơn 4 năm nữa (nó bị quên tất cả gần 14 năm).
Đầu năm 1959, ông
Phạm Văn Bình (Văn Trực), trưởng ban giáo vụ trường
đảng Nguyễn Ái Quốc, tình cờ phát hiện “đại tác
phẩm” này, mượn ông Hùng, người quản thủ phòng lưu
trữ, đưa về nhà, nhờ ông Văn Phụng dịch chữ Hán,
rồi ông Văn Trực (PVBình) dịch thành thơ quốc ngữ. Sau
đó, ông Bình trao tập thơ gồm 133-134 b. cho 2 ông Trường
Chinh, Tố Hữu. Ông Tố Hữu giao cho 2 ông Đặng Thai Mai
và Hoài Thanh thuộc Viện Văn Học trách nhiệm xuất bản.
2 ông Mai-Thanh lại giao cho ông Nam Trân cùng ông Văn Trực
xem lại bản dịch để tháng 5-1960 xuất bản vừa là lần
đầu, vừa đại trà 47 vạn bản (NXB Phổ Thông 45 vạn
bản, NXB Văn Hóa 2 vạn bản) kịp mừng HCM 70 tuổi và
phổ cập cho toàn dân học tập (sau gần 16 năm 4 tháng kể
từ khi nó ra đời). Về sau có thêm các bản dịch khác,
nhưng bản phổ biến nhất vẫn là bản dịch của 2 ông
Nam Trân-Văn Trực do Viện Văn Học chịu trách nhiệm này.
Đến lúc đó, xem ra HCM vẫn thờ ơ lãnh đạm với việc
dịch, xuất bản tập thơ “rất lừng danh” của mình.
Khi cận vệ đọc cho nghe, HCM chỉ hững hờ nói : “Thơ
các chú dịch hay hơn thơ của bác”. Những cận thần
đều cho là vì HCM rất mực khiêm tốn, đã siêu thoát
khỏi vòng danh lợi thường tình. (Thực ra HCM có tự dịch
b.134 với bút danh T.Lan như một dịch giả ẩn danh nào
đó).
* Về nội dung : Trong cả
tập thơ 133 b. chỉ có 2 câu duy nhất đề cập đến VN
khi tác giả tự khẳng định mình là người Việt ở
phần mở đầu đoạn II (b.5) của b. Thế Lộ Nan (Đường
đời gian nan – b.4-5-6) : Dư nguyên Đại biểu Việt Nam
dân, Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân. (Ta vốn là Đại
biểu của Dân Việt Nam, Định đến Trung Hoa gặp nhân
vật quan trọng), có lẽ HCM khi chép lại
(10.9.1943-20.9.1944) đã làm thêm. Còn b.134 “Tân xuất ngục
học đăng sơn” (vừa ra tù học leo núi) có câu cuối :
Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân (Trông lại trời Nam, nhớ
bạn xưa) được hiểu về Việt Nam, không có trong tập
thơ chính, được HCM làm sau khi đã ra khỏi tù.
Ngoài 3 câu thơ trên,
tuyệt nhiên tác giả không hề gợn nhớ đến một danh
lam thắng cảnh đặc sắc nào của Việt Nam, không hề
hồi tưởng lại một phong tục tập quán nào của người
Việt, không hề đề cao một nét đặc trưng hay một đức
tính cao đẹp nào của con người thuần Việt, không hề
đề cập đến tính chân chất của dân quê hoặc miền
quê Việt Nam. Tất cả các Danh nhân và Anh hùng Dân tộc
lừng danh như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Lê
Quí Đôn, Chu Văn An, Mạc Đỉnh Chi…, các địa danh nổi
tiếng của VN như Ba Đình, Bạch Đằng, Chi Lăng, Đông
Đô, Đống Đa, Hạ Long, Hoàng Liên Sơn, Sa Pa, Thăng Long,
Yên Tử…các biến cố sôi động tại VN, kể cả các
đồng chí CSVN của HCM… đều hoàn toàn vắng bóng trong
NKTT. Tất cả đều chỉ nói về đất nước Trung Quốc,
người Hán và quan quân Tưởng Giới Thạch… kể cả tâm
sự của tác giả cũng đa phần là của một người Hán,
nhiều bài lại là tâm sự của một người Hán tầm
thường nữa.
***
*** Thử phân tích đôi
điều : - Tôi đã ở tù 5 lần (1968 tại quận 8, Sài Gòn;
1977 tại Thừa Phủ, Huế; 1983-1992 tại Thừa Phủ, Huế +
Thanh Cẩm, Thanh Hóa + Nam Hà, Hà Nam; 2001-2005 tại Thừa
Phủ, Huế + Nam Hà, Hà Nam; 2007-2010 tại Thừa Phủ, Huế
+ Nam Hà, Hà Nam). Cũng như hầu hết các tù nhân khác mới
bị bắt + tạm giam, như CSVN vẫn rêu rao, thời nay “văn
minh – nhân đạo” hơn thời Tưởng Giới Thạch rất
nhiều, thế mà một mảnh giấy, một cây bút bi cũng rất
khó có, rất hiếm khi Cán bộ lờ đi hoặc cho dùng. Chỉ
khi nào đã xử xong, ở trại giam, tùy loại tù nhân có
thể được giữ giấy bút và cũng chỉ tùy từng giai
đoạn. Làm sao trong tù thời ấy HCM mới bị bắt và đang
bị tạm giam mà có sẵn giấy, bút lông, mực xạ dễ
dàng đến thế ? HCM xuất nhập trại 18 lần, chuyển trại
17 lần, mỗi lần phải đi bộ hàng mấy chục cây số,
làm sao che mắt nổi quan quân Tưởng Giới Thạch với
hàng trăm mảnh giấy ghi thơ trực tiếp phê phán chế độ
lao tù “rất khắc nghiệt” của họ Tưởng ? Thần
thông biến hóa hơn lão Tôn Ngộ Không chăng !?! Bị tù
gần 2 năm ở Hồng Kông (6.1931-1.1933) lâu hơn, điều kiện
tốt hơn, thuận lợi hơn, văn minh hơn rất nhiều, nhưng
tại sao HCM không làm một bài thơ nào ?
- HCM bị bắt vì bị nghi
là Hán gian. Vậy sự thường, cách tốt nhất để chứng
minh mình không phải là Hán gian, là bằng mọi cách HCM
phải luôn khẳng định mình là người Việt (như 2 câu
mở đầu đoạn II (b.5) của bài Thế Lộ Nan : “Ta vốn
là Đại biểu của Dân Việt Nam, Định đến Trung Hoa gặp
nhân vật quan trọng”, mà nhiều người cho rằng khi chép
lại ở Cục Chính trị Chiến khu 4, HCM đã thêm đoạn II
- 4 câu này - vào sau), phải làm thơ bằng tiếng Việt,
sao lại bằng chữ Hán ? Là nói nhiều về Việt Nam, sao
lại chỉ nói về Trung Quốc, người Hán ? Là luôn tự
hào mình là người Việt Nam, sao lại tự hào mình là một
“lương Hán (hán)”, sao chỉ đến khi ra tù mới nhớ
đến trời Nam ? Lạ lùng nhất là tại sao HCM lại phải
tự hạ đến mức là “nô thần, nghiệt tử” của lãnh
tụ Tưởng Giới Thạch (Độc Tưởng công huấn từ
b.120) ???
- Thường tình hợp lẽ
tự nhiên nhất, khi bị bắt, với các loại tiền, nhiều
giấy tờ, tên tuổi trên người, HCM trước tiên đã phải
bị nghi là một người Việt rất nguy hiểm, đang có âm
mưu chính trị gì đó khi xâm nhập vào Trung Quốc, chứ
không thể bị nghi là Hán gian được. Phải chăng việc
bị nghi là Hán gian là do chính HCM tự hô lên cốt để
dễ ăn khớp với ý thơ của Ngục Trung Nhật Ký của một
người Hán nào đó quả thật đang bị chê trách là đồ
Hán gian, như tác giả tâm sự ở đoạn III bài Thế Lộ
Nan (b.9) : Trung thành, ngã bản vô tâm cứu, Khước bị
hiềm nghi tố Hán gian (Ta người ngay thẳng, lòng trong
trắng, Lại bị tình nghi là Hán gian). HCM chỉ có thể bị
nghi là Việt Cộng, Việt gian, chứ không thể bị nghi là
Hán gian được !!!
- Các bài “Nan hữu Mạc
mỗ” (Bạn tù họ Mạc-b.26), “Nan hữu nguyên Chủ nhiệm
L.” (Bạn tù L. nguyên là Chủ nhiệm-b.27), “Long An Lưu
Sở trưởng” (Sở trưởng Long An họ Lưu-b.40), “Quách
tiên sinh” (Tiên sinh họ Quách-b.91), “Mạc Ban trưởng”
(Ban trưởng họ Mạc-b.92), “Mông ưu đãi” (Được ưu
đãi-b.110), “Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên (Khoa trưởng
họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng-b.114), “Lương Hoa Thịnh
tướng quân thăng nhậm Phó Tư lệnh” (Tướng Lương Hoa
Thịnh thăng chức Phó Tư lệnh-b.121),“Tặng tiểu hầu
Hải” (Tặng chú hầu Hải- b.122), “Trần Khoa viên lai
thám” (Khoa viên họ Trần tới thăm-b.126), “Tức cảnh”
(b.132) chỉ toàn ca tụng hoặc đề cập đến người
Tàu/Hán: Trương Phi, Quan Vũ, chúc mừng, khen tặng, đón
tiếp, mô tả các Tướng lãnh, Đại nhân họ Mạc, Chủ
nhiệm L., họ Lưu, họ Quách, họ Lương, họ Ngũ, họ
Hoàng, họ Trần, họ Tưởng, chú giúp việc người Tàu…
- Bài “Dạ Bán” (Nửa
đêm-b.99) mở đầu : Thụy thì đô tượng thuần lương
Hán, Tỉnh hậu tài phân thiện, ác nhân (Ngủ thì ai cũng
là người Hán tốt, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền). Hán
đây cũng có thể hiểu là người đàn ông : hán tử, hảo
hán. Ngủ thì ai cũng là chàng hảo hán tốt. Nam Trân dịch
gượng : Ngủ thì ai cũng như lương thiện. Hoàng Quảng
Uyên dịch diễn nghĩa o ép : Lúc ngủ, mọi người đều
có vẻ thuần hậu. Đâu là sự thật ?
- Bài “Song Thập Nhật
Giải Vãng Thiên Bảo” (Tết Song Thập Bị Giải Đi Thiên
Bảo-b.28) mở đầu : Gia gia kết thái dữ trương đăng,
Quốc Khánh hoan thanh cử quốc đằng. (Nhà nhà hoa Tết
với đèn giăng, Quốc Khánh reo vui cả nước mừng). Vì
sao HCM lại nặng lòng với Quốc Khánh Song Thập của
Trung Hoa Dân Quốc, để mừng Cách Mạng Tân Hợi
10-10-1911 ở Vũ Xương, Trung Quốc đến thế ?
- Bài “Hầu Chủ Nhiệm
Ân Tặng Nhất Bộ Thư” (Chủ nhiệm họ Hầu tặng một
cuốn sách-b.127) : “Khoảnh thừa Chủ nhiệm tống thư
lai, Độc bãi tinh thần giác đốn khai, Lãnh tụ vĩ ngôn
như tại nhĩ, Thiên biên oanh động nhất thanh lôi” (Sách
Ngài Chủ nhiệm mới đưa sang, Đọc đoạn, tinh thần
chợt mở mang, Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ, Chân trời
một tiếng sấm rền vang). Hầu Chủ nhiệm tức Hầu Chí
Minh, Chủ nhiệm chính trị chiến khu 4, người đã trực
tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch.
Cụ Hồ Học Lãm thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội năm 1935. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc (cũng là
Lý Thụy, Hoàng Quốc Tuấn, Già Thu, Sáu Sán, Ông Ké) đoạt
luôn Hội này và đoạt luôn biệt danh HCM của cụ Hồ
Học Lãm, sát nhập VN Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội
của Trương Bội Công – Nguyễn Hải Thần thành Mặt
Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi là Việt Minh,
do HCM làm lãnh tụ. HCM còn lắng nghe “…vẳng bên tai
lời lãnh tụ” Trung Hoa nào nữa ? Như vậy vị lãnh tụ
nào đó và tác giả đều là 2 người Tàu, không thể là
2 người Việt được !
- Một số bài đề cập
đến các việc rất lặt vặt, lời văn quá thô thiển
như : Chúc than (Hàng cháo-b.38), Quả Đức ngục (Nhà lao
Quả Đức b.39), Bào Hương cẩu nhục (Thịt chó ở Bào
Hương-b.82), Nhân đỗ ngã (Nhân lúc bụng đói-b.125),…
chỉ là văn chương của tù thường phạm, sao có thể
xứng đáng là tâm tư của một lãnh tụ đang nóng lòng
cứu nước thương dân ?
* Độc đáo nhất là bài
“Độc Tưởng công huấn từ” (Đọc lời giáo huấn
của Ông Tưởng”-b.120) : Trong phòng giam, nhân đọc Lời
Giáo Huấn của Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc Dân Đảng
Tưởng Giới Thạch, tác giả là thuộc hạ, con cái càng
tăng thêm quyết tâm kiên trì chiến đấu : “Bách chiến
bất hồi, hương tiền tiến, Cô thần nghiệt tử, nghĩa
đương nhiên; Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán, Tự hữu
thành công đích nhất thiên” (Gian khó không lùi vẫn
tiến lên, Thuộc hạ côi cút, phận con bất hiếu, đương
nhiên phải giữ nghĩa; Quyết tâm cố gắng cương nghị,
Nhất định có lúc phải thành công) (Cô thần nghiệt tử,
ai cũng phải hiểu là : Thuộc hạ côi cút, phận con bất
hiếu. Thế mà Đỗ Văn Hỷ cả gan dịch điêu : Thù nhà
nợ nước. Hoàng Quảng Uyên lại dịch càn: Phận tôi con
bơ vơ nhà tan nước mất để bao thế hệ triệu, triệu
sinh viên-học sinh học và thi !!!). HCM đang bị quan quân
Tưởng Giới Thạch bắt oan, dù giả bộ làm diễn viên
đóng kịch tôn thờ Tưởng Giới Thạch y như thật đến
đâu nữa, cũng không thể nào lại vô liêm sỉ đến mức
hạ mình bộc lộ tâm can, tự coi là thuộc hạ côi cút,
phận con bất hiếu của Tưởng Giới Thạch, nguyện quyết
tâm kiên trì chiến đấu cho đến thành công. Trong khi ở
nhiều bài thơ khác thì lên án chê trách nhà tù họ Tưởng
hà khắc đủ điều. Vậy tác giả thật sự là ai ??? Bộ
Chính Trị ĐCSVN và hàng ngàn giáo sư-tiến sĩ-sử gia giả
và thật của Bắc Bộ Phủ giải thích sao cho lọt tai đây
???
- Khi đã thong thả để
chép lại thành 1 tập thơ khổ nhỏ, còn phải đánh lạc
hướng bằng cách ghi lệch thời gian ở tù đúng 10 năm
trên bìa trước làm gì ? Hoặc là các cận thần cố tình
ghi lại thời gian tù dài hơn 12 tháng này (29-8-1932 đến
10-9-1933) cho khớp ngày, tháng trên bìa tập thơ, chỉ cố
tình cho lệch đúng 10 năm ? Tại sao lúc đầu, các tài
liệu ghi thời gian tù lệch bìa cũng 10 năm nhưng dài gần
14 tháng (28.8.1942-10.1943) ? Nếu nói tập thơ được làm
trong khi bị tù gần 2 năm ở Hồng Kông (6.1931-1.1933) thì
gần khớp với thời gian ghi trên bìa (29-8-1932 đến
10-9-1933) hơn, nhưng về nội dung thì không có gì ăn khớp
cả. Tắc tị. Bó tay.
- Một người rất trâng
tráo tự viết tiểu sử mình đến độ vô liêm sỉ, ham
mê danh vọng đến nỗi tự tán dương mình như một Vị
Thánh “khiêm tốn nhường ấy”, tự phong là “nhà văn
hóa lỗi lạc”, “lãnh tụ vĩ đại”, được “toàn
dân gọi là Cha Già Dân tộc kính yêu” như HCM-Trần Zân
Tiên, đã vì chiến tranh mà quên “đại tác phẩm” của
mình ở lán tranh Lam Sơn 11 năm, có thể tạm chấp nhận
được. Nhưng vì sao, một người hay làm thơ, yêu thơ đến
thế, khi đã vững trên ngai tại Hà Nội rồi, mà còn cố
tình bỏ quên “tập thơ kiệt xuất” con đẻ cực kỳ
trân quí của mình trong kho đến những 5 năm nữa ? Đến
khi nó, sau gần 17 năm, đã được long trọng xuất bản
đến thế, để mừng chính sinh nhật thượng thọ 70 của
mình, HCM vẫn xem ra thờ ơ lãnh đạm với nó. Có cơ sở
nào để cho rằng chỉ vì HCM rất mực khiêm tốn, đã
siêu thoát khỏi vòng danh lợi thường tình như những cận
thần xun xoe ? Phải chăng HCM không mấy vui vẻ tự hào về
“đạo văn kiệt tác” (kiệt tác văn ăn cắp) này ?
Nhất là sau khi nghe cận thần xầm xì về Trần Zân Tiên,
HCM đâm ra rất e ngại với “đại tác phẩm” hầu hết
không phải của mình ? Nhỡ có ai đó tỉnh táo bén nhạy
soi mói mà phát hiện ra điều gian ngụy gì thì đại khốn
nạn thay !!!
Ngay sau ngày gãy súng
30-4-1975 ít lâu, khi một học giả miền Bắc thuyết trình
về NKTT tại Sài Gòn, Giáo sư Lê Hữu Mục đã đứng lên
giữa hội trường chất vấn và khẳng định rằng NKTT
không phải của HCM. Và Gs Mục đã viết một sách chứng
minh như thế. Hiện nay, nhiều “học giả” và nhiều
“học thật” cũng cho là như vậy. Phim “Sự thật về
HCM” cũng khẳng định NKTT không thể là của HCM.
*** Chỉ sơ lược qua như
trên, phải chăng đây là cách giải thích gần sự thật
trần trụi nhất mà chúng ta có thể nhận ra: Gần trọn
tập thơ Ngục Trung Nhật Ký (NKTT) là do một người Hán
nào đó làm, HCM đã chép lại và có thể chỉ làm thêm
một số bài như đoạn II - 4 câu của bài Thế Lộ Nan
(9), bài “Các báo hoan nghênh Uy-Ki đại hội” (35), bài
Việt hữu tao động (79), bài “Anh phỏng Hoa đoàn”(Đoàn
Đại biểu Anh thăm Trung Hoa – bài 80), bài Ký Ni-lỗ (Gửi
Nê-ru – 87-88), bài Dương Đào bệnh trọng (116) nếu bạn
đồng hành của HCM đúng là có một ông Dương Đào...
Còn bài Tân xuất ngục học đăng sơn (134) chính HCM nói
HCM đã làm sau khi đã ra khỏi tù, không có trong tập thơ
chính.
Các giáo sư, giáo
viên không nên cứ cúi đầu dạy và bắt triệu triệu
học sinh-sinh viên ép lương tâm nhai đi nhai lại một tác
phẩm chứa đựng quá nhiều gian trá, mâu thuẫn, uẩn
khúc, mà không hề phân tích tự hỏi ngộ nhỡ đa phần
nó chỉ là đạo văn (thơ ăn cắp) của một tù nhân
người Hán nào đó thì sao ? Trước đây một số giáo
sư, giáo viên, người dân chỉ vì dám nói lên vài sự
thật nho nhỏ về HCM mà đã bị đi cải tạo mút mùa.
Nhưng nay tình hình đã khác, các học trò ruột trường
phái HCM sắp hết hơi rồi, không thể tiếp tục gian trá
mãi được !
Các nhà nghiên cứu,
các nhà giáo và trí thức VN hãy tỉnh táo, can đảm, mạnh
dạn, trung thực, thẳng thắn thừa nhận hoặc phanh phui
sự dối gạt kéo dài quá lâu trên tâm hồn và lương tri
bao thế hệ học sinh Việt Nam. Đó chính là sự giải
phóng đích thật mà toàn Dân - nhất là giới trẻ - đang
rất bức thiết cần đến !
c) UNESCO mù hay sao mà tôn
vinh HCM là nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại ? Sự
thật như sau : Năm 1987, CSVN có đệ trình một đơn xin
UNESCO (Tổ chức Văn hóa Giáo dục của LHQ) đến năm 1990
tôn vinh HCM là nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại
nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của HCM. Tại Paris, khóa
họp 24 từ ngày 20-10 đến 20-11-1987, Tiểu ban Văn hóa đã
ghi vào nghị trình Đại hội đồng UNESCO năm 1987 danh
sách sẽ được tuyên dương năm 1990 gồm 7 người : Phya
Anuman Rajadhon (Thái Lan), Thomas Munzer (Đông Đức), Anton
Semionovitch Makarenko (Liên Sô), Jawaharlal Nehru (Ấn Độ),
HCM (Việt Nam) và Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ). Lời tuyên dương
HCM dùng trọn bản văn do phái đoàn CSVN soạn cũng như
lời tuyên dương các nhân vật khác do phái đoàn quốc
gia liên hệ đề nghị, được Đại hội đồng thông qua
không thảo luận. Trong khóa họp 24 năm 1987 này, với sự
ủng hộ của Tông Thư ký M’Bow, người châu Phi, UNESCO
đã ra một Nghị quyết chấp thuận, lời lẽ theo đơn
xin của CSVN: “The year 1990 will mark the centenary of the birth
of President Ho Chi Minh, Vietnamese hero of national liberation and
great man of culture”. (Năm 1990 sẽ kỷ niệm 100 năm sinh
nhật Chủ tịch HCM, anh hùng giải phóng dân tộc và nhà
văn hóa lớn).
Nhưng rồi bộ mặt thực
của chế độ CS và các siêu lãnh tụ CS Staline, Mao Trạch
Đông, Ceaucescu, HCM, Kim Nhật Thành… dần lộ rõ, làm rơi
mặt nạ các thần tượng được tô phết mấy chục năm
qua. Có quá nhiều chống đối rằng HCM và CSVN vi phạm
nhân phẩm nhân quyền, hủy diệt văn hóa, mâu thuẫn với
mục tiêu của Liên Hiệp Quốc và UNESCO.
Tân Tổng Thư Ký Frederico
Meillor, Tây Ban Nha, cho rằng không cần một Nghị quyết
khác để hủy bỏ Nghị quyết năm 1987 ghi nhận đề nghị
của VN về việc kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông HCM
vào năm 1990, nhưng UNESCO sẽ không tổ chức kỷ niệm và
không can dự bất cứ hành động nào để vinh danh HCM tại
trụ sở Paris. UNESCO không dự trù ngân khoản cho việc
đó. Việt Nam muốn kỷ niệm sinh nhật 100 năm của HCM là
tùy ý riêng, không liên quan UNESCO.
Ngày 19.5.1990, UNESCO không
tổ chức gì liên quan đến HCM, đồng thời cấm CSVN lấy
danh nghĩa UNESCO để tổ chức (hội trường, thiếp mời).
CSVN đã tự tổ chức. Ngày 19.5.1990 Sứ quán CSVN chỉ
mướn được một phòng sinh hoạt nhỏ của LHQ với
khoảng 60-70 khách, hầu hết là Việt kiều CS, vài đảng
viên CS Pháp, bạn bè Cuba, Trung Cộng, Bắc Triều Tiên,
Kămpuchia, Lào. Vào đúng giờ khắc buổi kỷ niệm của
sứ quán CSVN, hơn 100 Việt Kiều đã biểu tình phản
kháng ở công trường Fontenoy gần trụ sở UNESCO, đả
đảo sự vinh danh HCM, người có tội trước lịch sử
nhân loại, đã tàn hại đất nước và dân tộc Việt
Nam và 2 nước Kămpuchia, Lào.
Những điều này đã có
nhiều tài liệu chứng minh đủ rõ rồi. Nghĩa là có nộp
đơn xin thi hoa hậu, ban tổ chức chấp thuận đơn xin,
nhưng hoàn toàn bị đánh trượt. Chỉ có thế và chỉ có
thế. UNESCO thấy không cần phải lên tiếng xác minh lại.
(Xin đọc thêm : “Lật tẩy việc mạo danh UNESCO lừa gạt
công luận & 84 triệu Dân VN” do tác giả sưu tập năm
2006).
14. Từ gần 65 năm nay,
CSVN luôn phỉnh gạt là VN có Tự do Bầu cử, Ứng cử.
Thực chất là do ĐCSVN tự biên, tự diễn, độc diễn
toàn trị. Các Đại biểu ứng cử cũng tự biết mình
chỉ là con cờ trong tay Đảng sai khiến, làm bung xung cho
trò dân chủ giả hiệu. Còn các Đại biểu đắc cử
cũng biết mình chẳng phải là Đại biểu cao cả của
Nhân dân gì cả. Đích thật là bù nhìn, hầu như chỉ
biết đưa tay biểu quyết nhất trí theo ý của Bộ Chính
trị của Trung Ương Đảng. Đây không phải là điều
gian trá vĩ đại đẳng cấp HCM siêu lừa ngay giữa cộng
đồng quốc tế thì là gì ? Mời Bộ Chính trị giải
thích sao cho lọt tai toàn Dân đang dần dần thức tỉnh
đây.
15. Nhân dân làm chủ ?
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” thật không ? Ai cũng thấy hoàn toàn chỉ là láo
lường. Chính xác là : Đảng lãnh đạo Nhà nước, quản
lý Nhân dân, làm chủ. Hoặc chính xác hơn nữa là : Đảng
CSTQ lãnh đạo, Đảng CSVN quản lý, Nhân dân TQ làm chủ
lãnh thổ và nền kinh tế của VN. HCM nói : “Dân chủ là
làm cho Dân mở miệng” và “Cán bộ là đầy tớ của
Nhân dân”. Nhưng Dân mở miệng là bị bịt miệng ngay,
là bị nhốt vào tù tấp bá lị. Đầy tớ mà muốn hăm
dọa, đàn áp, bắt bớ, đánh đập, bắn giết… các Ông
Chủ sao, lúc nào và bao nhiêu cũng được. Dân
chủ kiểu XHCN made in VN là như thế ! HCM cũng nói : “Dân
chủ là một báu vật, để sơ hở sẽ dễ mất, phải để
vào hòm khóa lại. Chuyên chính vô sản chính là cái ổ
khóa để bảo vệ Dân chủ cho khỏi mất” !!! (x. Vũ
Đình Hòe, Pháp quyền HCM, 2 tập, tập 1. Sách bị nhốt,
chưa ghi số trang, NXB và năm XB được. Mong thứ lỗi).
16. Hoàng Sa, Trường Sa là
của Việt Nam hay của Trung Quốc ? Trước khi về tiếp
quản Hà Nội, sáng 19-9-1954 tại cửa Đền Giếng, khu di
tích Đền Hùng, núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ trước cán bộ Đại đoàn Quân tiên
phong, HCM đã nói : “Các vua Hùng đã có công dựng nước,
bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.”(?) HCM muốn
liệt mình vào hàng khai quốc ngang hàng các vua Hùng.
Nhưng chỉ 4 năm sau, để
Trung Cộng viện trợ vũ khí và lương thực hầu xâm lược
miền Nam, CS Bắc Việt đã thỏa thuận ngầm với Trung
Cộng. Ngày 4-9-1958, Trung Cộng tuyên bố 2 quần đảo
Hoàng Sa (hơn 20 đảo) và Trường Sa (hơn 100 đảo) là của
TQ (trong khi Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý canh giữ).
Chỉ 10 ngày sau, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
của Việt Cộng, theo lệnh của HCM, đã ký công hàm xin
tôn trọng bản Tuyên bố “ăn cướp” của Trung Cộng
và cúi đầu vâng phục. Năm 1974, Trung Cộng xua hải quân
đánh chiếm Hoàng Sa, ngoài khơi Đà Nẵng, lính VNCH phải
tử trận hơn 150 chiến sĩ. Bắc Việt lúc đó im re, lại
còn mê muội vừa nhẫn tâm gọi những người anh em ruột
thịt của mình đã liều chết đổ xương máu bảo vệ
giang sơn của Tổ Tiên để lại là “Ngụy quân, Ngụy
quyền”, vừa hèn hạ gọi quân xâm lược Trung Cộng là
“các đồng chí vĩ đại Trung Quốc kính yêu” (Đó là
đạo lý của CSVN). Năm 1982, Trung Cộng lại xua quân đánh
chiếm thêm hơn 10 đảo thuộc quần đảo Trường Sa ngoài
khơi Vũng Tàu của VN.
Hiện nay, trong khi hầu
như toàn Dân, nhất là giới trẻ VN, tìm mọi cách để
giành lại Hoàng Sa-Trường Sa, thì NCQ CSVN lại theo đuổi
một thủ đoạn vòng vo phức tạp : 1) Vừa lật lọng phủ
nhận công hàm bán nước ngày 14-9-1958 của CS Bắc Việt
rằng : Lúc đó chủ quyền 2 quần đảo này đang thuộc
về Chính quyền VNCH Sài Gòn trước công pháp quốc tế,
nên công hàm 14-9-1958 của CS Bắc Việt vô giá trị; 2)
Vừa tổ chức hội thảo rùm beng về chủ quyền của VN
trên 2 quần đảo này để che mắt Dân chúng VN; 3) Vừa
úp mở trong hồ sơ chính thức nộp cho LHQ về lãnh hải
VN; 4) Vừa không thật lòng quyết tâm bênh vực bảo vệ
tàu thuyền và ngư dân VN qua lại vùng biển quanh Hoàng
Sa-Trường Sa; 5) Vừa nhượng thêm đất liền qua việc
giao đất rừng miễn phí 50 năm cho Trung Cộng lên đến
300 ngàn hécta và tạo điều kiện cho Tàu Cộng có mặt
lâu dài ở VN; 6) Vừa thẳng tay đàn áp Dân chúng biểu
tình bày tỏ lòng yêu Nước chính đáng của mình về chủ
quyền lãnh thổ do Tổ Tiên để lại, đến nỗi Dân và
thanh niên VN chỉ dám lén lút ghi tên lãnh thổ của mình
bằng các từ viết tắt HS-TS-VN, để khi bị đàn áp quá
chịu không thấu thì phải nói dối méo miệng là Học
Sinh-Trong Sạch-VN theo gương siêu gian trá của HCM !!!
Nếu CSVN đã trao Hoàng Sa
– Trường Sa cho TQ rồi, thì phải công bố thật rõ cho
người Dân biết, để Dân VN đừng liều mạng đến mưu
sinh quanh 2 quần đảo này nữa, vì không được lực
lượng nào bảo vệ hữu hiệu cả.
Còn nếu CSVN thật tâm
cương quyết và kiên trì thu hồi lại trọn vẹn 2 quần
đảo này thì lẽ ra phải tự hào hãnh diện và vui mừng
khuyến khích, tại sao lại bôi mặt và nhẫn tâm đàn áp,
bắt giam những người Dân xả thân liều chết biểu tình
đòi lại 2 quần đảo đã mất gần hết này?
Nại lý do đây là vấn
đề ngoại giao nhạy cảm để 2 đảng CS dễ bề thậm
thụt với nhau về một vấn đề cực kỳ hệ trọng đối
với SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ và AN NINH TỔ QUỐC như thế,
có thể tiếp tục lừa bịp toàn Dân đang thức tỉnh
không ???
Thay lời kết : Những ai
tự coi hoặc được gọi là Trí thức, Sĩ phu,... đã biết
rõ 16 điều gian trá vĩ đại siêu lừa trên, mà vẫn hoặc
im lặng đồng lõa tiếp tay, hoặc đã hèn nhát ngậm tăm
hàng mấy chục năm nay : Lẽ nào lại cam tâm đồng lõa
với tội ác ngút trời trục giết vô số thai nhi sao ?
Hay đồng lõa với tội ác giết người cướp đất sao ?
Lẽ nào biết được mỗi năm hàng chục triệu học
sinh-sinh viên phải cúi đầu ép lòng học những điều
dối trá, mà có thể coi như không có gì đụng đến mình
sao ? Lẽ nào lại cam phận tiếp tục sống ô nhục vậy
mãi được sao ? Lẽ nào yên lương tâm mà đọc sách
thánh hiền sao ? Lẽ nào cứ tiếp tục hăng hái đi bầu
cách miễn cưỡng giả tạo như vậy mãi, lại còn thúc
giục người thân, thuộc nhân tham gia trò hề dân chủ
giả hiệu ấy mà không tự thẹn sao ???
Những ai chưa biết,
hoặc chưa nhận ra hết 16 điều gian trá vĩ đại đẳng
cấp HCM siêu lừa nêu trên, thì nay kính mời lắng nghe,
thấu hiểu và tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn, nhất
là tìm cách tự giải thoát, để có khả năng giúp càng
nhiều người Dân càng tốt, càng sớm càng mừng :
Từ bớt sợ hãi đến
hết sợ hãi. Từ bớt nói dối đến hết nói dối.
Tương lai Tổ
quốc-Dân tộc chúng ta trước tiên và cơ bản cốt tại
2 điều này, làm nền tảng cho tất cả các điều hệ
trọng bức thiết khác tiếp theo.
Xin chân thành cảm
ơn nhiều, nhiều lắm và rất nhiều.
Lm TNLT Nguyễn Văn Lý
Huế, 14-8-2010