348 năm Chủng viện Miền
“VÌ VINH QUANG CHÚA VÀ ĐỂ
XÂY DỰNG GIÁO HỘI”
Vương Đình Chữ
Poulo
Penang là một địa danh khá quen thuộc với Công giáo Việt
Nam vì nơi đó có Chủng viện Penang, nơi từng đào tạo
nhiều linh mục và cả giám mục cho 13 Giáo hội tại Châu
Á, trong đó có Giáo hội Việt Nam. Nhưng phải gọi nó
một cách chính danh là Chủng viện Miền (Grand Collège)
của Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris và nó có một lịch
sử lâu đời và đầy truân chuyên, khởi đầu từ năm
1665 tại Thái Lan, rồi lánh nạn một thời gian tại Việt
Nam, sau đó chuyển sang Ấn Độ trong hơn một thập niên
và cuối cùng mới định cư tại Penang, Malaixia.
Theo gợi ý và sự
giúp đỡ của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục
Giáo phận Vinh, chúng tôi có một chuyến thăm quan ngắn
ngày đến Penang, có dịp tìm hiểu Chủng viện Miền của
Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, nơi từng là “lò đào
tạo nhân sự” cho các Giáo phận ở Việt Nam, nhất là
trong thời kỳ đầu và giữa thế kỷ XIX, khi các cuộc
bách hại của vua chúa Nhà Nguyễn trở nên khốc liệt.
Nội dung bài viết này
chủ yếu dựa trên cuốn “A history of the College General in
Thailand and Penang (1665-2000) or the College of Martyrs” và các
tài liệu do Chủng viện Miền cung cấp và một số tài
liệu khác.
-
Huấn thị của Bộ Truyền giáo
Đạo Công giáo được các
thừa sai Dòng Tên loan truyền ở Việt Nam một cách chính
thức và liên tục từ năm 1615 ở Đàng Trong và năm 1627
ở Đàng Ngoài nhưng mãi hơn nửa thế kỷ sau, Tòa Thánh
mới thiết lập hai giáo phận tông tòa ở hai miền truyền
giáo này :
Ngày 13-05-1658, Bộ Truyền
giáo đề nghị bổ nhiệm hai cha Francois Pallu và Pierre
Lambert de la Motte làm giám mục cho vùng Viễn Đông. Ngày
29-07-1658, Đức Giáo hoàng Alexandre VII ký Đoản sắc
“Apostolatus Officium” bổ nhiệm Francois Pallu làm Giám mục
hiệu tòa Héliopolis (nay la Baalbeck, thuộc Syri) và Pierre
Lambert de la Motte làm Giám mục hiệu tòa Bérythe (nay la
Beyrouth thuộc Liban). Hơn một năm sau, ngày 09-09-1659, Đức
Giáo hoàng Alexandre VII ký Sắc chỉ “Super cathedram
ptrincipis” thiết lập hai địa phận Đại diện Tông tòa
ở Việt Nam và giao cho Đức Cha Pallu cai quản Đàng Ngoài,
năm tỉnh của Trung Hoa (Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc
và Tứ Xuyên) và nước Lào; giao cho Đức cha Lambert cai
quản Đàng Trong và một số vùng của Trung Hoa (Chiết
Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải
Nam).
Kèm theo sắc chỉ phân vùng
hoạt động, Bộ Truyền giáo còn gửi cho hai vị tân giám
mục Bản Huấn thị khá chi tiết gồm ba phần về những
việc phải làm trước khi lên đường, trong hành trình và
tại miền truyền giáo, trong đó nhấn mạnh việc đào
tạo và hình thành hàng giáo sĩ địa phương. Đây là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, như Huấn thị viết :
“Lý do chính yếu
để Thánh bộ Truyền giáo gửi các vị, với tư cách là
giám mục, đến trong các miền ấy là để các vị, bằng
mọi cách và mọi phương pháp, nỗ lực giáo dục những
người trẻ để họ có đủ điều kiện làm linh mục,
rồi các vị truyền chức thánh cho họ; các vị sẽ giao
cho họ những vùng rộng lớn để phục vụ Đạo Chúa,
dưới quyền các vị. Vậy các vị hãy luôn nhớ tới
mục đích này là chiêu mộ, huấn luyện và truyền chức
thánh cho những người trẻ có điều kiện cần thiết,
càng nhiều càng tốt”.
Đây cũng là một trong nhiệm
vụ chính yếu của Hội Truyền giáo hải ngoại Paris, như
được ghi trong khoản đầu tiên của Quy chế của Hội :
“Thúc đẩy việc
lương dân trở lại, không chỉ bằng rao giảng Tin Mừng,
nhưng trên hết, bằng việc chuẩn bị, với mọi phương
tiện có thể, và nâng lên hàng giáo sĩ những ai trong
hàng ngũ các tân tòng hay con cái họ, những người phù
hợp nhất với qui chế thánh thiện này, nhằm đào tạo
tại mỗi quốc gia một hàng giáo sĩ và giáo phẩm, như
Chúa Giêsu và các Tông đồ đã thiết lập trong Giáo hội”
.
Để thực hiện huấn thị
này của Bộ Truyền giáo, hai vị Đại diện Tông tòa
(ĐDTT) cùng các thừa sai đã họp Công nghị ở Yuthia vào
cuối tháng hai 1664, vạch ra những định hướng lớn của
kế hoạch truyền giáo, trong đó, quyết định thành lập
một chủng viện chung cho cả miền truyền giáo.
-
Một lịch sử truân chuyên
2.1- Một trăm năm trên
đất Thái (1665 – 1765)
: Ngay sau khi tới Thái Lan, Đức Cha Lambert de la Motte đã
tạo lập được một quan hệ hữu hảo với nhà vua Phra
Narai nên khi biết được ý định xây dựng chủng viện,
nhà vua Phra Narai chẳng những cấp đất ở Ban Plahet,
cạnh sông Menam , gần trại những người Đàng Trong và
cung cấp vật liệu mà còn gửi 10 người đến để học
“các khoa học của Tây phương”. Năm 1665, thừa sai
Louis Laneau (sau này là ĐDTT Thái Lan) điều hành việc xây
dựng, lúc đầu chỉ là một công trình khiêm tốn với
hai phòng, vách gỗ, mái ngói. Năm 1666, xây một dãy nhà
lầu bằng gạch, tầng trệt gồm 6 phòng ngủ có thể
chứa 20 người và một phòng chung. Tầng trên là nhà
nguyện. Toàn bộ khu vực được gọi là “trại của các
thừa sai” hay còn được gọi là “Trại Thánh Giuse”.
Ngày 17-10-1666, Đức Cha Lambert đã viết cho Đức cha Pallu
: “ở đây có một
chủng viện, một trường thần học luân lý, có các sinh
viên nhà vua gửi tới, có một ngôi trường nhỏ cho các
Kitô hữu. Chúng tôi cũng đã gọi vào hàng giáo sĩ ba
thanh niên và chúng tôi sẽ cho họ chịu phép cắt tóc vào
ngày lễ Các Thánh. Một trong ba người này, 26 tuổi đã
hứa và khấn dâng mình cho việc truyền giáo; ở đây,
chúng tôi có một ứng sinh rất hứa hẹn, đó là Francois
Perez”. Khi thừa
sai Louis Laneau phụ trách chủng viện, ngài đã có 10 chủng
sinh. Nhưng rồi khó khăn xảy tới khi người Bồ chống
đối các Đại diện Tông tòa, tất cả các chủng sinh
rời chủng viện, chỉ trừ một mình Francois Perez, người
đã được đích thân Đức Cha Lambert hướng dẫn và đào
tạo. Vào chiều lễ Phục sinh năm 1668, Francois Perez được
phong chức linh mục, cùng với một thầy giảng người
Đàng Trong là Giuse Trang được thừa sai Hainques gửi qua.
Đó là hoa quả đầu mùa của chủng viện. Tháng 6-1668,
có thêm một lễ phong chức linh mục cho hai thầy giảng
từ Đàng Ngoài tới, đó là Biển Đức Hiền và Gioan
Huệ. Năm 1670, chủng viện được tăng cường nhân sự
với sự hiện diện của thừa sai Pierre Langlois. Lúc mới
tới, ngài đã học tiếng Thái và chỉ sau ba tháng, ngài
đã có thể nói, đọc và viết tiếng Thái . Nhưng khi
được giao phụ trách chủng viện, từ 1672 đến1680, ngài
lại thấy nhu cầu phải học tiếng Việt. Ngài là người
có năng khiến về ngôn ngữ nên chỉ sau 6 tháng, ngài đã
bắt đầu biên soạn một cuốn tự điển “có
1500 từ nhiều hơn tự điển của Cha Alexandre de Rhodes, kế
đó, còn biên soạn một cuốn ngữ pháp”.
Tháng 4-1675, Đức Cha Laneau đã phong chức linh mục cho một
chủng sinh Philippin, người này đã học ở trường 5 năm
và đồng thời ban phép cắt tóc cho 12 chủng sinh, trong đó
một người đến từ Macao, một người khác đến từ
Tenasserim còn 10 người từ Đàng Trong. Vì số người Đàng
Trong chiếm đa số nên Cha Langlois đôi khi cũng được gọi
là “Giám đốc chủng viện của người Đàng Trong”.
Trong thời kỳ này, chủng viện có hai cấp : Đại chủng
viện gồm một phụ phó tế và 5 thầy đã lãnh các chức
nhỏ, 6 thầy đã cắt tóc, 11 thầy này đều là người
Đàng Trong, cùng 21 thầy khác thuộc nhiều quốc tịch
khác; Tiểu chủng viện gồm 3 lớp. Lớp thứ nhất gồm
các chú người Đàng Ngoài và Đàng Trong, lớp thứ hai
gồm khoảng 20 chú thuộc nhiều quốc tịch : Trung Hoa,
Nhật Bản, Ấn độ, Bồ Đào Nha và vài quốc tịch khác,
lớp thứ ba gốm các chú người Thái Lan, đông đúc hơn.
Thấy chủng viện hoạt động hiệu quả nên Bộ Truyền
giáo đã nhiều lần ủng hộ tài chính. Đức cha Pallu
cũng vận động và quyên góp tài chính nhưng chủng viện
luôn thiếu hụt tài chính, nhất là sau vụ hỏa hoạn năm
1675 do bọn trộm gây nên, làm cháy một dãy nhà mới xây
cùng năm nhà khác, chỉ còn lại nhà nguyện và nhà ở
của chủng sinh Đàng Trong. Vụ hỏa hoạn này bắt buộc
phải phân tán chủng sinh ra nhiều khu vực riêng rẽ, gây
ra nhiều bất tiện trong công việc huấn luyện. Đức Cha
Laneau quyết định quy tụ tất cả chủng sinh về khuôn
viên Tòa Giám mục nhưng nơi đây có quá nhiều người
lui tới, ồn ào, lại có quá nhiều muỗi khiến chủng
sinh không thể tập trung học tập được. Vì vậy, năm
1680, chủng viện được dời về Mahapram, cách Juthia 4 cây
số. Các đại và tiểu chủng sinh vui vẻ về nơi mới
được mang tên “Chủng việc các Thánh Thiên Thần”
nhưng không có thừa sai Langlois tháp tùng vì ngài được
cử sang Đàng Trong theo yêu cầu của ngài. Thừa sai
Antoine Pascot được cử làm Giám đốc Chủng viện. Ngài
qui định ngôn ngữ chính thức của chủng viện là tiếng
la tinh. Nhưng vì lý do sức khỏe, ngài phải về lại Pháp
năm 1684.
Thừa sai Jean Joret kế nhiệm
và được chứng kiến một biến cố đáng ghi nhận tại
chủng viện, đó là chuyến thăm của đại sứ Pháp De
Chaumont, dẫn đầu phái bộ ngoại giao đầu tiên của
Pháp đến Thái Lan, từ ngày 23-9-1685 đến 5-12-1685. Là
một tín hữu công giáo nhiệt thành, Ông De Chaumont rất
quan tâm đến chủng viện nên ngày 14-10-1685, ông đã đến
thăm. Chủng viện khi đó có khoảng 40 người, từ 12 đến
20 tuổi. Đã có 22 chủng sinh đăng ký phát biểu chào
mừng ngài đại sứ nhưng do không đủ thời gian nên chỉ
có 4 đại diện lên chào mừng bằng tiếng Pháp, Latinh,
Thái và Việt. Để chứng tỏ năng lực của các chủng
sinh, Đức Cha Laneau yêu cầu Cha Jean Joiret cử hai chủng
sinh trình hai luận án thần học trước vị Đại sứ.
Antoine Pinto, người Thái và một Phụ Phó tế người Đàng
Trong tên thánh là Maure được chọn. Chỉ sau gần hai
tháng chuẩn bị, hai chủng sinh này đã xuất sắc trình
bày luận án, tạo được sự khâm phục nơi mọi người
hiện diện. Antoine Pinto còn được cử theo phái bộ ngoại
giao này sang Pháp. Tại Paris, Pinto đã được các nhà thần
học của Hội Thừa sau Paris kiểm tra tình độ và các vị
này đã yêu cầu Pinto trình bày đề tài “Một Chúa và
Ba Ngôi” tại Đại học Sorbonne và tại nhà thờ chính
tòa Notre Dame. Cả hai cuộc trình bày này đã khiến nhiều
người khâm phục. Mấy tháng sau, Antoine Pinto được gửi
sang Roma để trình luận án trước Đức Thánh Cha Innocent
XI và các hồng y tại Chủng viện của Bộ Truyền giáo.
Vị giáo hoàng đã rất hài lòng trước sự hiểu biết
sâu xa của Pinto và đã quyết định chước giảm tuổi
tác cho chủng sinh này để có thể được phong chức linh
mục trước khi về lại Pháp. Thậm chí Đức Thánh Cha
đã nghĩ đến việc đặt Antoine Pinto làm Giám mục. Sự
việc chưa tới đâu thì Pinto qua đời tại Juthia ngày
24-8-1696.
Do biến cố năm 1685 nói
trên đây, đầu năm 1686, Tể tướng của nhà vua Phra
Narai là Constance Phaulkon đến thăm chủng viện tại
Mahapram. Ông này là người Hy Lạp, theo Công giáo. Ông
phiêu dạt sang Thái Lan làm ăn, lúc đầu ở ngành thương
mại, sau nhờ quen biết nên được đứng đầu ngành
ngoại thương cho nhà vua và kế đó được nhà vua tin
tưởng giao trọn quyền như Tể tướng. Ông muốn dời
chủng viện vào kinh đô Juthia. Nhà vua chẳng những đồng
ý mà còn cấp đất và nhân công để xây dựng chủng
viện mới. Hằng ngày có khoảng 500 công nhân miệt mài
làm việc, mọi chi phí đều do Constance Faulkon đài thọ.
Ông này còn hứa chu cấp hằng năm 1.500 quan vàng để
nuôi chủng sinh. Năm 1687, khi dời vào Mahapram, chủng viện
có 22 đại chủng sinh và 47 tiểu chủng sinh. Nhưng cũng
trong năm này, vua Louis XIV, theo đề nghị của Phaulkon, đã
gửi một đoàn tàu chiến đến chiếm giữ cảng Bankok và
Mergui. Sự việc này đã làm bùng phát sự tức giận của
người Thái vốn âm ỉ lâu nay trước sự lộng quyền
của Phaulkon: ngày 18-5-1688, nhà vua Phra Narai bị lật đổ
và cả nhà vua lẫn Constance Phaulkon đều bị sát hại,
còn các người Châu Âu bị trục xuất, các thừa sai và
các Kitô hữu bị bắt bớ. Giám mục Laneau cũng bị bắt
và nhốt tù. Hơn một nửa số chủng sinh cũng chung số
phận. Số còn lại chạy trốn hoặc trở về gia đình.
Chủng viện bị đốt phá.
Sau 21 tháng tù đầy, ngày
15-8-1690, các thừa sai và chủng sinh được thả và bị
chỉ định cư trú trên một cù lao nhỏ chỉ rộng 8 mét
và dài 18 mét. Nhưng, sau một thời gian dài lao khổ trong
tù đày, nay lại bị bệnh sốt rét hành hạ nên ba thừa
sai lần lượt qua đời còn các chủng sinh đều đau yếu.
Ngày 25-4-1691, chủng viện
Thánh Giuse được trả lại nhưng việc tái thiết gặp
rất nhiều khó khăn nên sau nhiều cuộc tranh luận, các
thừa sai quyết định dời chủng viện về lại Mahapram.
Cùng với việc trùng tu lại cơ sở vật chất, cha Bề
trên Pocquet còn chấn chỉnh lại lề luật với châm ngôn
“Vì vinh quang cao cả của Chúa và để xây dựng Giáo
hội” (Ad majorem Dei gloriam et ad aedificationem Ecclesiae). Năm
1698, thừa sai Pocquet trở lại Paris và người lãnh đạo
chủng viện tiếp theo là thừa sai Gabriel Braud, người
từng dạy tiếng latinh ở chủng viện từ năm 1693 và khi
đó đang là Quyền Đại diện Tông Tòa Thái Lan, vì Đức
Cha Louis Laneau đã mất ngày 16-3-1696.
Tháng 9-1702, Tân Đại diện
Tông tòa Thái Lan là Louis de Cicé từ Pháp qua. Ngài chuyển
thừa sai Gabriel Barud về phụ trách Giáo xứ Thánh Giuse và
cử thừa sai Jacques Jarossier phụ trách chủng viện, nơi
ngài từng hoàn tất môn thần học và được phong chức
linh mục năm 1700. Nhưng nhiệm kỳ của ngài không kéo dài
vì đến năm 1704, ngài được thay thế bằng thừa sai
Francois Godefroy. Số chủng sinh không ngừng tăng : năm 1701
là 36 người, năm 1704 là 45 và năm 1706 là 48 người,
nhưng việc tái thiết cơ sở đã đẩy chủng viện vào
cảnh nợ nần nghiêm trọng nên không thể tiếp tục nuôi
sống số chủng sinh này, năm 1707, Giám mục De Cicé buộc
phải tạm đóng cửa chủng viện, chỉ giữ lại 12 chủng
sinh, phần lớn là người Đàng Trong. Tháng 2-1710, chủng
viện được mở lại, với 28 chủng sinh và năm 1713, Đức
Cha Jacques De Bourges, Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài
bị trục xuất, đã chạy sang Thái Lan, với một linh mục,
22 chủng sinh và sự hỗ trợ về tài chính: Chủng viện
như được hồi sinh. Nhân sự được Hội Thừa sai Paris
tăng cường qua việc gửi cha Andre Roost, xuất thân từ
Đại học Sorbonne, sang dạy chủng viện. Đến năm 1717,
vị Đại diện Tông tòa De Cicé đã có thể tự hào rằng
“Chủng viện của chúng tôi có thể sánh bằng các
trường của Đại học Paris”. Năm 1718, số chủng sinh
là 50 người gồm 14 người Thái, 24 người Đàng Ngoài, 5
người Đàng Trong và 7 người Hoa. Ngoài việc chú trọng
nâng cao chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất cũng
được nâng cấp: nhà lợp lá nay được thay bằng mái
ngói vào năm 1723.
Năm 1727, Giám mục JJ Tessier
de Queralay kế nhiệm Đức Cha De Cicé. Mặc dầu có nhiều
ý kiến phản đối, vị tân giám mục quyết định dời
chủng viện về lại Juthia để tiện bề chăm lo và dạy
dỗ chủng sinh. Mới yên chỗ thì chủng viện lại bị
một đợt sách nhiễu. Nguyên nhân là một chủng sinh
người Hoa tên là Laurent Teng, con của một vị quan trong
triều, đã được cha mẹ dâng cho Đức cha De Cicé, với
sự ưng thuận của nhà vua. Sau khi học 10 năm ở chủng
viện, Teng được chịu phép cắt tóc nhưng nay gia đình
đến đòi lại và buộc phải bỏ đạo. Lúc đầu, Teng
không chịu bỏ đạo nhưng sau đó, bị đánh quá đau, anh
ta đã bỏ đạo và mặc áo nhà sư. Nhưng triều đình
không dừng ở đây mà còn muốn tịch thu chủng viện vì
trong đó có chứa một số sách đạo mà triều đình cho
là chống lại Phật giáo. Tháng 10-1730, Giám mục Queralay
và thừa sai Lemaire bị đưa ra tòa và bị cấm không được
viết sách công giáo bằng tiếng Thái hay tiếng Pali, không
được chống báng các tôn giáo của Thái, không được
giảng đạo cho người Thái, Lào , Miến Điện và không
được nhận họ vào đạo công giáo. Đợt sách nhiễu
này kéo dài cho đến khi nhà vua qua đời năm 1733, nhưng
sau khi Đức cha Queralay mất ngày 27-11-1736, chỉ còn mỗi
một mình thừa sai Lemaire chèo chống đủ việc vì từ 15
năm qua, Paris không gửi thừa sai nào sang Thái.
Đến năm 1737, ba thừa sai
được gửi sang Thái, sang năm 1738 thêm được một vị.
Một trong bốn vị này là P. Lacere được cử phụ trách
chủng viện. Nhờ vậy, chủng viện tại Mahapram được
mở lại, 19 chủng sinh quay về đó, còn 8 người tiếp
tục ở lại Juthia để học thần học với thừa sai
Lefebvre.
Thừa sai Lolière vốn từng
hoạt động ở Thái Lan, sau đó, làm quản lý ở
Pondicherry, được phong giám mục tại Meliapour tháng 3-1740
nhưng đến tháng 5-1742 mới tới Thái Lan nhận nhiệm sở.
Một trong những quyết định đầu tiên của vị tân Đại
diện Tông tòa là chuyển chủng viện về lại Juthia;
nhưng ngài sớm nhận ra những bất tiện của một môi
trường không phù hợp với việc đào tạo chủng sinh nên
đến tháng 6-1743, ngài cho chuyển chủng viện về
Mahapram. Năm 1747, chủng viện có 47 chủng sinh.
Sau hơn một thập niên được
yên ổn, sóng gió lại nổi lên. Đầu năm 1760, quân Miến
Điện đã chiếm được Mergui và đến tháng 4, đã bao
vây kinh đô Yuthia. Ngày 11-4, kinh đô bị tấn công dữ
dội mấy ngày liền nhưng quân Miến bất ngờ rút lui. Lý
do là họ phải rút quân về nước chịu tang nhà vua mới
mất. Trước đường rút, họ đã đốt cháy chủng viện
Mahapram để trả thù cho việc các tín hữu công giáo đã
kiên cường chống trả họ ở Juthia. Năm 1762, một con
đập được đắp dọc sông Menam và việc này đã bít
luôn lối giao thương của chủng viện. Không thể sống
cô lập, các chủng sinh phải quay về tá túc tại Juthia.
Nhà vua ưu ái dành cho một khu đất mới nhưng các thừa
sai không dám xây dựng vì ngại quân Miến đang lăm le
quay lại. Quả vậy, giữa năm 1765, quân Miến quay lại,
cuộc bao vây kinh đô kéo dài 22 tháng. Các chủng sinh may
mắn chạy thoát về Chantaboun. Ngày 23-3-1767, khu vực trại
Thánh Giuse bị tràn ngập : nhà thờ, chủng viện bị đốt
cháy, Giám mục Đại diện Tông tòa bị bắt và giải về
Rangoon. Ngày 8-4, Juthia bị san bằng và kinh đô này bị bỏ
phế.
2.2- Một thời gian phiêu
dạt ở Hà Tiên (1765- 1769). Cuộc
sống ở Chantaboun cũng rất bấp bênh vì một đàng trộm
cướp quá nhiều, đàng khác, quân Miến cũng đang lăm le
tiến về phía đó. Chủng viện phải tính tới việc di
tản. Địa điểm được chọn lựa là Cần Cao, vùng Hà
Tiên của Việt Nam, không xa Thái Lan bao nhiêu. Một người
Hoa đồng ý chở đoàn và cuộc hành trình kéo dài 15
ngày. Quan Trấn thủ Hà Tiên Mặc Thiên Tứ đón tiếp
đoàn và cho chọn một trong ba địa điểm để lập chủng
viện. Hòn Đất được chọn vì nơi đây có nước ngọt,
môi trường tĩnh lặng, khí hậu trong lành và gần một
cộng đoàn Kitô hữu, từ những nơi khác chạy về đó
trốn tránh bách hại. Một căn nhà lá được dựng lên
nhưng không có giường, không có ghế. Cuộc sống thiếu
thốn mọi bề. Bữa ăn nào sang thì cũng chỉ có được
một con gà chia cho hơn 25 người. Nhưng Hội Truyền giáo
Hải ngoại Paris tiếp cứu kịp thời: cung cấp một ngân
khoản để xây dựng một cơ sở chứa được 50 người.
Tháng 3-1776, chủng viện có
một bề trên mới là thừa sai Pigneau de Béhaine (sau này
là Giám mục Bá Đa Lộc nổi tiếng). Vị thừa sai trẻ
này muốn đi giảng đạo, thu phục các linh hồn nhưng khi
được giao phụ trách chủng viện thì lại khám phá ra
rằng “ công việc
tốt lành này chắc chắn là điều thú vị nhất trong
miền truyền giáo của chúng ta và thật quan trọng là
phải thuyết phục tất cả các thừa sai rằng đây là
công việc hữu ích nhất mà chúng ta có thể làm”
(College, 31).
Ngày 1-7-1776, cơ sở Hòn Đất
đón tiếp 52 tín hữu chạy thoát từ Thái Lan sang, cùng
với Quyền Đại diện Tông tòa Corre.
Ngày 19-12-1776, một giáo dân
đến báo cho các thừa sai là hoàng tử Chau-Si-Sang, một
người đang chạy trốn và đang tìm cách chiếm lại vương
quyền từ tay vua Phaja-Tak, muốn gặp các thừa sai.
Chau-Si-Sang là con của vị Đại sứ Thái Lan từng đến
Paris tiếp kiến Vua Louis XIV, rất có cảm tình với các
thừa sai. Thừa sai Corre đánh giá rằng nếu vị hoàng tử
này chiếm lại được ngai vàng thì Công giáo sẽ được
thuận lợi và chủng viện có thể thu hồi lại những gì
đã mất. Nhưng thừa sai Pigneau de Behaine sợ dính líu vào
việc này sẽ sinh nhiều tai họa, trước mắt là sợ đụng
chạm đến Mặc Thiên Tứ nên từ chối tiếp đón. Quả
vậy, chỉ mấy ngày sau khi Chau-Si-Sang rời Hà Tiên, sứ
giả của Phaja-Tak đền Hà Tiên, mang theo nhiều tặng phẩm
giá trị và yêu cầu Mặc Thiên Tứ bắt nộp Chau-Si-Sang,
sống hay chết. Quan Trấn thủ tổ chức truy tìm kẻ chạy
trốn và ông nổi giận khi nghe báo cáo (sai) rằng các
thừa sai đã đón tiếp Chau-Si-Sang ở chủng viện và đưa
ông này qua Campuchia. Cả Pigneau de Behaine, cả thừa sai
Artaud và linh mục người Hoa Jacques Chang đều bị bắt,
tống giam và mang gông. Sau nhiều ngày tra khảo, Quan Trấn
thủ thấy những người này vô can nên ông đề nghị
thừa sai Artaud sang Campuchia tìm và dẫn độ Chau-Si-Sang.
Artaud nhận lời nhưng với điều kiện là phải thả hai
đồng sự của mình cũng như báo trước khả năng thất
bại của kế hoạch này. Ngày 17-2-1777, Artaud quay lại Hà
Tiên, không có Chau-Si-Sang. Mặc Thiên Tứ bắt cả ba người
quay lại nhà tù, giam thêm hai tháng nữa rồi mới thả
ra. Các thừa sai và các chủng sinh bắt tay nâng cấp cơ
sở của chủng viện nhưng công việc đang dang dở thì
lại xảy chuyện. Nguyên nhân là Mặc Thiên Tứ quay lại
chống Phaja-Tak và dưới chiêu bài cung cấp gạo cho
Bangkok, Mặc Thiên Tứ tổ chức một đoàn tàu chiến, với
ý định bắt cóc nhà vua Thái nhưng âm mưu này bị thất
bại. Người Thái tổ chức một nhóm quân, gồm cả người
Hoa và người Campuchia xâm nhập Hà Tiên. Tháng 10-1769, họ
đến trước nhà thừa sai Artaud, sát hại một số tín
hữu, nhiều người khác bị bắt và bị đe dọa hành
quyết hôm sau. Lợi dụng đêm tối, những người này
chạy trốn được. Mặc Thiên Tứ bao vây khu vực quân
xâm nhập và ra lệnh đốt cháy toàn bộ nhà thờ và các
cơ sở khác của chủng viện.
Trước tình cảnh này, các
thừa sai quyết định di dời chủng viện đến nơi an
toàn hơn. Nhưng vấn đề là đi đâu ? Thái Lan đang còn
chiến tranh, Đàng Trong đang cấm đạo, Campuchia thì vẫn
bất an. Cuối cùng các thừa sai nghĩ đến đất nước Ấn
Độ xa xôi nhưng thừa sai Artaud không theo chuyến đi vì
ngày 28-11-1769, ngài qua đời. Ngày 11-12-1769, một chiếc
thuyền rời Hà Tiên, mang theo 43 người của chủng viện,
hướng về Ấn Độ.
2.3- Những năm tạm cư ở
Ấn Độ (1770 – 1783)
Ngày
3-1-1770, chiếc thuyền ghé Malacca, Malaisia và lưu lại đây
hai tháng. Cuối tháng 2, một chiếc tàu của người Bồ
ghé qua Malacca trên đường đi Ấn Độ nhưng trên tàu đã
gần đầy người. Sau nhiều thương lượng, tàu này đồng
ý chở thừa sai Pigneau và 12 chủng sinh đi Pondicherry,
những người còn lại được chia thành ba nhóm, đi trên
ba chiếc thuyền của người Hồi giáo, miễn phí nhưng
phải tự túc thức ăn và nước uống cho suốt cuộc hành
trình. Ba chiếc thuyền này hẹn nhau ở Negapatam nhưng thực
tế, chỉ có một thuyền cập bến mang theo thừa sai
Morvan và 10 chủng sinh. Nhóm này được tàu Pháp chở tiếp
đến Pondicherry, nơi thừa sai Pigneau đã đến từ cuối
tháng 6-1770. Một thuyền khác ghé vào Madras còn chiếc thứ
ba thì ghé vào Masulipatam. Nhưng cuối cùng , hai nhóm này
cũng đến được Pondicherry. Chủng viện được mở lại,
tạm thời cư trú tại nhà quản lý của Hội Thừa sai
Paris tại Pondicherry.
Ngày 16-3-1771, cha quản lý
Louis Mathon mua một khu đất rộng 7,5 sào tại Virampatnam,
trên đó, có một khu nhà đang xây dang dở. Các chủng
sinh được chuyển về đây, tổng số là 39 người. Nhờ
sự vận động của Giám mục Davoust, Đức Giáo hoàng
Clement XIV đồng ý cho chủng viện trực thuộc các Đại
diện Tông tòa chứ không thuộc quyền Giám mục giáo phận
San – Thome vốn cai quản Pondicherry. Tòa thánh cũng cấm
các chủng sinh không được chuyển sang các dòng và cấm
các dòng lôi kéo các chủng sinh, ai vi phạm sẽ bị phạt
vạ. Năm 1775, Đức Giáo hoàng Pio VI đặt chủng viện
dưới sự bảo trợ đặc biệt của Tòa Thánh và năm
1780 còn ban cho thêm nhiều ân huệ. Nhân sự cũng được
MEP tăng cường. Tuy vậy, chiều hướng đi xuống của
chủng viện xem ra không chặn lại được mà lý do chính
yếu là sự giảm sút các chủng sinh.
Quả vậy, năm 1772, tám
chủng sinh thần học về lại quê hương của mình để
chuẩn bị nhận chức linh mục. Tiếp đó, khi thừa sai
Pigneau de Behaine về Đàng Trong nhận chức Đại diện Tông
tòa (tháng 7-1774), ngài mang theo 9 chủng sinh. Số chủng
sinh mới không có vì Thái Lan đang chiến tranh, Đàng Trong
và Đàng Ngoài thì quá xa nên tuy hoàn cảnh rất khó khăn,
vẫn gắng mở các chủng viện của mình. Năm 1778, số
chủng sinh chỉ còn 18 người, năm 1782, chỉ còn 4, 5 người
nên MEP quyết định gửi số chủng sinh này sang Macao và
năm 1783, tạm thời đóng cửa chủng viện.
2.4- Penang như miền đất
hứa (từ 1808…)
Chủng viện Miền tại Ấn
Độ chấm dứt hoạt động nhưng nhiệm vụ đào tạo
hàng giáo sĩ địa phương mà Tòa Thánh mong muốn, cũng là
ưu tiên hàng đầu của MEP, thì không thể chấm dứt.
Từ năm 1784, đã có nhiều
ý kiến khác nhau được đưa ra : người thì đề nghị
đặt chủng viện mới ở Manila, người thì yêu cầu đặt
ở Malacca, người khác lại đề nghị chọn Penang; các
địa danh khách như Queda (Kedah), Bangkok cũng được nêu
lên. Các ý kiến khác nhau đến độ không thể đồng
thuận được. Cuối cùng, năm 1807, đã có cuộc họp tại
Macao, với sự hiện diện của thừa sai Claude Letondal,
quản lý của MEP tại Macao, thừa sai Marchini, đại diện
của Bộ Truyền giáo tại Macao, thừa sai Richenet, Dòng
Lasaristes và thừa sai Michel Lolivier từng truyền giáo 15
năm tại Phúc Kiến và là người được đề cử phụ
trách chủng viện sắp được tái lập, cùng một số
thừa sai Pháp khác đang có mặt tại Macao. Mọi người
quyết định chọn Penang.
Poulo Penang là một hoàn đảo
bị Công ty Đông Ấn của Anh chiếm đóng ngày 11-8-1786.
Năm 1788, đã có người đề nghị lập chủng viện ở
trên đảo này. Năm 1802, thừa sai Escodeca ghé đảo này
trên đường đi Sichuan và đề nghị với Công ty Đông Ấn
cho lập chủng viện ở đây. Công ty này chẳng những
đồng ý mà còn hứa giúp đỡ. Năm 1804, thừa sai Jean
Descourvières nhận định Penang là nơi thích hợp nhất,
một nhận định được Đức hồng y Borgia , Bộ trưởng
Bộ Truyền giáo đồng tình. Có thể xem những điều trên
đây là cơ sở để cuộc họp năm 1807 chọn Penang làm
địa điểm tái lập Chủng viện Miền.
Tháng 12-1807, thừa sai
Lolivier cùng 5 đại chủng sinh lên thuyền từ Macao hướng
về Penang. Đầu năm 1809, thừa sai Letondal cũng tới đây
để tiếp tay. Tháng 11-1809, họ mua một căn nhà tại
làng Pulau Tikus mà dân địa phương gọi là “Làng chuột”
vì ở đó đầy dẫy lài thú gậm nhấm này, còn dân cư
thì rất nghèo nàn. Năm 1811, chủng viện có 20 chủng
sinh, toàn người Hoa: 18 người đến từ Sichuan và 2 đến
từ Quảng Đông, nên thời gian đó, được gọi là Chủng
viện Trung Hoa.
Các khó khăn tiếp tục đeo
bám chủng viện trong hơn 20 năm tiếp theo, từ bị cướp
đột nhập năm 1811 và sau đó là trận hỏa hoạn đêm
29-6-1812, thiêu rụi hoàn toàn 4 dãy nhà của chủng viện,
cho đến cuộc vay hãm Penang do quân Thái thực hiện năm
1826. Những biến cố này làm cho Chủng viện luôn ở
trạng thái thiếu thốn về vật chất và rất ít thêm ơn
gọi. Ngày 18-12-1833, thừa sai Lolivier qua đời, sau 25 năm
phục vụ Chủng viện, để lại cho người kế nhiệm 22
chủng sinh.
Chỉ từ năm 1834, khi nhiều
chủng sinh Việt Nam được gửi từ Đàng Trong và Đàng
Ngoài sang Penang hầu chạy trốn cuộc bách hại của Vua
Minh Mạng, chủng viện có thêm sinh khí và tạo nên thời
hoàng kim kéo dài cho đến giữa thế kỷ XX, với nhiều
vinh quang thập giá và với hàng ngũ lãnh đạo các Giáo
hội Châu Á, trong đó có Việt Nam.
-
Nơi đào tạo nhân sự cho các Giáo hội Châu Á.
Năm 1665 thành lập và chỉ
3 năm sau, Chủng viện Miền đã có được lễ phong chức
linh mục đầu tiên vào tháng 3 -1668, trong đó, có một
người do mình đào tạo, còn người kia là thầy giảng
từ Đàng Trong gửi qua (Giuse Trang). Như vậy, Chủng viện
vừa là nơi đào tạo chính qui vừa là nơi đón tiếp và
bồi dưỡng cấp tốc rồi phong chức linh mục cho các ứng
viên từ các nơi khác gửi tới . Tháng 6-1668, có thêm một
lễ phong chức nữa và lần này là hai thầy giảng Đàng
Ngoài (Biển Đức Hiền và Gioan Huệ). Và từ đó, Chủng
viện Miền, tại Yuthia cũng như tại Penang không ngừng
cung cấp cho các Giáo hội tại Châu Á các thợ gặt trên
các cánh đồng truyền giáo.
Thời kỳ Chủng viện tại
Thái Lan (1665 -1765), chúng ta không có được con số thống
kê nhưng từ khi Chủng viện Miền được dời về Penang,
chúng ta có được các con số khá ấn tượng như sau:
-
Thời kỳ 1812 – 1852 : Theo thừa sai E.Wallays, Bề trên Chủng viện từ 1885-1916, ước tính rằng trong thời gian 1812 – 1852, có 296 chủng sinh, trong đó, có 126 người đã được phong chức linh mục, tỷ lệ 40%.
-
Thời kỳ 1860 – 1960 : Số chủng sinh là 1379 người, trong đó, 751 người đã trở thành linh mục, chiếm tỷ lệ 55%. Con số chủng sinh và linh mục thuộc các nước cụ thể như sau (theo thống kê của Le Du trong một bài viết đăng trên tập san ECHO, tháng 4-1974) :
. Trung Hoa : 368 chủng sinh
220 linh mục
. Miến Điện : 335 chủng
sinh 166 linh mục
. Việt Nam : 309 chủng
sinh 146 linh mục
.Thái Lan : 136 chủng sinh
90 linh mục
. Malaisia : 132 chủng sinh
73 linh mục
. 8 nước khác : 99 chủng
sinh 53 linh mục.
-
Thời kỳ 1960 – 2000 : 350 chủng sinh, với 210 linh mục, tỷ lệ 60%
Như vậy, chỉ tính trong hai
thế kỷ (từ 1808 đến 2000), Chủng viện Penang đã cung
cấp cho 13 Giáo hội tại Châu Á hơn một ngàn linh mục.
Con số này có thể còn cao hơn vì nhiều chủng sinh trở
về quê hương của mình, được phong chức linh mục nhưng
không báo lại cho Chủng viện.
Cũng từ Chủng viện Miền
này, đã xuất thân một số giám mục. Vị linh mục đầu
tiên xuất thân từ Chủng viện tại Yuthia cũng là một
giám mục, đó là Francois Perez, chịu chức linh mục tháng
3-1668 và được bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông
tòa Đàng Trong (1691- 1728). Nhưng từ trường hợp đặc
biệt này, phải đến giữa thế kỷ XX, mới có các linh
mục Châu Á xuất thân từ Chủng viện Penang. Cụ thể,
từ năm 1950 đến 1995, có 24 vị, gồm 12 vị của
Malaisia, 8 vị của Myanmar (Miến Điện), 2 vị của Thái
Lan và 2 vị của Việt Nam, đều thuộc Giáo phận Vinh, đó
là các Đức Cha Trần Hữu Đức và Nguyễn Đình Nhiên.
-
Chủng viện của các chứng nhân đức tin :
Ngoài niềm tự hào về việc
đóng góp một số nhân sự đáng kể cho các Giáo hội
tại Châu Á, Chủng viện Penang còn được vinh dự hơn
nữa khi được mệnh danh là Chủng viện của các Thánh
Tử đạo (Séminaire des Martyrs).
Quả vậy, đã có hai thừa
sai Pháp từng giảng dạy ở đây và 5 linh mục Việt Nam
xuất thân từ chủng viện này là các chứng nhân đức
tin và đã được tôn phong hiển thánh.
-
Hai vị Tử đạo tại Đại Hàn là :
. Laurent Imbert : sinh ngày
23-3-1796 tại Marignane, gia nhập chủng viện thừa sai Paris
năm 1818, chịu chức linh mục ngày 18-11-1819 và lên đường
truyền giáo tháng 3-1820, ghé qua Penang và dạy ở chủng
viện năm 1821. Tháng 2-1822, đến Macao và năm 1825 mới tới
được nhiệm sở Se-tchoan, Trung Hoa, hoạt động ở đó
12 năm. Năm 1836, ngài được bổ nhiệm Giám mục Đại
diện Tông tòa Đại Hàn, được phong chức ngày 13-5-1837
nhưng hơn một năm sau mới tới được nhiệm sở. Từ
20-12-1838 đến 30-1-1839, ngài đi thăm giáo hữu quanh vùng
Seoul. Ngài bị tố giác và bị bắt và chịu tử đạo
ngày 21-9-1839 tại Sai-nam-the. Ngài được tôn phong Chân
phước ngày 5-7-1925 và tôn phong hiển thánh ngày 6-5-1984.
. Jacques Chastan, sinh ngày
7-10-1803 tại Marcoux, chịu chức linh mục ngay23-12-1826 và
sau đó, xin gia nhập Hội Thừa sai Paris và lên đường
truyền giáo năm 1827. Khi đến Macao, ngài được chỉ định
về Chủng viện Penang và dạy học ở đây cho tới năm
1830. Sau đó, ngài tình nguyện đi Đại Hàn. Sau nhiều lần
thất bại, cuối cùng ngài cũng đến được Seoul ngày
15-1-1837. Sang năm 1838, ngài xuống hoạt động ở miền
Nam Đại Hàn. Năm 1839, các cuộc bách hại bùng phát, ngài
tự nộp mình cho quan quân để tránh cho giáo dân khỏi bị
bức hại. Ngài bị đưa về Seoul, giam chung với Giám mục
Laurent Imbert, chịu tử đạo cùng ngày, cùng nơi với giám
mục Imbert và cũng được tôn phong Chân phước và Hiển
thánh cùng ngày với Giám mục Imbert.
-
Năm vị Tử đạo Việt Nam là :
. Philipphê Phan Văn Minh :
sinh khoảng năm 1826 tại họ Búng (nay thuộc Giáo phận
Phú Cường), bị bắt ngày 26-2-1853 và bị trảm quyết
ngày 3-7-1853. Được phong Chân phước ngày 27-5-1900.
. Phaolô Lê Văn Lộc, sinh
khoảng năm 1831 tại An Nhơn (Quận Gò Vấp, Sài Gòn),bị
bắt ngày 21-12-1858 và bị trảm quyết ngày 13-2-1859. Được
phong Chân phước ngày 2-5-1909
. Phêrô Đoàn Công Quý,
sinh khoảng năm 1826 tại họ Búng, bị bắt ngày 7-1-1859
và bị trảm quyết ngày 31-7-1859. Được phong Chân phước
ngày 2-5-1909.
. Phêrô Nguyễn Văn Lựu,
sinh khoảng năm 1821 tại Gò Vấp, Sài Gòn, bị bắt tháng
4-1859 và bị trảm quyết ngày 7-4-1861. Được phong Chân
phước ngày 2-5-1909.
.Gioan Đoàn Trinh Hoan, sinh
năm 1789 tại Kim Long, Giáo phận Huế, bị bắt ngày
3-1-1861 và bị trảm quyết ngày 26-5-1861. Được phong Chân
phước ngày 2-5-1909
Tất cả năm linh mục tử
đạo này đều được tôn phong Hiển Thánh ngày 19-6-1988.
-
Ngoài ra, còn có 44 người Việt Nam từng tu học tại Penang đã trở thành những chứng nhân đức tin, trong số đó, có 24 linh mục, 8 đại chủng sinh (Phó tế, phụ phó tế và các chức nhỏ), 8 thầy giảng và 4 giáo dân.
Ngày nay, trong khuôn viên
Chủng viện Penang, có hai tượng đài tôn vinh các Thánh
nhân Tử đạo trên đây, cạnh đó là tấm bia đá khắc
ghi tên 44 chứng nhân đức tin. Thầy Leo Elias, người
hướng dẫn chúng tôi tham quan Chủng viện nói rằng các
thánh nhân này là niềm tự hào và gương mẫu của tất
cả các chủng sinh ở đây. Khi dẫn chúng tôi lên những
bậc cấp để vào nhà nguyện, thầy còn khoe rằng Thánh
Philipphê Minh từng bước đi trên các bậc cấp này. Sự
ngưỡng mộ với Thánh Minh còn được thể hiện qua một
chuyến đi của các chủng sinh Penang đến tận quê hương
Cái Mơn của ngài vào năm 2012.
-
Chủng viện Penang với Công giáo Việt Nam
Không kể thời gian đầu ở
Thái Lan, nơi Chủng viện Miền từng phong chức cho các
linh mục Việt Nam đầu tiên (1668) và sau đó, đón nhận
nhiều chủng sinh Đàng Trong và Đàng Ngoài sang tu học và
ngoài con số 309 chủng sinh Việt Nam (của 5 giáo phận :
Tây Đàng Trong, Đông Đàng Trong, Bắc Đàng Trong, Nam Đàng
Ngoài và Đàng Ngoài Duyên hải (Phát Diệm) đã được
gửi sang Penang trong một trăm năm, từ 1860 đến 1960,
trong đó có 146 người đã được phong chức linh mục,
chỉ tính riêng trong những thập niên bách hại khốc liệt
dưới thời các vua Minh Mạng, Tự Đức và Thiệu Trị,
đã có thêm hằng trăm chủng sinh Việt Nam đã được gửi
sang Penang. Tuy tỷ lệ đạt đến chức linh mục không
cao, chỉ khoảng 30%, nhưng có thể nói rằng Chủng viện
này đã cung cấp một phần nhân sự khá quan trọng cho
các giáo phận đang bị thử thách nghiêm trọng, nhất là
các giáo phận ở Đàng Trong, khi đó gồm Đông Đàng
Trong (Qui Nhon), Bắc Đàng Trong (Huế) và Tây Đàng Trong
(Sài Gòn).
Ngay sau sắc chỉ cấm đạo
năm 1833 của Minh Mạng, chủng viện Lái Thiêu bị đóng
cửa, Đức Cha Taberd phải chạy trốn sang Thái Lan qua ngả
Campuchia, đem theo khoảng 20 chủng sinh. Ngày 21-8-1834, ngài
đến Penang cùng với 10 chủng sinh. Ngày 29-3-1835, một
nhóm gồm 9 chủng sinh khác đến Penang. Sau khi được cử
làm Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong, Đức cha Cuénot
trở thành người cung cấp chủng sinh nhiều nhất cho
Chủng viện Penang. Nhóm đầu tiên (không rõ số lượng)
được ngài gửi đi ngày 2-1-1836, kèm theo một lá thư hứa
rằng sẽ gửi tiếp 8 hay 10 người nữa. Tháng 10-1839,
thêm 14 chủng sinh Đông Đàng Trong được gửi sang Penang,
hai năm sau đó, 23 người được gửi đi. Đức Cha Cuénot
tiếp tục gửi các chủng sinh sang Penang: 18 người năm
1844, 14 người năm 1846, 16 người năm 1847 và 13 người
năm 1848. Trong năm 1848 này, có tất cả 128 chủng sinh
người Việt tại Penang thì có đến 78 người của Đông
Đàng Trong, 44 người của Tây Đàng Trong và 6 người của
Nam Đàng Ngoài (Vinh).
Hiện nay, Chủng viện Penang
còn lưu giữ được bảng danh sách học viên từ năm 1840
đến năm 1960 (Alumni Collegii Generalis de Penang). Theo danh
sách này, chúng tôi đã thống kê được số chủng sinh
(CS) của các giáo phận Việt Nam được tu học tại
Penang từ năm 1840 đến năm 1859 và số linh mục (LM) xuất
thân từ đó như sau :
. Bắc Đàng Trong: 48 cs
31 lm
. Đông Đàng Trong: 135
cs 32 lm
. Tây Đàng Trong: 87
cs 19 lm
. Nam Đàng Ngoài: 33 cs 10
lm
Cộng
303 cs 92 lm
Như
vậy, chỉ tính riêng từ năm 1840 đến năm 1960, bốn giáo
phận của Việt Nam nêu trên đây đã gửi sang Penang 612
chủng sinh và nhận lại 238 linh mục. Số chủng sinh không
làm linh mục phần lớn đã trở thành các giáo lý viên,
một số khác đã được phong các chức nhỏ, đã bị bắt
và chết vì đạo, như 8 đại chủng sinh trong danh sách 44
chứng nhân nêu trên.
Nhận định về vai trò của
Chủng viện Penang, Đức Cha Cuenot (sau này là thánh nhân
Tử đạo) năm 1841 khi gửi các chủng sinh sang đây tu học,
đã viết cho Ban Giám đốc nơi đây rằng “ sự phong phú
của giáo phận chúng tôi tùy thuộc nơi quý vị”. Cũng
vị Đại diện Tông tòa này viết năm 1853: “Tôi cảm
thấy có bổn phận, do công bằng, bày tỏ với quý vị
và tất cả các linh mục tại Penang sự hài lòng và biết
ơn về cách thức mà quý vị giáo dục những người trẻ
chúng tôi gửi qua…”. Năm 1879, ĐDTT Đông Đàng Trong
là Louis Galibert cho
Ban Giám dốc Chủng viện Penang biết “ Tất cả các linh
mục của giáo phận chúng tôi, trừ 4 người, đều xuất
thân từ chỗ quý vị và chỉ trong vài năm nữa, tất cả
các linh mục của chúng tôi đều từ Penang ra”. Năm
1884, khi giáo phận của mình đang bị bách hại, Đức Cha
Marie Antoine Caspar, Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Trong,
gửi chủng sinh sang Penang với lời thư “ Chủng viện
Penang thấy lại các gia đình trong cơn hoạn nạn. Chủng
viện như một mẹ hiền đầy yêu thương, như một nơi
trú ẩn sẵn sàng cho những ai cần đến”.
Nhưng Chủng viện Penang
không chỉ đào tạo nhân sự cho các hoạt động truyền
giáo vì nơi đây còn là chỗ xuất thân của một số nhà
văn hóa Công giáo, trong đó, nổi bật nhất là Paulus
Huỳnh Tịnh Của và Petrus Trương Vĩnh Ký. Trong bảng danh
sách chủng sinh nói trên , chúng tôi thấy tên của Paulus
Của ở số thứ tự 161, đến Penang học từ năm 1847 đến
năm 1854; còn Petrus Ký mang số thứ tự 261, đến Penang
lúc 16 tuổi và học ở đó từ năm 1852 đến năm 1858.
Ông Paulus Huỳnh Tịnh Của
sinh năm 1834 tại Đất Dỏ, Bà Rịa. Sau khi tu học ở
Penang trở về, năm 1861 ông được bổ nhiệm làm Đốc
phủ sứ, làm Giám đốc Ty Phiên dịch văn án ở Soái phủ
Sài Gòn. Năm 1865, ông thay Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ
Gia Định báo một thời gian. Ông có 17 tác phẩm, trong
đó, đáng kể nhất là bộ Đại Nam Quốc âm tự vị.
Đây là cuốn tự vị đầu tiên của Việt Nam, do người
Việt biên soạn, gồm hai tập : Tập I, từ vần A đến
hết vần L, in năm 1895, tập II từ vần M đến hết vần
X, in năm 1896. Với các công trình này, ông Paulus Huỳnh
Tịnh Của là một nhà văn hóa, một nhà ngôn ngữ học
có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển và
truyền bá chữ quốc ngữ. Ông mất năm 1907. Bộ Đại
Nam Quốc âm tự vị đã được Nhà xuất bản Trẻ in lại
năm 1998.
Ông Petrus Trương Vĩnh Ký
sinh ngày 6-12-1837 tại Cái Mơn, huyện Tân Minh, Vĩnh Long
(nay thuộc huyện Chợ Lách, Bến Tre). Ông từng học ở
chủng viện Cái Nhum và khi chủng viện này đời sang
Pinalu , Campuchia, đầu năm 1851, ông cũng đi theo và năm
sau, ông được gửi sang Chủng viện Penang. Năm 1860, ông
làm thông ngôn cho Pháp, sau đó dạy học ở trường Thông
ngôn. Năm 1863, ông theo sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp để
xin chuộc lại ba tỉnh miền Tây. Trong cuộc đời kéo dài
cho tới khi mất ngày 1-9-1898, Trương Vĩnh Ký đã để lại
một gia tài văn hóa đồ sộ, với hàng trăm tác phẩm về
đủ chủng loại, từ khoa học, ngôn ngữ, địa lý, lịch
sử, văn học. Ngoài ra, ông từng là chủ bút tờ Gia Định
báo và viết trên nhiều tờ báo khác. Người Pháp xếp
ông vào hàng “thế giới thập bát văn hào”, con học
giả Nguyễn Văn Tố đánh giá ông là người “không
những Hán học uyên thâm, Pháp học uyên bác, ông lại
còn tinh thông các thứ chữ ở Viễn Đông như chữ Cao
Miên, chữ Xiêm, chữ Lào, chữ Ấn Độ: thật là một
nhà bác ngữ uẩn súc, nước ta chưa từng có bao giờ”.
Nhiều sách vở đã viết về Trương Vĩnh Ký, nhiều hội
thảo đã được tổ chức để đánh gia thân thế và sự
nghiệp của ông và Nguyệt san Công giáo và Dân tộc cũng
đã dành một số chuyên đề về nhân vật này, số 48,
tháng 12-1998, nhân giỗ 100 năm của ông.
Một danh nhân công giáo khác
có thể liên quan đến Chủng viện Penang là ông Nguyễn
Trường Tộ. Theo Linh mục Trương Bá Cần, trong tác phẩm
“ Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo” (NXB Tp.
Hồ Chí Minh, 2002) thì giữa thế kỷ XIX, “các giáo sĩ
người nước ngoài ở Việt Nam thường dùng thuyền buồm
để đi lại hoặc cho người qua lại Hongkong, Singapore, Mã
Lai (chủ yếu là Poulo Pinang, nơi có chủng viện miền
Đông Nam Á). Do đó, việc Nguyễn Trường Tộ được các
giáo sĩ người Pháp, đặc biệt là Giám mục Gauthier (về
Xã Đoài nhận nhiệm vụ từ năm 1846), tạo điều kiện
cho qua Hongkong, Singapore, Poulo Pinang… là điều có thể
có” (sđd, trang 22). Tuy không thấy tên Nguyễn Trường Tộ
trong danh sách nêu trên, chúng tôi đưa lại như một tồn
nghi.
-
Từ Chủng viện Miền đến Chủng viện giáo phận:
Trong hơn ba trăm năm tồn
tại, Chủng viện này mang nhiều tên gọi. Về mặt đạo,
tên gọi ban đầu là Chủng viện Thánh Giuse, sau được
đổi thành Chủng viện Các Thiên Thần và sau năm 1988,
khi 7 chứng nhân đức tin từng dạy và học ở Chủng
viên được tôn phong Hiển thánh Tử đạo, Chủng viện
được mang danh là Chủng viện Các Thánh Tử đạo. Nhưng
mặt khác, Chủng viện này còn được gọi bằng các danh
xưng bình dân khác như Chủng viện Đàng Trong (thời kỳ
đầu ở Thái Lan, khi đa phần chủng sinh là người Đàng
Trong), Chủng viện Constantin (gọi theo tên Constance Faulkon,
người tài trợ cho chủng viện khi dời về Mahapram) hay
Chủng viện Trung Hoa (thời kỳ đầu ở Penang khi toàn bộ
chủng sinh là người Hoa). Nhưng mang bất cứ tên gọi
nào, bản chất của chủng viện này vẫn là Chủng viện
Miền, dành cho toàn vùng truyền giáo Châu Á do Hội Thừa
sai Hải ngoại Paris đảm trách.
Từ đầu, chủng viện này
nhận cả tiểu chủng sinh. Đến năm 1874, Hội thừa sai
Paris đề nghị chuyển thành Đại chủng viện nhưng mãi
đến năm 1920, điều này mới bắt đầu thực hiện và
đến năm 1926, hoàn toàn chỉ có các đại chủng sinh.
Tháng 1-1942, Nhật chiếm
Penang, Chủng viện phải tản cư lên địa sở mang tên
Mariophile, cạnh làngTanjong – Tokong, cách Chủng viện
chính 3 cây. Đây vốn là nơi nghỉ ngơi, tỉnh dưỡng
,tĩnh tâm và ôn học dành cho các Chủng sinh, được mua
từ năm 1848. Tháng 2-1945, Nhật chiếm luôn chỗ này vì có
địa thế cao, nhìn thẳng ra biển. Vết tích chòn lại
của vụ chiếm đóng này là một súng đại bác đã rỉ
sét, nằm trước sân, nòng hướng ra biển. Toàn thể
chủng sinh lại phải di tản về ngôi nhà ban đầu tại
Pulau Tikus. Cuối những năm 1930, số Chủng sinh là 130,
trong thế chiến, có lúc chỉ con 6 người. Đến tháng
8-1945, khi hết chiến tranh, tất cả lại tề tựu về
Chủng viện Miền (cơ sở chính). Con số tăng trở lại:
Năm 1950 là 80 người, năm 1970 là 110 người. Đây cũng là
thời điểm cuối cùng CV nằm dưới sự lãnh đạo của
các thừa sai người Pháp. Tháng 7-1971, vị Bề trên người
bản địa đầu tiên là Lm Achilles Choong. Ban giảng huấn
cũng từ từ được thay thế bằng các giáo sư người
Châu Á. Năm 1984, Chủng viện quyết định bán cơ sở
chính ở trung tâm thành phố vì không đủ tiền sửa
chữa. Nơi này biến thành Tổ hợp thương mại Gurney
Plaza. Số tiến bán cơ sở này đươc dành cho việc xây
ba chủng viện tại Malaisia, Singapore và Brunei. Công trình
nâng cấp và mở rộng Chủng viện tại Mariophile hoàn
thành cơ bản năm 1989 để đón nhận chủng sinh. Đợt
xây dựng thứ hai được hoàn thành năm 1994 và được
khánh thành ngày 4-10-1995, nhân kỷ niệm 330 năm thành lập
Chủng viện Miền. Cũng từ đây, Chủng viện Penang trở
thành Chủng viện của ba giáo phận của Malaisia (Kuala
Lampur. Penang, Mel-Joh), có nhận thêm một số tu sĩ các
Dòng.
Đây là một kết cục tất
yếu vì các Giáo hội địa phương đã trở nên các Giáo
hội độc lập và hầu như mỗi giáo phận đều có chủng
viện riêng. Hơn nữa, khi các cơ hội giao thương mở ra,
các chủng sinh được gửi tới đào tạo tại những
chủng viện truyền thống và chất lượng cao hơn, như
tại Roma, Paris…
Giữa tháng 12-2012, khi chúng
tôi tới Penang, chủng viện chỉ còn 13 đại chủng sinh.
Con số thật khiêm tốn, nhưng họ vẫn lạc quan. Tâm niệm
của Chủng viện Penang hiện nay là “Trân trọng quá khứ,
sống ngày hôm nay, hướng tới tương lai”.