Thái
Công Tụng
1. Nhập đề
Sinh thái
học dịch từ danh từ ecology. Chử ecology, có gốc từ hai chử Hi Lạp : oikos (nơi ở) và logos
(môn học). Cái nơi ở của con người có đất mẹ, núi mẹ, sông mẹ, biển mẹ nhưng
càng ngày nơi ở của nhân loại đang đứng trước sự mất thăng bằng giữa tài nguyên
thiên nhiên với con người, gây ra phá rừng,
ô nhiễm môi trường sống, gây nên sự thay đổi khí hậu, tạo tiền đề cho
các bất ổn của thế giới ngày nay .
Vietnamese in their
majority practice a syncretism of 3 religions, namely confucianism, bouddhism,
taoism and where ecology is omnipresent. Following general introduction about
ecology in section 1, section 2 discusses about the ecological crisis of the world today, as it
gets hotter, stormier, crowded and less biodiverse. Section 3 addresses ecology
from three perspectives in the nature conservation:
-in Confucianism, we refer to the
interrelation of Heaven, Earth, and Humans which are the basis of all
creatures: Heaven gives them birth, earth nourishes them and humans complete
them with rites and music .
-in Buddhism, spirituality is based upon an
ecology of mind and body as well as environment. Compassion implies that all
life forms are mutually interdependent, thus we should not destroy the fauna
and indirectly the vegetation cover which constitutes their natural habitat.
Insatiable human deire will lead to the over-exploitation of natural resources.
The threefold path, namely morality, mindful awareness, wisdom as well as
living with no greed plays a central role in preserving biodiversity and sustainability of resources. By the causal principle
of interdependence, all individual entities are relational and interconnected
thus living in harmony with nature is helping our Mother Earth from
destruction.
-in Taoism, everything is composed of two
opposite forces known as Yin and Yang; the world is governed by the 5 following
elements ( Water, Metal, Wood, Soil, Fire) which interact and balance together
under the Dao supreme principle which is the natural course of everything.
Overexploitation of one of these elements is destroying the nature equilibrum,
thus we should cultivate the way of no-action and let nature be itself.
Section
4 discusses how to be in harmony with nature, and discusses the concepts of
ecological footprint and entropy.
Finally,
in the concluding remarks in Section 5, the author mentions that these 3
religious perspectives can make important contribution to environmental ethics,
helping people care more about our common Earth which supports us .
1. Nhập đề
Sinh thái
học dịch từ danh từ ecology. Chử ecology, có gốc từ hai chử Hi Lạp : oikos (nơi ở) và logos
(môn học). Cái nơi ở của con người có đất mẹ, núi mẹ, sông mẹ, biển mẹ nhưng
càng ngày nơi ở của nhân loại đang đứng trước sự mất thăng bằng giữa tài nguyên
thiên nhiên với con người, gây ra phá rừng,
ô nhiễm môi trường sống, gây nên sự thay đổi khí hậu, tạo tiền đề cho
các bất ổn của thế giới ngày nay .
Thế nhưng,
hàng ngàn năm trước, triết học Đông Phương với 3 tôn giáo chính là Nho giáo, Phật
giáo, Lăo giáo đã suy ngẫm sâu xa về các vấn đề này.Trong một thế giới càng
ngày càng toàn cầu hoá, một thế giới phẳng, đang phải đối đầu với sự biến đổi
khí hậu, với ô nhiễm môi trường như hiện nay thì các tư tưởng trong Tam giáo
đáng cho ta suy nghĩ và từ đó tìm lại được những chân lý bị bỏ rơi trong quên
lãng .
Bài tham
luận này nêu lên các vấn nạn môi trường do sự biến đổi khí hậu trên toàn cầu,
sau đó tìm hiểu tư tưởng Tam giáo trong vấn đề môi trường.
2. Các biến đổi khí hậu do sự mất thăng bằng các yếu tố sinh thái .
Với cuộc
cách mạng kỹ nghệ, loài người đã thụ hưởng được nhiều tiện nghi vật chất như xe
hơi, máy bay, vật liệu tiêu dùng. Nhưng huy chương có hai mặt vì đằng sau các
tiện nghi ấy thì khí hậu cũng thay đổi do những khí độc như Co2 từ xe cộ, từ
các nhà máy phun khói và thải các khí độc trên bầu trời làm trái đất nóng lên.
Các khí độc đó thường dược gọi là khí nhà kiếng là vì khi các bức xạ mặt trời
phản chiếu từ mặt đất lên sẽ bị các khí độc này ngăn chận lại làm trái đất càng
ngày càng nóng tương tự như trong một nhà kiếng trong đó người ta trồng rau,
trồng hoa ở các xứ lạnh vào mùa đông .
Xưa kia,
trên trái đất này dân cư không đông như ngày nay . Với tiện nghi y tế cao nên
tỷ lệ trẻ em chết lúc sơ sinh giảm đi rõ rệt nên ngày nay dân số tăng nhanh :
Phố phường chật hẹp người
đông đúc
Bòng bế
nhau lên nó ở non (Tú Xương).
Dân số
đông đòi hỏi năng lượng để nấu ăn, để đun nước, để tắm giặt. Dân số đông đòi
hỏi có nguyên liệu để làm nhà cửa, làm bàn ghế. Dân số đông đòi hỏi nhiều nhà
máy để sản xuất ra điện, ra vật liệu tiêu dùng. Dân số đông đòi hỏi xe cộ di
chuyển đi làm. Dân số đông đòi hỏi lương thực mà muốn có lương thực trên đất
càng ngày càng ít dần thì phải dùng phân bón và muốn có phân bón lại phải có
năng lượng và nguyên liệu từ sản phẩm dầu hoả và hơi đốt.
Và năng
lượng để sản xuất ra các tiện nghi là từ
dầu hoả và hơi đốt, phát thải các khí nhà kiếng làm khí hậu trái đất nóng dần
gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt loài người mà sau đây là những hậu quả:
-dâng cao
mực nước biển khiến cho những vùng thấp duyên hải sẽ bị ngập và dân cư sẽ mất
chổ ở. Riêng ở Việt Nam, các vùng thấp ven biển nhất là miền châu thổ sông Hồng
và châu thổ Cửu Long sẽ bị ngập, de doạ dến an ninh lương thực vì lụt lội làm
đê biển không chịu được khi nước biển dâng;
-nước đại
dương ấm lên cũng tạo nên nhiều cơn bão mạnh
với sức tàn phá khủng khiếp như ở Miến Điện tháng 5 vừa qua (2008), gây
ra nạn lủ lụt, kéo theo hàng chục ngàn người chết, phá hoại cả một vùng châu
thổ trồng lúa lâu nay . Dĩ nhiên mọi cái đều tương quan vì lủ lụt sẽ kéo theo
nạn nghèo đói vì lương thực sẽ khan hiếm.
Ý thức
được việc này, ngay từ năm 1997, nhiều nước đã họp lại ở Kyoto (Nhật Bản) để ký chung một thỏa ước
nhằm giảm lượng khí thải CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kiếng, sau này
được biết là Nghị Định Thư Kyoto. Trong Nghị Định Thư này cũng đòi hỏi các nước
bớt sử dụng than đá, khí đốt, xăng dầu chuyển sang năng lượng sạch như mặt
trời, gió v.v.
Sau đây,
ta sẽ lần lượt phân tích vài ảnh hưởng các bộ môn ấy trên tư tưởng sinh thái để
thấy các học thuyết Đông Phương luôn đề cao thiên nhiên :
3. Sinh thái học theo Tam Giáo
31.Sinh
thái học trong Nho giáo.
Trong lịch sử Trung Hoa, chúng ta biết rằng sau
thời kì Xuân Thu Chiến Quốc (từ năm 770 đến năm 220 trước Công nguyên ) kéo dài
mấy trăm năm đầy loạn lạc, tranh chấp
thì vào đời nhà Hán muốn tái lập lại kỷ cương, các danh nho đã đề nghị
ra ba giềng mối là Tam Cương
(Quân, Sư, Phụ ) và năm đức của cá nhân gọi tắt là Ngũ Thường (Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trung, Tín ). Riêng vũ trụ quan thì
luôn luôn đề cao sự hài hoà của 3 yếu tố Thiên, Địa và Nhân.
Thiên có nghĩa nôm na là ông Trời .. Khi
nói về Trời, ta nghĩ ngay đến bầu trời, mây , các sao ban đêm, gió thổi, tóm
lại những thông số về khí hậu, về trái
đất : bão, lụt, động đất, núi lửa .Chẳng thế mà người nông dân thường nhìn trời
để cầu cho mưa thuận gió hoà
Ơn trời
mưa nắng phải thì, Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu hoặc : Lạy Trời mưa xuống,
lấy nước tôi uống ,lấy ruộng tôi cày v.v.
Chữ Trời
được nhắc đến mấy chục lần trong các câu Kiều; nó đồng nghĩa với God, với đấng
Tối Cao. 'Trời làm chi cực bấy Trời';
nhạc sĩ cũng nói đến Trời: 'lạy Trời mưa tuôn, hạt mộng vươn lên';
'trời ươm nắng cho mây hồng'..
Địa có nghĩa là đất với sông, suối, hồ,
ao, núi, rừng, cây cỏ, cỏ cây, sa mạc, đất liền, biển cả
Và giữa hai cảnh giới Thiên và Địa là Nhân
.
Nhân là
người, nhưng phải hiểu theo nghĩa rộng là mọi sinh vật trên trái đất.
Vào đời
Hán, và đặc biệt dưới triều Hán Vỏ đế (140-87 trước Công nguyên ), Đổng Trọng
Thư nhận rằng con người có địa vị trọng yếu, giúp sức trời đất mà 'hoàn
thành'vạn vật .Ông viết: 'Trời, đất và người là cái gốc của vạn vật .Trời
sinh vạn vật, đất nuôi vạn vật, người làm thành vạn vật'. Quan niệm 'thiên
nhân tương quan', 'thiên nhân hợp nhất' là một đặc điểm của triết học Trung
Hoa. Có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là trời và người giống nhau còn nghĩa thứ hai
là trời và người 'thông' với nhau, nghĩa là quan hệ mật thiết với nhau. Trong
nho học, các câu như 'thiên nhân vô nhị' (trời và người là một), 'thiên
tắc nhân, nhân tắc thiên' (trới là người, người là trời ), 'vạn vật nhất
thể' v.v. đều cho rằng thiên nhiên và con người có liên hệ lẫn nhau cho nên
cần giữ sự cân bằng vạn vật, 'đạt đến trung dung hài hoà, trời đất nằm ở đó,
vạn vật nhờ đó mà được nuôi dưởng vậy (chí trung hoà, thiên địa vị yên, vạn
vật dục yên ) . Như vậy, theo Nho học, con người phải hoà mình với vũ trụ,
không cưỡng hiếp vũ trụ vì trung hoà là luật điều hoà, luật quân bình của vũ
trụ, nó chi phối mọi hoạt động từ trời, đất đến vạn vật và con người .
Thiên
cũng còn có nghĩa những đấng tối cao, vô
hình . Quan niệm Thiên Địa Nhân kéo theo các khái niệm như làm việc gì
cũng phải Thiên thời, Địa lợi, Nhân
hoà . Nếu có tai ương thì có Thiên tai như bảo lụt, hạn hán, Địa tai như
động đất, đất chuồi, Nhân tai là các tai ương do người tạo ra như phá rừng v.v. Như vậy, về vủ trụ quan, cái tam thức
(trinome) như Thiên Địa Nhân có hàm ý rằng nên sống theo 'đạo trời' hay 'thiên
đạo' tức phải sống hài hoà với trời và đất . Suy ra thì ngày nay, vì con người
đã không tôn trọng bầu trời nên đã xảy ra nhiều biến đổi khí hậu, gây ra tai
trời ách nước và cũng vì con người không tôn trọng trái đất nên đã có những
hiện tượng như sa mạc hoá, khủng hoảng lương thực.
32.
Sinh thái học trong Phật giáo.
Trong Tứ
Diệu đế của học thuyết Phật giáo, chử Khổ là chử đầu tiên. Ngoài cái
khổ theo nghĩa thông thường như đau ốm, bệnh tật, già yếu, có thêm cái khổ khác
do biến đổi khí hậu với thiên tai, bảo lụt, hạn hán tóm lại cái khổ do sự suy
thoái của môi trường sống như nước biển dâng, thiếu hụt lương thực, ô nhiểm môi
trường với những dòng sông đã qua đời, với núi trọc, với mịt mù đồi cát v.v.
Diện tích
rừng mỗi ngày mỗi co cụm, với phá rừng bừa bải thì lấy đâu mà hoá giải được khí
nhà kiếng, ngăn chận lủ lụt, giảm bớt sức nóng. Ở Việt Nam thì nạn lâm tặc hoành hoành,
phá hết rừng già . Đây lại là một chuyện cười ra nước mắt .
Dưới đầu
đề 'Rừng Quảng Nam kêu cứu', nhà báo viết : ' Lâm tặc vẫn ngang nhiên
dùng xe ô-tô, xe máy, xe bò chở gỗ liên tục giữa ban ngày; lâm tặc kết gỗ thành
từng bè, mảng, phao cao-su chờ đêm tối cho xuôi theo dòng sông Bung, sông Vu
Gia về tập kết tại huyện Đại Lộc, biến địa phương này thành 'chợ gỗ lậu' lớn nhất của tỉnh : để kéo gổ từ rừng ra
đường cho xe tới chở về xuôi, cả hàng
ngàn con 'trâu tặc' tham gia. Người ta còn trồng từng ruộng cỏ cho 'trâu
tặc' ăn, nhiều người không biết, còn khen vùng này chăn nuôi phát triển mạnh !
(báo Thanh Niên ra ngày 11 tháng 6 năm 2008)
Trong Ngủ
giới của nhà Phật thì giới đầu tiên là không sát sanh. Như vậy cũng có nghĩa
là không săn bắn hoang thú. Điều này cũng có nghĩa là phải bảo tồn rừng rú vì
nếu không có rừng thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ
ta cũng có nói đến hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm,
nhì đâm Hà Bá . Phá sơn lâm thì không còn rừng rú khiến đất đai bị xói mòn,
chuồi đất lụt lội . Vô hình chung, đạo
Phật qua điều răn trong ngủ giới đã khuyến cáo sự đa dạng sinh học
(biodiversity).
Đức Phật
trong kinh Pháp Cú cũng khuyên không nên đốn rừng mà phải 'đốn rừng dục
vọng' vì chính dục vọng làm môi trường
hiện nay bị huỷ hoại:
Đốn
rừng 'dục vọng' , chớ đốn cây,
Vì cảnh
rừng này gây sợ hãi (Kinh Pháp cú: Phẩm
Đạo )
Với rừng
rú được bảo tồn, sức khoẻ con người được tăng lên vì rừng toả ra oxy qua hiện
tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe hơi hàng vạn
chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng (green house
gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .
Rừng là
nguồn gen thực vật. Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống
hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với
môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp tăng gia nông phẩm.. Sự đa dạng sinh học là
điều kiện cần thiết để có một quỹ gen phong phú. Vì rừng chứa nhiều loại thực
vật khác nhau nên đó là một kho gen vĩ đại; muốn tháp gen thì phải có gen nào
cần như có cây có gen kháng mặn, kháng bệnh thì đưa gen đó vào loài cây muốn
cải thiện. Như vậy rừng là vàng xanh vì rừng chứa một kho gen vĩ đại mà công
nghệ sinh học (biotechnology) luôn luôn cần có để nghiên cứu, tìm tòi tạo ra
thuốc mới, cây mới, giúp cho nhân loại . Ngày nay, bảo vệ sự đa dạng sinh học
là một trong những chủ đề quan trọng trong sự bảo vệ môi trường. Thực vậy, với
sự gia tăng dân số, con người đã phá hủy luôn môi trường sống, kéo theo đó là
sa mạc hoá, mặn hoá, phá rừng và từ sự huỷ hoại môi trường sống lại ảnh hưởng
ngược lại đến đời sống con người với nạn đói kém, nạn lụt lội .
Sức khỏe
không chỉ có nghĩa là phải 'vai u thịt chắc' mà sức khỏe tâm linh cũng rất quan
trọng. Rừng giúp con người thư giãn, tìm lại sự im lặng, tĩnh mịch:
Ta dại
ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao .
Thực vậy,
vào rừng, thở không khí trong lành, nhìn sao ban đêm, nhìn suối, nghe nước róc
rách, bướm lượn nhởn nhơ, chuồn chuồn, nghe côn trùng rỉ rả, mặt trăng lên, sao
đêm nở đầy trời, giúp ta tránh được các căng thẳng của cuộc sống máy móc đô
thị, giúp ta quên đi những nỗi nhọc nhằn của thể chất và phục hồi lại các giá
trị tâm linh . Thực vậy, chúng ta biết rằng bán cầu não bên trái là khu vực lý
trí, tư duy của khoa học còn bán cầu não bên phải là mảnh đất của nghệ thuật.
Chính nhờ sự phân bố chức năng của hai bán cầu não nên khi làm việc suy tư mệt
mỏi thì thư giãn ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây (thơ
Hồ Dzếnh), sẽ giúp cơ thể nhanh chóng phục hồi lại khả năng trí tuệ và sức làm
việc .
Ta cũng
thấy trước cảnh vật bao la của vũ trụ rằng
con người chỉ là một thành phần nhỏ bé
và từ đó cảm thấy khiêm tốn hơn . Thiếu đức khiêm tốn thì con người dù
rất tiến bộ về vật chất và kỹ thuật đă trở nên con người dã man và tàn ác.Ta đi
chùa, đi giáo đường chính ý thức được gia sản thiêng liêng của mình, vì nhận
thức rõ giá trị cao quý của con người cũng như biết rõ tính tự cao tự đại cố
hữu của con người .Nếu không nhờ vào một quyền lực mạnh mẽ từ bên ngoài, chúng
ta có thể ngã trở lại vào cái hố tự cao tự mãn ấy một cách dễ dàng .
Còn nhớ
trước đây Thủ tướng Ấn độ Atal Bihari Vajpaqyeetrong tháng 8/2001 đă thu băng
đọc thơ của mình cho Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ . Trong số các bài thơ viết bằng
tiếng Hindi của chính mình, có một bài được nhiều người ưa thích 'Heights'.
Bài thơ kết thúc bằng câu : Lạy Chúa, đừng để con trèo quá cao dến nỗi không thể cúi xuống ôm hôn kẻ khác. Đừng đem
đến sự cao ngạo cho con'`My Lord, Never let me climb so high that I can't bend
down to embrace another human. Deliver me ever from such arrogance.'
Trong cụm
từ Từ, Bi, Hỉ, Xả thì chữ Từ đứng đầu tiên. Ai cũng biết là Đạo Phật chủ
trương từ bi, lấy Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh làm chủ yếu . Tâm trong
sáng gọi là Tuệ tâm, tâm thanh tịnh thì
gọi là Thanh tịnh tâm, tâm rộng lớn thì gọi là Đại tâm, Tâm chân thật thì gọi
là Chân tâm, tâm bao dung thì gọi là Từ Bi tâm. Mọi đức tính trên của Tâm đúc
kết vào chữ Bồ đề Tâm .
. Khi tâm
ta từ bi, thì trời đất cũng từ bi với chúng ta. Trong khi tâm ta không từ bi
với cây rừng như đốn rừng bừa bãi, không từ bi với muông thú thì tự nhiên loài
người mất nguồn gen qúy giá cần cho sự cải thiện thực vật, mất đi sự đa dạng
sinh học (biodiversity), mất nguồn lợi cho du lịch sinh thái.
. Khi tâm
ta từ bi thì tự nhiên ta xem môi trường như người bạn, như người thầy, môi
trường sẽ để ta yên ổn, không có lụt lội vì rừng cây đã giúp giảm bớt cường độ
của nước, không có nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền tóm lại, tìm lại hài hoà
với vũ trụ.
Một thế giới dựa vào các giá trị như Từ, Bi, Bác
Ái , như vậy thì mọi người , mọi sinh vật sống an lạc. Với thế giới như vậy thì sẽ không còn hận
thù, không còn ganh ghét, không còn khổ đau. Thực vậy, chìa khoá của kiếp nhân
sinh là cái Tâm : Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Tâm có một
nội hàm rộng lớn vì bao gồm tâm thức (lĩnh vực nhận thức, có ý thức), tâm cảnh
nghĩa là dùng các ý về cảnh để tả tình cảm như trong câu Kiều :
Vi lô
san sát hơi may
Một
trời thu để riêng ai một người
hoặc:
Bến Tầm
dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu,
tâm niệm,
tâm tư, tâm tính, tâm sự, tâm pháp (mọi
phương pháp tác động lên tâm lý, từ tác động lên ý thức như giáo dục và công
tác tư tưởng đến tác động lên vô thức như tâm lý liệu pháp ), tâm cảm, tâm
trạng, tâm hồn, tâm linh, tâm xúc, tâm bệnh. Bấy nhiêu đủ thấy tâm phức tạp, mà
phức tạp cũng đúng vì tâm do hàng ngàn neuron trên não bộ tác động lên nhau,
v.v. và có thể nói tâm chính là nội dung môn học gọi là tâm lý học .
Khi tâm an
và biết hướng thiện thì chẳng những mình được hạnh phúc mà còn hoà đồng được
với cái tâm đại ngã của vũ trụ.
Tâm bao
dung rộng lượng của người tù cải tạo, dù 'mười năm mặt sạm soi khe nước, ta
hoá thân thành vượn cổ sơ' nhưng vẫn
sẵn sàng phá chấp:
Ta về cúi
mái đầu sương điểm/Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Ta về như lá rơi về cội/
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/Chút rượu hồng đây xin rưới xuống/Giải oan cho
cuộc biển dâu này (Ta
về của Tô Thùy Yên )
Quan niệm
Phật giáo với tâm từ bi với mọi sinh vật
'nhất thiết chúng sinh giai cộng thành Phật đạo' là quan niệm viên dung.
Chúng sinh đồng một thể, mình và người không khác, lợi người là lợi mình, giết
hại kẻ khác là giết mình.
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: 'Tâm như hoạ sư năng hoạ nhất thiết hình tượng'
nghĩa là tâm ta như người nghệ sĩ có thể vẽ ra vô vàn cảnh vật, hiện tượng đẹp,
xấu khác nhau . Tâm chúng ta có thể tạo ra Thiên đường, có thể xây nên Địa ngục
. Tâm thiện thì thiên hạ an vui; tâm sân hận thì chiến tranh.Vì thế sự hiện hữu
của tâm thức chính là sự hiện hữu của hai mặt trái ngược nhau trong tâm thức
con người, sự thấp kém và sự cao thượng. Nếu tư tưởng của ta vẩn đục, ích kỷ
thì đời sống của ta trở nên nhỏ nhen, thấp kém. Nếu tư tưởng của ta rộng lớn,
bao dung và hỉ xả thì đời sống của ta sẽ trở nên cao đẹp, thanh thoát .Khi tâm
hồn đã thanh thoát trong sáng thì cảnh vật trở nên chan hoà . 'Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ' . Vậy chuyển hoá tự tâm là con đường gột sạch tư tưởng thấp
kém để mở ra con đường cao thượng .
Tư tưởng
Hoa Nghiêm cũng nói là tâm là nguyên nhân mọi vạn pháp . Tâm vọng (còn gọi là
vọng niệm ) thì mọi vạn pháp thay đổi, mang tính chủ quan, (subjectivity) mang
tư duy nhị nguyên đối đãi (dualistic), nghỉa là phân định và tách rời cái A
khỏi những cái phi A .Thái độ vọng niệm phân biệt này làm ta có cái thái độ so
đo, tính toán, hơn thua .Lúc đó, trạng thái an tịnh của tâm sẽ không còn nửa và
tâm lý về cái cá biệt gia tăng, tác động xấu đến phong cách hành xử của con
người: phân biệt màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, vị trí xã hội. Tâm
thanh tịnh thì ta có cái nhìn không phân biệt, theo đó thì ta và các vật khác
từ thực vật đến động vật đến dòng sông, giăy núi, mọi cái đều tương giao, tương
trợ, tương nhập (interconnected ) với nhau.
Phật giáo
dạy rằng không có cái nào đứng riêng rẽ
được hết vì mọi việc đều tương quan tương thuộc với nhau và đó là thuyết
trùng trùng duyên khởi (principle of Conditioned Arising, (
paticcasamuppada) . Vạn vật nương nhau
mà sống vì cái này có vì cái kia có. Loài người nhờ cây cỏ mà cây cỏ nhờ đất để
cho dưỡng liệu mà muốn các dưỡng liệu
hoà tan thì phải có nước v.v.Như vậy bảo vệ môi trường tức là bảo vệ con người
.
Các vấn
nạn hiện nay trên thế giới chỉ có thể
giải quyết bằng cái Tâm .Nhờ bối cảnh yên tỉnh, tâm hồn mới yên tỉnh để suy tư
cùng vạn vật . Có suy tư cùng vạn vật mới có thể nhìn vạn vật bằng tâm tưởng:
'Trong
niềm im lặng vô ngôn đó, những vang vọng, ý nghĩ, nhựa sống của ngôn từ, của
hành động, của ý nghĩa càng tràn bờ để xóa bỏ mọi biên giới mà tắm gội, bao
dung lấy hết thảy (Doãn
Quốc Sỹ trong Vào Thiền )
Trong đạo
Phật, có khái niệm Tam độc: tham, sân, si .
Lòng tham vô đáy khiến ta tiêu thụ nhiều, tổn
hại đến môi trường tài nguyên . Trong xã hội Tây phương, nhiều nhà có đến 3 hay
4 xe hơi, chưa kể đến trung bình 3 cái
máy truyền hình, thêm vào là các máy DVD, máy điện toán rồi điện thoại di động
do đó tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất như sắt, kẽm, thiếc, đồng, chì đều
mất dần . Mặc dù có tái chế biến nhưng nghĩa trang xe hơi, nghĩa trang máy
computer, lẫn lộn với máy tập thể dục vứt đi đầy rẩy.
Muốn được
giải thoát khỏi khổ đau do sự huỷ hoại của môi trường sống, con người cần phải
nhận thức là Đất Mẹ, Sông Mẹ, Núi Mẹ, Biển Mẹ có tài nguyên hữu hạn mà sự
tham lam con người là vô hạn. Người Phật tử là người sống thiền, sống tri
túc chứ không sống chớp giật, tìm một
phút huy hoàng rồi sau đó đau khổ triền miên như trong thơ : Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt, Còn hơn buồn le
lói suốt trăm năm' . (Xuân Diệu ) .Trái lại, người Phật tử đưa ra một cách sống tỉnh thức, tìm chuyển
hoá các khổ đau thành hạnh phúc, chuyển thất vọng thành nghị lực:
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm
kia mới bằng ba chữ tài .
Thiện căn
tức khi ta làm được 3 nghiệp lành như thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là ta
đã gieo được một thiện căn tốt . Thiện căn
chưa phải là Phật tính vì thiện căn có nội, có ngoại, có hữu lậu, -nghĩa là còn
vướng phiền não-, có vô lậu, tức hết phiền não, có thường và có vô thường còn
Phật tánh thì không có nội, không có ngoại, không hữu lậu, không vô lậu v.v.
Phật giáo
dạy Chánh mệnh nghĩa là không ăn
trộm, không giết, không ma túy nghiện ngập . Tham thì vô đáy, không giới hạn
nên làm tài nguyên cạn dần. Con đường
thoát khổ cũng nằm trong nhận thức chân chính, tức chánh kiến . Chánh
mệnh và chánh kiến là các chử trong Bát chánh Đạo.
Theo đức
Phật, chỉ có con đường trí huệ tức nhận thức chân chính mới giúp con người giải
thoát khỏi bể khổ. Vô minh là nguyên nhân chính gây ra khổ đau . Như vậy, muốn
được giải thoát, con người cần phải thoát ra ngoài vòng ái ngả, nguyên nhân
chính của khổ đau và như vậy cuộc sống mới an lạc. Cũng như vạn vật, cái ngã
chỉ do duyên hợp và sẽ biến hoại . Cuộc đời theo chu kỳ sanh, diệt như một bánh
xe luân hồi, từ xưa đến mãi về sau . Nhà nhạc sĩ không nói đến bánh xe, nhưng
ví như hòn sỏi đá lăn :
Hòn đá lăn bên đồi/ Hòn đá rớt xuống
cành mai/ Rụng cánh hoa mai gầy/ Chim chóc hát tiếng qua đời, đến một ngày nọ,
nhìn lại mình, chợt một chiều tóc trắng như vôi, người ta bổng thấy 'nghe tiền
thân về chào tiếng lạ, những mai hồng ngồi nhớ thiên thu '(Cỏ xót xa đưa )
Như vậy,
bài toán môi trường phải giải quyết từ mỗi cá nhân, từ mỗi hành động: biết đủ
là đủ, không tiêu thụ quá sá vì biết rằng con người hôm nay phải để lại cho con
người ngày mai các tài nguyên . Không còn tài nguyên thì nhân loại sẽ khổ đau,
loạn lạc, gây thêm nạn di dân môi trường.
3.3. Sinh thái học trong Lão giáo
Gọi là Lão
giáo, vì cha đẻ của học thuyết này là
Lão Tử. Theo học thuyết này thì cái căn nguyên đầu tiên của vũ trụ chi phối mọi
việc trên Trái đất này là một cái gì vô hình, vô sắc không có tên; Lão tử gọi
là cái Đạo nên học thuyết này còn gọi là Đạo giáo .Chính cái Đạo này làm
cho trái đất có 4 mùa, có ngày, có đêm, biển có thuỷ triều, nước lên nước
xuống, tóm lại Đạo là luật tự nhiên của Trời Đất, là nguồn gốc của vũ trụ, có
trước vũ trụ. Mà cái đạo, tức cái luật tự nhiên, là không cần tranh mà hay
thắng, không cần nói mà hay ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về,
lờ mờ mà hay mưu tính . (Thiên chi đạo, bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn
nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thiện nhiên nhi thiện mưu ).
Theo Lão
Tử, trời đất với người là một, đều do đạo sinh ra cả .Trong vũ trụ có bốn cái
lớn mà Người là một .Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước
đạo, đạo thì tự nhiên nhi nhiên .(Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất
yên . Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên ) .
Lão giáo
với thuyết âm dương, ngũ hành . Mọi vật đều có hai trạng thái âm dương . Âm
dương chỉ là thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật; nó giải thích
hiện tượng mâu thuẫn, chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật .Nói
chung, phàm gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, ở ngoài, hướng lên, sáng
chói, nóng rực đều thuộc về dương và ngược lại là âm .Trong thiên nhiên, mặt
trời, ban ngày, phía trên, phía ngoài là Dương còn mặt trăng, ban đêm, phía
dưới, phía trong là âm...Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa mâu thuẩn, đối chọi nhưng
còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hổ trợ, ức chế nhau mà tồn tại .
Trong âm có mầm mống của dương và trong dương có mầm mống của âm .
Còn ngủ
hành là 5 chất căn bản Kim, Mộc, Thũy, Hoả, Thổ.Các yếu tố này cũng tác động
tương quan với nhau, theo cả hai nghĩa tương sinh và tương khắc. Khắc và sinh
đều cần thiết cho sự quân bình tạo hoá.
Sau đây là vài ví dụ về sự tương sinh và lực
lượng đối trọng của nó :
Thuỷ
sinh Mộc: nhờ nước mới có cây mọc nhưng Mộc sinh Thủy: nhờ rừng nuôi dưỡng nguồn nước .
Mộc
sinh Hoả :Cây cối
làm mồi cho lửa đỏ nhưng Hoả sinh Mộc: tro tàn giúp cây phát triển .
Hoả
sinh Thổ :Tro tàn
tích lại làm ra đất nhưng Thổ sinh Hoả: dưới lòng đất là những núi lửa .
Thổ
sinh Kim : Lòng đất
tạo nên kim loại nhưng Kim sinh Thổ :
các đá phún xuất lâu ngày sẽ tạo nên đất .
Và đây là
vài ví dụ về tương khắc và lực lượng đối
trọng:
Mộc
khắc Thổ : Rễ cây
đâm xuyên lớp đất còn Thổ Sinh Mộc: đất nuôi cây.
Thổ
khắc Thuỷ: Đất đắp
đê cao ngăn nước lũ còn Thủy sinh Thổ : dòng nước chở phù sa bồi lắng.
Thuỷ
khắc Hoả : Nước dập
được lửa còn Hoả sinh Thủy :kim loại nóng sẽ chảy thành nước .
Hoả
khắc Kim : Lửa nung
chảy sắt thép còn Kim sinh Hoả: các kim loại trong lòng đất phun ra lửa, tạo
nên núi lửa.
Kim
khắc Mộc: Thép cứng
do chặt cây còn Mộc sinh Kim: cây rừng che chở cho các kim loại dưới đất .
Nếu
ứng dụng thuyết ngũ hành vào môi trường học thi:
Phá rừng (Mộc)
sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ nước (Thuỷ) làm lụt lội nhiều hơn, phá vở sự hài
hoà giữa 2 chất này. Trồng rừng sẽ làm lưu lượng nước nhiều hơn
Đào bới
cát (Kim) làm thay đổi chế độ thuỷ văn của dòng sông (Thuỷ)
Cháy (Hoả)
cũng tác động đến rừng (Mộc) và làm đất khô cằn (Thổ )
Bồi bổ đất
bằng phân hoá học (Kim) làm hoa
màu thêm tốt tươi (Mộc) .Để đất dốc bị xói mòn (Thổ) sẽ làm mùa
màng (Mộc) bị hư hại .
Trong sự biến đổi khí hậu hiện nay, chính vì các
nhà máy và xe cộ (Kim) phát thải nhiều khí nhà kiếng trên bầu trời (Hoả) làm nhiệt độ
Trái đất tãng nên các tảng băng ở
Bắc cực và Nam cực chảy làm mặt nước biển dâng (Thuỷ), làm nhiều
vùng đất duyên hải bị ngập (Thổ), không thể trồng hoa màu, lấp cây rừng
ngập mặn (Mộc).
Sau đây ta
thử phân tích ảnh hưởng của vài yếu tố nói trên :
1.ảnh
hưởng trên Thuỷ
-trên
các dòng hải lưu : Ở điều kiện bình thường, các dòng hải lưu nóng (như Gulf
Stream) khi chảy vào vùng ôn đới sẽ giải phóng nhiệt, làm không khí ở vùng này
ấm lên .Sau đó các dòng hải lưu lạnh dần và chìm xuống tầng nước thấp hơn (do
nước lạnh thường nặng hơn nước nóng ) rồi chảy trở về vùng xích đạo .Nhưng khi
nhiệt độ tăng sẽ làm các tảng băng ở hai cực tan nhanh, khiến độ mặn giảm đi và
cơ chế trên sẽ bị xáo trộn .. Do nước biển
càng ít mặn thì càng nhẹ nên các dòng hải lưu khi đã lạnh đi vẫn không
thể chìm xuống. Các dòng hải lưu ngừng chảy. Hàng loạt sinh vật biển tuyệt chủng.
Biển mất khả năng hấp thụ các loại khí gây hiệu ứng nhà kiếng. Bắc Âu từ trước
đến nay, nhờ dòng hải lưu Gulf Stream nên ấm; nếu vậy thì Bắc Âu không
còn nhận được dòng không khí nóng từ xích đạo lên sẽ trở thành lạnh.
-trên
đại dương: Khí hậu thay đổi khiến đại dương ngày càng ấm và lớp không khí
trên bề mặt đại dương ngày càng nóng ẩm hơn . Bão lớn vì thế ngày càng xuất
hiện nhiều hơn: miền Trung xưa kia vài
năm mới có một trận bão; ngày nay chỉ riêng năm 2007 đã có 6 trận bão
liên tiếp, kéo theo lụt lội, đường hư, nhà sập.. Nóì khác đi, nhiệt độ nước
biển càng tăng, băo nhiệt đới càng dữ dội .
2. ảnh
hưởng trên Thổ: Từ
sự ấm lên của Trái Đất, nước biển dâng cao sẽ làm nhiều vùng thấp ven duyên hải
bị ngập nước mặn, làm mất đi diện tích canh tác nông nghiệp .
3. ảnh
hưởng trên Mộc :
Khí hậu nóng lên cũng gây hạn hán, kéo theo cháy rừng làm mất đi sự đa dạng
sinh học. Và khi không còn rừng che phủ thì xẩy ra xói mòn đất đai (Thổ), thay
đổi chế độ thuỷ văn với lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều ở vùng núi, gây lụt
miền đồng bằng (Thuỷ), đe doạ đến an
ninh lương thực (Mộc)
Như vậy, nếu theo suy nghĩ của Lão giáo, vì con
người đã làm trái với thiên nhiên như hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng
biển hàng triệu thứ từ hột xoàn, kim cương đến nhôm, sắt, khí đốt làm chế biến
rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc mới lại gây lầm than qua thiên tai, bão
lụt, hạn hán . Trái lại nếu ta dùng các nguồn năng lượng thuận theo thiên nhiên
như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng thuỷ triều v.v. thì không
có gây hậu quả tai hại vì không làm cho khí Co2 tăng lên. Đó là những năng
lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo được. Trồng rừng cũng giúp
giảm được khí Co2 vì rừng giúp hút bớt chất Co2 trong không khí, xuyên qua sự
quang hợp, tức sự đồng hoá diệp lục tố .
Theo Lão
Tử, làm gì cũng theo luật thiên nhiên vì cái tự nhiên rất huyền diệu . Đó là
căn bản của thuyết vô vi vì vô vi không có nghĩa là không làm mà chỉ có
nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên. Thực vậy, vì chủ trương vô vi mà Lão
Tử trọng những đức như khiêm, nhu, đề
cao sự tiêu diêu, sự hoà đồng với vũ trụ:
Lấy gió
mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn
hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát
trần một gót thiên nhiên
Cái
thân ngoại vật là tiên trên đời
Lão giáo
cũng khuyên ta sống cuộc đời giản dị, đơn sơ nghĩa là bớt tiêu thụ mà bớt tiêu
thụ cũng đồng nghĩa với giảm bớt nhu cầu năng lượng. Thực vậy, Lão Tử khuyên là
'Hoạ không gì lớn hơn bằng bất tri túc, lỗi không gì lớn hơn bằng muốn cho
được, cho nên đủ mà biết đủ thì thường thấy đủ' (Hoạ mạc đại vu bất tri túc,
cữu mạc đại vu dục đắc, cố tri túc chi túc thường túc hĩ. )
4. Tìm sự hài hoà giữa người và môi trường.
Ngày nay khung cảnh thiên nhiên càng ngày càng
nhỏ dần với sự phá rừng . Sự suy giảm diện tích rừng do dân số tăng, do di dân
tự do bùng phát, đã làm suy giảm tài nguyên rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh
học gây nên hoang mạc, khiến đất đai bị mất phì nhiêu, lụt lội xảy ra liên tiếp
hoặc hạn hán . Và khi không còn thảm thực vật rừng thì khả năng
tích nước cũng bị giảm và làm qúa trình bốc hơi nước từ mặt đất mạnh mẽ hơn,
khiến cây cối không đủ nước để sinh trưởng . Phá hủy thiên nhiên là phá hủy
luôn con người vì con người sau những giờ làm việc suốt tuần cũng cần có không
khí trong lành, nghe lại tiếng chim muông, tiếng suối reo, mặt trăng lên, nhìn
mặt trời lặn, để tìm chất lượng của đời sống
để có chỗ giảm bớt căng thẳng vốn là một nhân tố giết người nhiều nhất
(stress killer ). Stress có thể làm tăng huyết áp, rối loạn tiêu hoá, làm khả
năng chống bệnh giảm đi, cũng như kéo
theo một lô bệnh của thời đại: lo âu, buồn rầu vô cớ, rồi từ đó là trầm cảm.
Tuy nhiên khí nhà kiếng tăng là do các hoạt động của con người trong thế kỷ 20
này. Thực vậy, với các tiến bộ về y tế, tỷ lệ sinh đẻ cao trong khi tỷ lệ trẻ
em chết càng ngày càng giảm, tuổi thọ con người cũng tăng, do đó ngày nay dân số trên thế giới càng ngày càng
đông, không phải chỉ chừng 1 tỷ người như vài thế kỷ trước mà nay trên 6 tỷ
trong đó có 2 nước Á châu là Ấn Độ và Trung Quốc đã trên 2 tỷ.
Slow is
beautiful ..để nhái
lại tựa đề một cuốn sách nổi tiếng 'Small is beautiful' ! Con người ở
thời đại công nghiệp này có tâm trí luôn
luôn bị động như robot suốt ngày, làm
việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản xuất từ máy điện toán đến ráp xe
hơi, máy bay, mọi công đoạn đều lớp lang, có thời lượng quy định. Con người
không ai biết nhau, xong việc là về nhà . Tâm lý bị dồn ép. Sự tiến bộ kỹ thuật
từ nhiều thập niên gần đây với sự tăng tốc, cái gì cũng Express, nào là
ExpressPost, Fast food, Café Express..làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ truyền,
lối sống.
Thế giới
thay đổi qúa nhanh, con người không kịp thích nghi với các chuyển biến của thời
đại sinh ra mất thăng bằng về tâm lý .. Do đó, trước đây người ta nói không
bệnh tật là sức khỏe. Ngày nay, quan điểm về sức khỏe đã mở rộng hơn vì sức
khỏe phải gồm 3 phần: sức khỏe cơ thể: khỏe mạnh; sức khỏe tâm thần: vui đời,
lạc quan; sức khỏe xã hội: hòa hợp với xã hội, cộng đồng. Tìm hài hoà và an lạc
cho tâm hồn chính là đạt đến sự quân bình sinh thái giữa 3 thành tố trên. Trong
Phật học thì hoàn cảnh tự nhiên bên ngoài, xã hội nhân văn là y báo còn thân
tâm con người là chánh báo . Chánh báo tương ứng với y báo .
Cuộc cách
mạng kỹ nghệ đã đem đến cho nhân loại xe hơi, nhà máy nhưng ngày nay, thế giới
có đến 6 tỷ người, chen chúc trong các đô thị lớn (New york, Tokyo, Paris,
Mexico city, Thượng Hải v.v...), với xe cộ ngổn ngang chạy bằng xăng dầu, với
nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá, với các khu kỹ nghệ toả ra mỗi ngày trên
bầu trời hàng triệu tấn khí độc.
Con người
đang sống vượt xa ngưỡng cho phép. Trong môi trường học có một khái niệm thường
gọi là dấu chân sinh thái (ecological footprint) theo đó thì nhu
cầu môi trường của con người ( để ăn, mặc, ở v.v.) là 21.9 ha/người trong khi
năng lực sinh thái của Trái Đất (đất đai, nước, rừng v.v.) chỉ có thể cung cấp trung bình 15.7 ha/người.
Với dân số
đông dĩ nhiên sẽ kéo theo tiêu thụ về thực phẩm, về năng lượng, về nước, về
rừng, về khoáng sản v.v.trong khi đó thì tài nguyên thiên nhiên không những suy
thoái về lượng (rừng ít đi, đất đưa vào xây cất, nước ngầm thấp xuống v.v.) mà
còn về phẩm (sa mạc hoá, mặn hoá, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí ) ..) và đến
một lúc khi tiêu dùng trong kinh tế vượt quá sức sản xuất của vốn tạo hoá sẽ để
lại entropi sinh thái càng ngày càng lớn và trở thành vấn đề toàn
cầu. Entropi là một khái niệm nằm trong định luật thứ hai của
nhiệt động
học theo đó hệ thống nào cũng phải du nhập từ ngoài vào năng lượng và
vật chất
có chất lượng cao (thức ăn, thức
uống, v.v.) nhưng cũng phế thải ra ngoài
năng lượng và vật chất có chất lượng thấp thì mới tồn tại được .Cũng
phải nói
thêm là năng lượng và vật chất bị phế thái này không thể trở lại trạng
thái ban
đầu. Ví dụ: ta sản xuất ra 100 tấn giấy
đòi hỏi điện, cây rừng, chất hoá học và cũng phải xả ra ngoài sông
suối, ra ngoài không khí các phế thải và dĩ nhiên các phế thải này
không thể còn
dùng để làm ra giấy nữa.
Tóm lại,
tài nguyên trái đất này là hửu hạn và con người phải thích nghi với môi trường
sống càng ngày càng suy thoái . Chợt nhớ vài vần thơ trong bài Biển Cả
của Phùng Cung với nhiều câu thơ tuyệt vời :
Hởi biển cả/ Diện tuy rộng nhưng thiếu những giác quan cần thiết/ Lòng
tuy sâu mà chứa đầy mầm xanh mặn chát !./ Ôi, bao im lặng thanh cao/ Đều chìm
lắng trong thét gào man rợ ! Vậy dẫu có vô cùng lớn lao gì đó/ Ta chỉ yêu cầu phải
hài hoà với vô cùng bé nhỏ mà thôi !
5. Kết luận.
Với các
phân tích trên nghĩa là Thiên, Địa, Nhân trong Khổng giáo, Ngũ hành
theo Lão giáo, trùng trùng duyên khởi cái này có vì cái kia có trong
Phật giáo, ta nhận ra rằng mọi phạm trù khí quyển, thủy quyển, địa quyển, thổ
quyển, sinh quyển, mọi cái 'quyển' đó đều liên quan mật thiết với nhau tạo ra
hệ sinh thái (ecosystem) theo đó thì Một là tất cả và tất cả là Một (Oneness).
Chử Một này vốn đã nằm tiềm tàng trong các thành ngữ như thiên nhân hợp nhất,
tâm vật dung hợp, nội ngoại không cách biệt, vạn vật đồng nhất thể . Và chính
vì mọi vật trong môi trường đều tương liên, tương thuộc, tương tác nên cần giữ
trạng thái cân bằng, hài hoà, nếu không môi trường sẽ mất thăng bằng và cạn
kiệt. Đó chính là đạo lí môi trường nằm tiềm tàng trong cả 3 học thuyết/tôn
giáo nói trên .
Loài người
phải nhận thức rằng hành tinh Trái Đất ta ở đang có xu hướng gặp thảm họa do
dân số tăng, do sự kiệt quệ các tài nguyên tự nhiên như đất, nước, dầu mỏ, sự
xuống dốc môi trường sống và tình trạng thiếu lương thực.
Con người
phải ý thức chúng ta đang sống trên một con thuyền . Thuyền chìm thì nhân loại
cũng chìm theo . Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi người và của mỗi
người.
Cũng y hệt
như tiền trong trương mục ngân hàng, con người của thế hệ hôm nay chỉ có quyền
sử dụng phần lời, đừng đụng chạm đến phần vốn, vì vốn (vốn đất, vốn rừng, vốn
nước...) phải dành lại cho các thế hệ mai hậu. Trái đất này là của chung, mọi
việc đều liên quan đến nhau: khí dioxyt cacbon trên khí quy‹n là một khí không
biên giới; bầu không khí O3 (ozone) là không biên cương. Nó không tuân thủ các
ranh giới hành chánh của các chính phủ. Môi sinh có thể nhìn dưới dạng vĩ mô
hay vi mô. Trên cương vị vĩ mô, đó là trái đất, là một xứ, trên phạm vi vi mô
đó là một quả đồi, một thung lũng, một dòng sông, một cái hồ. Giáo dục cho mọi
người về sự cần thiết của niềm đồng cảm giữa người và vũ trụ, tình gắn bó giữa
con người với thiên nhiên để con người yêu thêm thiên nhiên, tạo vật sẽ giúp
nhân loại tránh được bờ vực thẳm do sự biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra mà
nhiều nhà khoa học đã tiên đoán và càng ngày càng ứng nghiệm.
Tài
liệu tham khảo sơ lược
Giản
Chi và Nguyễn Hiến Lê
. Đại cương triết học Trung Quốc
Grenier L'esprit du Tao. Flammarion 1973
Nguyễn
Thanh Liêm. Lão giáo trong Đồng Nai Cửu Long số 7 .Tháng 9, 2007
Nguyễn
Thành Long . Ô
nhiễm và thanh tịnh môi trường. Pháp Âm số 81 . Tháng 1/2005
Nguyễn
Đăng Trúc . An
hoà trong Tam giáo trong Việt Nam : Văn hoá và Môi trường . Khai Trí
Cali sắp xuất bản
Nguyễn
Ước . Đạo học
đại cương, Nho học đại cương trong www.talawas.org
Trúc Cư
Nguyễn Đương Tịnh .
Tư tưởng Á Đông trong Tập san Y sĩ số 163 Montreal tháng 10, 2004