Nguyên Phương
Vừa
bằng cái thúng mà thủng hai đầu,
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
TRANG
PHỤC PHỤ NỮ MIỀN BẮC THỜI XƯA
******
Vào
thế kỷ thứ nhứt, loài người trên quả địa cầu,
nam cũng như nữ hầu
như đều
mặc váy. Lý do là vì người ta chưa biết đến chiếc
quần. Đến thế kỷ thứ ba, chiếc quần theo chân các
sắc dân du mục sống trên lưng ngựa, rày đây mai đó,
xuất hiện ở những vùng
thảo
nguyên mênh mông. Dòng họ nhà quần sanh sôi nẩy nở, đến
Ba Tư thế kỷ thứ sáu rồi truyền qua Hy Lạp, La Mã, lan
sang Trung Á rồi Mông Cổ, Mãn Châu. Đến Trung Hoa thế kỷ
17 và từ đó vào Việt Nam.
Theo truyền thuyết, tổ
tiên ta từ thời vua Hùng Vương, đàn ông đóng khố, còn
đàn bà mặc váy. Y phục ngoài công dụng che thân thể,
nó còn phải đem lại sự tiện dụng cho người mặc.
Nước ta có khí hậu nhiệt đới và đa số dân quê sống
với ruộng đồng. Chàng khố và nàng váy quả là thỏa
mãn hai nhu cầu nầy.
Chiếc khố: Người ta dùng một
mảnh vải dài quấn xung quanh bụng rồi luồn xuống dưới
từ trước ra sau. Đuôi khố thường được thả ở phía
sau.
Giang sơn Việt Nam ta đến thời các chúa Nguyễn bờ
cõi mới mở rộng từ Trung vào Nam. Do vậy mà khố chỉ
hiện diện ở miền Bắc rất lâu trước đó. Đến đời
các vua Nguyễn, người ta nhìn vào màu sắc thắt lưng
hoặc xà cạp của quân phục để nhận ra binh chủng,
nhưng dân chúng vẫn quen gọi là khố. Những người lính
mang thắt lưng màu xanh được gọi là lính khố xanh, họ
là quân ở địa phương. Ngoài ra còn có lính khố đỏ
thuộc đội quân thường trực và lính khố vàng mang thắt
lưng vàng phục vụ cho cung đình.
Chiếc váy: Tương ứng
với chiếc khố của phái nam, váy là y phục dùng che phần
dưới của người phụ nữ miền Bắc rất phổ biến.
Mặc váy không những mát mẻ mà còn thích hợp với công
việc đồng áng lội nước xuống bùn.
Váy còn gọi là xống. Thời Trịnh Nguyễn phân
tranh, từ ngữ “áo xống” nói về y phục phụ nữ đàng
Ngoài tức miền Bắc chúa Trịnh. “Áo quần”chỉ y phục
đàng Trong miền Nam thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Vừa bằng cái thúng mà thủng hai
đầu,
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
Đó là câu ca dao mô tả cái váy còn được mệnh danh là
cái quần không đáy.
Tổng quát có hai loại váy: “váy kín” là loại
váy chui và “váy mở” là loại váy quấn. Chiếc váy
người dân lao động luôn đậm màu và dài đến nửa bắp
chân. Khi cần, như phải lội nước, váy được xắn lên
hai bên hông theo lối “quay cồng”. Váy thành thị dài
đến gót chân nên có câu: “Váy lĩnh cô kia quét sạch
hè”.
Thứ váy cầu kỳ như váy kép may bằng hai lớp vải.
Bên ngoài bằng vải mỏng và nhẹ để trang trí. Lớp
trong bằng vải thô và dày, khó rách. Váy cạp điều lưng
bằng loại hàng tơ màu đỏ. Váy cửa võng phía trước
chùng xuống với các mép gấp cong cong. Trong bài thơ Lá
Diêu Bông của Hoàng Cầm có câu: "Váy Đình Bảng
buông chùng cửa võng". Đình
Bảng là tên làng ở Bắc Ninh.
Giai thoại về chiếc váy: Ông Lý trưởng làng bên,
trên đường ra đình, tay cầm ô đen trịnh trọng. Khi đi
ngang qua chỗ thợ gặt, một cô trong nhóm ngâm nga:
Hôm qua em mất xống thâm,
Hôm nay em gặp người cầm ô đen.
Ông Lý tự nhủ sáng nay ra ngõ không coi ngày, gặp đám
con gái điêu ngoa. Tam thập lục kế, cụp ô, ngậm miệng,
bước nhanh là thượng sách. Ai đời cô nàng vu oan cho ông
là trộm đạo. Ác khẩu hơn nữa, cái xống là y phục
dưới trôn của phụ nữ lại trùm lên đầu ông. Có phải
nói ông Lý đội váy của cô ả hay không cơ chứ ?
Chiếc váy còn được gọi là mấn theo người Nghệ
Tĩnh. Giai thoại về một bài thơ thất ngôn nói về
chuyện mất váy mà có nơi cho là của thi hào Nguyễn Công
Trứ.
Tương truyền ở Nghi Xuân có người đàn bà chua
ngoa rất mực. Một hôm không tìm đâu ra chiếc váy, thế
là bà nổi cơn thịnh nộ chửi đổng từ đầu làng đến
cuối chợ. Lời chửi đâu mất tiền mua, tha hồ mà chửi
cho chừa lòng tham. Thế nhưng quân trộm đạo ra tay xong
thì dong. Chỉ tội cho chòm xóm phải chịu cảnh quít làm
cam chịu. Giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha.
Chàng Nguyễn tình cờ đi ngang qua đó sau khi nghe mọi
người thuật lại đầu đuôi tự sự bèn xuất khẩu
thành thi
Thằng cha con bợm thật là ghê,
Cắp mấn nhà ai đã độc hề.
Bữa trước ra đi còn có bận,
Bây giờ ngồi ngó lấy gì che.
Thương thay lạnh lẽo ba mùa rét,
Tội nhỉ trần truồng một nố tê.
Của mất người còn, còn có của,
Thôi thôi đừng chưởi xóm giềng
nghe.
Sông Gianh đôi bờ phân chia váy với quần. Trên đất
Bắc, váy được vua yêu. Quảng Bình đèo Ngang trở vào,
chúa hất hủi.
Thời gian trôi qua, vật đổi sao dời, lịch sử đổi
thay. Số phận chiếc váy cũng nổi trôi theo vận nước.
Vua Gia Long thống nhất sơn hà, Bắc Nam là một không thể
luật pháp văn hóa khác nhau. Năm 1828, vua Minh Mạng hạ
chiếu phụ nữ đất Bắc bỏ váy thay quần cho hợp nhất
cả nước. Đến tháng 9 năm 1837, vua lại ra lịnh lần
nữa. Người dân buộc phải xa rời vật “bất ly thân”
nên bất bình phản ứng
Tháng chín có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi
hùng.
Chiếc Yếm
Trong ca dao văn học Việt Nam, ta thấy nói nhiều đến
cái yếm, trang phục thuần túy của người phụ nữ miền
Bắc ngày xưa. Yếm vừa để che ngực, vừa làm tăng nét
đẹp dịu dàng e ấp. Cũng như chiếc váy, người phụ nữ
tự cắt may lấy bằng tay. Trời nóng không ra đường,
các bà mặc yếm để lưng trần, hở hai cánh tay và đôi
vai.
Chiếc yếm có nhiều kiểu nhiều màu làm bằng nhiều
loại vải... rất phong phú tùy theo tuổi tác, cuộc sống
của người mặc. Hằng ngày làm việc, phụ nữ nông thôn
mặc yếm nâu bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm
sậm màu. Nơi thành thị ít lam lũ, phụ nữ mặc yếm
trắng. Những tiểu thơ đài các, hoặc ngày lễ hội, các
cô mặc yếm đào, yếm thấm bằng lụa vóc ưa nhìn gợi
cảm.
Hỡi cô yếm trắng lòa xòa,
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là chúc bâu.
Hay là lụa bạch bên Tàu,
Người cắt cũng khéo, người khâu
cũng tài.
Vì chiếc yếm dùng để che ngực nên nó là biểu tượng
cho nữ giới. Khi giặt xong, các cô phơi yếm vào nơi kín
đáo.
Những câu ca dao nói về tình yêu nam nữ, về thân phận
đàn bà, thường lãng đãng hình ảnh trầu cau hay chiếc
yếm.
Thuyền anh ngược thác lên đây,
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Nét quyến rũ của chiếc
yếm làm cho anh đồ phải lòng.
Yếm trắng mà vã nước hồ,
Vã đi vã lại anh đồ yêu thương.
Những câu ca dao trữ tình diễn tả tình yêu nam nữ và
hạnh phúc hôn nhân bằng những ngôn từ bình dị, đơn
sơ, mộc mạc dễ đi sâu vào lòng người.
Hỡi cô mặc áo yếm hồng,
Đi trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô kia yếm trắng lòa lòa,
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín cà xanh,
Anh cho một quả để dành mớm con.
Đi trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô kia yếm trắng lòa lòa,
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín cà xanh,
Anh cho một quả để dành mớm con.
Nổi lòng luyến ái của hai kẻ bén duyên trước khi xa
nhau.
Mình về mình có nhớ chăng?
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
Thân phận người phụ nữ
con nhà khá giả vì chữ tình mà gá nghĩa “thanh bần”.
Khi xưa ở với mẹ cha,
Một năm chín yếm xót xa trong lòng.
Từ khi em về nhà chồng,
Chín năm một yếm, em lật trong ra ngoài.
Một năm chín yếm xót xa trong lòng.
Từ khi em về nhà chồng,
Chín năm một yếm, em lật trong ra ngoài.
Chiếc yếm của các thiếu
nữ ngày xưa có sức quyến rũ mảnh liệt đến cở nào
mà làm cho người xa lánh trần tục còn phải chao đảo
thần hồn.
Thấy
cô yếm thắm răng đen,
Nam Vô Di Phật lại quên mất chùa.
Hơn thế nữa
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thấm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu..
Có phải yếm là bùa ám ảnh những đấng mày râu hay
chăng?
Gặp cô gái dưới mưa, chàng “ân cần” khuyên nhủ
Trời mưa lấy yếm mà che,
Có anh đứng gác còn e nỗi gì?
Chiếc yếm là một vuông vải chéo hình thoi trước ngực.
Góc trên khóet hình bán nguyệt làm cỗ yếm. Hai đầu cổ
đính hai dải để khi mặc buộc vòng ra sau gáy. Hai đỉnh
giữa của hình thoi cũng đính hai dải buộc ra sau lưng.
Phần đỉnh hình thoi phía dưới khi mặc thì nhét vô cạp
quần. Khi cần làm dáng, dải yếm dài ôm lấy lưng ong,
quàng ra trước, thắt lại thả lững trước bụng. Đó
là kiểu “thắt lưng con én” (làm đờ đẫn mấy con
nhạn là đà).
Ước gì sông hẹp tày gang,
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang
chơi.
Sông chỉ rộng gang tay và cầu làm bằng dải yếm, lối
nói chối từ khéo léo theo kiểu huề vốn của các nàng.
Theo thời gian, chiếc yếm ngày càng cải tiến. Tùy
theo cổ yếm mà người ta gọi tên. Chiếc yếm cổ tròn
gọi là yếm cổ xây thông dụng hơn hết vì kiểu
dáng đơn giản dễ làm. Yếm cổ hình chữ V gọi là yếm
xẻ. Nếu chữ V được xẻ sâu xuống phía dưới gọi
là yếm cổ cánh nhạn. Để tăng vẻ thẩm
mỹ, các cô may thêm lằn viền hoặc thêu hoa quanh cổ.
Những người thích mời gọi theo kiểu Thị Mầu thì mặc
yếm cánh nhạn với lằn xẻ chữ V trễ quá bờ ngực.
Miếng trầu là đầu câu chuyện và trầu cau là chuyện
lứa đôi. Các cô gái chuẩn bị trầu trong thắt lưng hay
yếm đào mời chàng khi thuận dịp gọi là “khẩu trầu
dải yếm”
Trầu em têm tối hôm qua,
Cất trong dải yếm mở ra mời chàng.
Nhiều cô gái may thêm cái túi nhỏ đựng xạ hương
(thay cho nước hoa) gọi là yếm đeo bùa. Trong
bài ca dao Mười Thương có câu: “Năm thương cổ yếm
đeo bùa”, đó là nói loại yếm “lợi hại”nầy.
Thành ngữ “váy vận, yếm mang”diễn tả trang phục
phụ nữ miền Bắc khi xưa. Chiếc yếm là loại y phục
đầy tính nghệ thuật vừa kín vừa ỡm ờ thật độc
đáo.
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn, đàn bà yếm
thắm hở lườn mới xinh”.
Nhiều người cho rằng yếm dùng để tôn vinh cho cái eo
lưng vốn là nét đẹp phụ nữ Việt Nam qua câu: Những
người thắt đáy lưng ong, đã khéo chiều chồng lại
khéo nuôi con. Chiếc áo dài hiện tại cũng xẻ lường
là chung ý đó.
Áo Tứ Thân
Những chiếc áo tứ thân, ngũ thân là loại có vạt
dài mà xưa nhất là chiếc áo giao lãnh. Áo tứ thân
là thoái thân của áo giao lãnh và sau đó là áo ngũ thân.
Sanh sau đẻ muộn là chiếc áo Cát Tường thướt tha hai
vạt rồi cải tiến dần mà thành áo dài các cô mặc
ngày nay.
Phụ nữ miền Bắc ngày xưa, chiếc yếm ôm lấy
thân người. Bên ngoài yếm là áo cánh mỏng màu trắng
hờ hững. Chiếc thắt lưng giữ áo cánh với cạp váy.
Ngoài cùng là áo giao lãnh hay tứ thân. Vì phải làm việc
đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu
gọn lại thành kiểu áo tứ thân
để tiện việc gánh gồng. Áo tứ thân khi
mặc xỏ hai tay vào, không có khuy cài, hai tà áo trước
cột lại với nhau rồi thả xuống, khác với áo giao lãnh
không cột.
Áo tứ thân xuất hiện từ thế kỷ 20 làm tăng vẻ
yêu kiều duyên dáng của người phụ nữ miền Bắc.
Trong sinh hoạt hàng ngày, áo tứ thân màu nâu hay đen đi
với váy nơm may bằng vải sồi, vải thô vừa dầy vừa
cứng, nhuộm bằng nhựa củ nâu rồi nhuộm thêm bùn sau
đó vì dân nghèo làm gì có thuốc nhuộm. Khi đi hội hè
đình đám, các cô mặc váy lụa, váy lĩnh hoa chanh với
thắt lưng điều hay màu xanh hoa lý bay bay trong gió. Chiếc
áo tứ thân may bằng vải the mỏng, nhiễu hay lụa, phủ
bên ngoài yếm thắm hay hồng đào.
Thuở ấy, khổ vải chỉ rộng từ 35cm đến 40cm nên
phải dùng đến 4 khúc vải để may 1 chiếc áo. Áo dài
từ cổ xuống tới gót. Vạt áo trước có hai tà xuôi
theo chiều dài. Khi mặc buộc hai tà áo trước bụng thả
xuống, tạo dáng thước tha. Bên trên để lộ chiếc yếm
thấm gợi tình e ấp. Phía sau lưng, hai mảnh vải may liền
với nhau gọi là can tà từ trên xuống thành một đường
gọi là sống áo. Như vậy vạt áo sau chỉ có một tà.
Bốn mảnh vải tạo nên chiếc áo mang ý nghĩa tứ
thân phụ mẫu luôn theo người phụ nữ trong các sinh hoạt
như nhắc nhở công đức sinh thành.
Áo Ngũ Thân
Nét đẹp thời trang thay đổi theo thời gian. Từ áo
tứ thân, người ta nghĩ ra kiểu áo ngũ thân có dáng vẻ
đoan trang hơn. Áo ngũ thân xuất hiện thời vua Gia Long
trở về sau vì khi mặc ngũ thân phải mặc quần chứ
không mặc váy như áo tứ thân. Tà áo bên trái của vạt
trước may to như vạt sau. Mỗi vạt áo trước sau đều
can tà có đường sống áo. Như vậy chiếc áo nầy cần
thêm khổ vải thứ năm nên gọi là ngũ thân. Khi mặc, để
tà áo trái ra ngoài đè lên tà phải bên trong nên với
ngũ thân, chỉ thấy hai mảnh trước sau. Áo ngũ thân có
cổ và cài nút che kín áo lót bên trong đi chung với quần
hai ống.
Chiếc áo ngũ thân nhắc nhở người mặc năm điều
đạo nghĩa trong tương quan đối xử là: nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín.
Áo
mớ ba mớ bảy là cách ăn mặc của những người
“của ăn của để” muốn phô trương. Trong dịp hội
hè đình đám, các bà các cô mặc những chiếc áo cánh
vàng chanh, hồng đào, cánh sen, ba bảy lớp chồng lên
nhau. Mùa đông miền Bắc lạnh, giới thượng lưu hay mặc
lối áo mớ nầy.
Người thì mớ bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơi.
Áo tơi làm bằng lá gồi của người bần nông dùng
để che mưa chống lạnh. Khi rách quá người ta máng nó
trên cọc biến thành người bù nhìn để đuổi chim
muông.
Thắt lưng bao là ruột tượng
may bằng miếng vải chéo thật dài rỗng ruột quấn xung
quanh lưng rồi thắt múi trước bụng. Dùng vải chéo dể
co dãn khó rách và bao mới phồng lên. Người mặc mang
thắt lưng là dải rút để giữ cạp váy vào eo cho khỏi
tuột. Ruột tượng quấn bên ngoài có tua hai đầu công
dụng như túi đựng tiền, trầu cau… Những bạn hàng
chợ búa không thể thiếu. Những dải yếm, thắt lưng,
với nhiều màu sắc thắm tươi phất phơ theo từng nhịp
bước, che kín “mật khu” và khoảng trống hai bên đùi
cho khỏi lộ liễu.
Hỡi cô thắt bao lưng xanh,
Có về kẻ Bưởi với anh thì về.
Làng anh có ruộng tứ bề,
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ.
Xà-tích.
Phụ nữ miền Bắc khá giả còn đeo chùm xà tích ở dây
lưng. Xà-tích bằng bạc gồm bốn năm dây có vòng móc,
mỗi dây mang một thứ vật dụng như chìa khóa, nhíp bạc,
hộp đựng vôi trầu thuốc hình quả đào. Mỗi bước
đi, các vật va chạm, xà-tích phát ra tiếng kêu rộn rả
vui tai.
Khen ai nhuộm nhiễu Tam giang,
Đánh dây xà tích cho nàng chơi xuân.
Nguyễn
Bính
Tóc đuôi gà. Ông bà
ta thường nói: “Cái răng cái tóc là góc con người”.
Phụ nữ có thói quen búi chải gọn gàng khi ra khỏi
giường đầu ngày, vừa bảo vệ mái tóc vừa làm tăng
nét dịu dàng. Người Trung và Nam ưa để đầu trần búi
tóc, các cô gái Bắc ngày xưa đa số vấn đầu. Họ buộc
tóc thành cuộn rồi bọc bằng chiếc khăn dài hẹp quấn
quanh đầu theo kiểu bánh rế. Đuôi tóc để chừa ra
ngoài khăn vấn một ít gọi là tóc đuôi gà đong đưa
theo nhịp bước thanh xuân.
Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Cái khăn vấn tóc dài hơn thước bằng vải, the, nhung,
satin thường màu đen, nâu hay tím thẫm. Ai ít tóc thì
dùng thêm chiếc độn để vấn đầu được tròn và đầy
đặn. Trong bài thơ Chùa Hương, tác giả Nguyễn Nhược
Pháp tả trang phục cô gái:
Khăn nhỏ, đuôi gà cao , Em đeo giải
yếm đào.
Quần lĩnh, áo the mới. Tay cầm nón
quai thao.
Khăn mỏ quạ cận kề che
chở mái tóc các cô gái Bắc thân cò ngược xuôi trên
đường quê vào những sáng tinh mơ dưới trời đông rét
buốt. Một vuông vải nâu, hoặc nhung đen chừng một
thước cạnh, gấp chéo thành hình tam giác, bên non bên
già. Bên già hơn nửa để ra phía ngoài phủ lên cái khăn
vấn tóc, túm chỗ vải trước trán nhọn ra như mỏ chim.
Nhờ hai đầu khăn buộc chéo nhau dưới cằm nên hai tai
được che kín chống lạnh.
Vì khăn đen màu quạ nên gọi là khăn mỏ quạ.
Thương ai mặc áo nâu sồng,
Chít khăn mỏ quạ lạnh lùng sớm
trưa.
Mùa hè các cô bịt “khăn
đồng tiền”,
hai đầu buộc ra sau gáy. Lối chít như vậy làm hằn lên
chiếc vấn tóc bên trong hình tròn như đồng tiền.
Khăn mỏ quạ phải chít
sao cho ôm lấy khuôn mặt người con gái như búp sen hồng
nổi bật trên nền đen của vải
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa
sen.
Ngoài
công dụng giữ cho cái vấn tóc khỏi tuột, che chở nắng
mưa, chống rét, khăn mỏ quạ còn là vật trang điểm làm
tăng nét khả ái của người phụ nữ thời xưa.
Nhìn em khăn vuông mỏ quạ,
Để anh trong dạ tơ vương.
Nón quai thao
là loại mắc tiền sang cả. Các cô gái Bắc thường chỉ
đội làm duyên trong các dịp hội hè đình đám.
Ai làm chiếc nón
quai thao,
Để cho anh thấy cô
nào cũng xinh.
Người Việt
mình ngày xửa ngày xưa có nhiều kiểu nón tạm kể ra
như: nón chóp, nón thúng, nón ba tầm, nón gủ.
Nón chóp
nhọn đầu, khung bằng tre lợp lá gồi. Nón có quai ngang
cằm, dành cho đàn ông. Người có tiền, các quan lại
tổng lý lắp cái chóp nhọn bằng bạc trên đỉnh.
Nón thúng
là loại nón dành riêng cho phụ nữ, có hình dáng như cái
nắp hộp tròn. Chiếc nón dẹp nên còn gọi là nón
dẹt,
rộng mặt, chung quanh có vành, ở giữa có khua. Khua nón
đan bằng giang ( tre) tròn như nắp tráp, lòng sâu khoảng
3cm đến 5cm, đường kính lối 15cm hoặc hơn, rộng vừa
đủ ôm cái đầu người đội.
Đường
kính thân nón từ 70cm đến 80cm. Vành nón vuông góc với
thân nón cao độ 10cm. Loại nón nầy chỉ thịnh hành ở
miền Bắc từ Nghệ An trở ra nên còn có tên là nón
Nghệ.
Dưới triều nhà Trần, chiếc nón được đưa vào cung để
cho các cung nữ dùng và được gọi là nón
thượng.
Sáu thương nón
thượng quai tua dịu dàng.
Nón thúng có khung tre lợp lá cọ hay lá
gồi, ba lớp kết lại như vậy. Lá cọ vàng hơn lá gồi.
Ngoài Bắc không có lá gồi phải vào Quãng Trị mang ra.
Mặt trong nón được trang trí bằng giấy ghép thành những
hình hoa lá chim bướm gọi là hoa nón. Chiếc nón đặc
biệt có cái gương nhỏ trong lòng nón để soi mặt hay
lúc cần sửa lại vành khăn. Trước khi đến tay người
tiêu thụ, chiếc nón được hơ qua hơi diêm sanh để tăng
thêm sắc trắng và cần nhứt là không bị mốc hay thâm
kim. Hoàn tất một chiếc nón thúng phải mất trung bình
từ 4 ngày ngồi còm ròng rã công phu, đó là chưa kể
thời gian chuẩn bị lá và vót nan tre. Nhưng bán giá xứng
với thành phẩm không ai mua nên người thợ chỉ có lấy
công rẻ làm lời. Nhiều người bỏ nghề. Làng Chuông
còn gọi là làng Phương Trung là vùng đất khô cằn thuộc
huyện Thanh Oai cách Hà Nội 40km nổi tiếng về nghề làm
nón lâu nay. Người thợ làng Chuông với bàn tay tài hoa
một thời đã cung cấp cho các giai nhân trong chốn cung
đình những chiếc nón đầy nghệ thuật.
Nón này chính ở
làng Chuông,
Làng Già lợp nón,
Khương Thường bán khuôn.
Nón thúng có ba hạng gồm nón dấu thuộc
loại nhỏ nhất. Nón ngang lớn hơn rồi đến nón ba
tầm có vành rộng, giá trị cao
hơn.
Nón này em sắm đáng
trăm,
Ai trông cái nón
ba tầm
cũng ưa.
Nón này che nắng,
che mưa,
Nón này để đội
cho vừa đôi ta.
Quả thật
chiếc nón ba tầm rộng đủ cho hai người. Nhìn xa, người
và nón gợi hình dáng chiếc nấm khổng lồ làm khổ lòng
các chàng trai. Các loại nón nầy có quai. Quai buộc hai
bên vành nón. Người sang trọng dùng loại quai thao là
loại quai tết bằng nhiều sợi tơ. Đó là nón
quai thao.
Chiếc nón
quai thao tương truyền xuất hiện vào thời vua Lê Hiển
Tông, chúa Trịnh Doanh năm 1740 thời Lê Trung Hưng
Nói đến người phụ nữ Việt Nam
là tôi nghĩ ngay đến lòng hy sinh, chịu đựng vô bờ bến
cho gia đình. Họ chỉ biết lo cho chồng con mà thường
quên đi bản thân. Đức hạnh vàng ngọc đó khó thể tìm
thấy ở phụ nữ các sắc dân khác trên quả địa cầu.
Chưa chồng nón thúng
quai thao,
Chồng rồi, nón
rách, quai nào thì quai.
Đơ Thao là tên gọi nom na của làng
Triều Khúc thuộc tỉnh Hà Đông, nơi sản xuất chiếc
quai thao nổi tiếng. Tơ tầm tốt màu hồng gọi là mốt
son dùng dệt biên (rìa) các tấm lụa. Những sợi tơ rối
sần sùi nổi cục gọi là mốt cục bị thải ra. Người
làng Đơ Thao mua về gỡ rối làm quai nón.
Mốt son đem dệt đầu
hàng,
Mốt cục đem bán
cho làng Đơ Thao.
Ba sợi dây
dài gần hai thước bện vào nhau làm thành chiếc quai
thao. Hai đầu quai nối vào nón buông thõng dài xuống đến
thắt lưng như chiếc võng. Người đội nón lấy tay giữ
cái quai ở trước ngực để có lúc cần nghiêng che nắng.
Hai đầu quai đính hai quả cù bằng ngón tay đan thắt
công phu rủ xuống bờ vai thành những tua tạo thêm vẻ
trang nhã. Nón quai thao là vật không thể thiếu trong dịp
hội hè của các bà các cô.
Nón Gủ
là loại nón thông dụng theo người dân quê khi ra khỏi
nhà. Thân nón tuy không to bằng nón thúng nhưng thừa rộng
cho một người. Nón không có chóp, không có vành, dáng
khum như cái chảo nên còn gọi là nón
lòng chảo.
Nón gủ cũng có khung tre, lợp lá cọ, cũng có khua giữa
nón và quai chỉ là miếng vải khi đội giữ vào cằm.
Tuy là loại nón của phụ nữ nhưng đàn ông cũng dùng vì
nón gủ rộng hơn nón chóp nên che mưa nắng lợi hơn.
Giày, Dép, Guốc. Ngày
xưa, câu nói “chân giầy chân dép” chỉ người phong
lưu nhàn hạ. Đa số những người dân quê thời đó đi
chân không hầu như thường nhựt. Người nghèo chân đất
không nói làm gì. Kẻ có của ở quê thường khi cũng
phải chân trần. Lý do là vì đường xá lầy lội bùn
sình trơn trợt. Có nơi nước lụt 3 tháng trong năm như
vùng đồng chiêm. Mùa Hè đi xa đường nắng bỏng chân,
người ta dùng dép
quai ngang.
Miếng da trâu với quai vòng ngang gần cổ chân và 1 quai
nhỏ cho ngón chân trỏ.
Đàn
bà phong lưu đi hài thêu hoặc giày nhọn mũi. Người
thường đi dép
cong
sơn đen quai nhung.
Me
cười: Thầy nó trông ! Chân đi đôi dép cong,
Con
tôi xinh xinh qua ! ( thơ Nguyễn nhược Pháp)
Những khi trời
mưa, người ta mang guốc làm bằng gốc tre, quai bằng mây,
không ai bán.
Tổ
quốc Việt Nam thân yêu chúng ta từ
Ải Nam Quan
đến mũi Cà Mau dài mà hẹp nên phong thổ khí hậu có
chỗ khác nhau. Tổ tiên ta với tinh thần thiết thực “ăn
chắc mặc bền” thể hiện qua y phục phù hợp với mọi
địa phương.
“Cơm
ba bát, áo ba manh, Đói không kinh, rét không sợ”
Người
Việt ăn mặc sao cho thích ứng với điều kiện sinh hoạt
nhưng cũng không quên giữ mực thước trang nghiêm. Quần
áo làm việc khác với y phục khi giao tế. Người Bắc ưa
dùng màu nâu là màu của đất. Trong Nam dùng màu đen là
màu của bùn.
Rõ
ràng là dân tộc Lạc Hồng với tinh thần dân tộc bất
khuất cho nên dù phải bao phen chịu cảnh áp bức đồng
hóa thâm độc của giặc Tàu mà vẫn giữ vững bản sắc
người Việt. Nhiều nhà văn hóa Tây phương cho rằng văn
hóa Việt Nam có tánh tiếp nhận nhưng chọn lọc. Dân tộc
ta không hẹp hòi, sẵn sàng học hỏi cái hay để rồi
dung hòa cải đổi
sao cho phù hợp với tinh hoa của dân tộc. Cây đờn tây
ban cầm khóet phím thành cây đờn vọng cổ không cần
phải có cần nhúng. Phụ nữ Tàu từ thời Võ Vương nhà
Thanh mặc áo xường xám không có quần. Con cháu hai bà
trong chiếc áo dài thướt tha được thế giới tôn vinh
là y phục tiêu biểu dành cho phụ nữ Á đông.
Los Angeles ngày 5 tháng 10 năm 2013
Nguyên Phương
.
Tài liệu tham khảo
Phong tục Việt Nam của Toan Ánh
Đất lề quê thói của Nhất Thanh
Việt Nam phong tục của Phan kế Bính
Tìm hiểu những tục lệ Việt Nam của Phúc gia Ninh
Việt Nam sử lược của Trần trọng Kim
Hình trên net