Cristophoro Borri
Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn
Nghị dịch, chú thích
Xứ Đàng Trong năm 1621
LỜI GIỚI
THIỆU
Vào đầu thế kỷ
17, nghĩa là trước đây gần 400 năm, đã có một người Ý tới Đàng Trong. Trong gần
năm năm trời, ông đã xem xét và nhận định về đất nước và con người Việt Nam.
Rồi vào năm 1621-1622 ông đã viết một bản tường trình rất lạc quan, rất trìu
mến.
Không phải chỉ
mới trong mấy chục năm nay, người ta mới biết nước Việt Nam là một rừng vàng
biển bạc. Trong bản tường trình, tác giả đã nói tới đất đai phì nhiêu, tới rừng
vàng có nhiều cây quý như lim, như trầm hương, kì nam, hai thứ sau này được bán
ra nước ngoài. Người Nhật mua về làm gối, người Malaixia buôn về làm củi hỏa
thiêu theo tôn giáo của họ. Còn về biển thì biết bao thứ cá đủ loại, nhất là ở
một miền ven biển, có rất nhiều thứ chim người ta lấy tổ làm thức ăn rất quý,
và đó cũng là một món xuất khẩu rất được trọng, một món ăn của bậc đế vương.
Tác giả đã đề cập tới món ăn quốc hồn quốc tuý là nước mắm. Ông so sánh: người
Việt Nam dự trữ nước mắm trong nhà như thể người châu Au dự trữ rượu trong hầm
lạnh để dùng cho cả năm.
Đất đai Việt Nam
sinh sản ra thứ lúa mỗi năm ba mùa, đủ và dư cho người dân dùng. Người ta còn
trồng dâu chăn tằm và tơ lụa thì vô cùng dồi dào đến nỗi những người lao động
khuân đất làm đồng cũng mặc toàn đồ tơ lụa. Thứ này còn bán qua các nước lân
cận, sang cho tới Tây Tạng. Ông cũng không quên những cách sinh sống riêng của
chúng ta như tục uống trà, tục ăn trầu. Ông nói: người có một vườn cau thì
không khác ở Châu Au, người ta có được vài ba nương cây ô liu.
Về các gia súc và
dã thú ông kể khá nhiều, nhưng đặc biệt ông tả con tê giác và cách đi săn tê
giác. Ông rất có cảm tình với voi: chính ông đã tiếp xúc với quản tượng, chính
ông đã nhiều lần được cưỡi voi trong những quãng đường rừng, đường mé biển. Ông
cũng biết một con voi người ta gọi tên nó là Nhơn.
Về các cây ăn
trái, ông cũng khá tinh tường, đặc biệt ông thích thú được dùng trái sầu riêng
mà ông coi như một món ăn tráng miệng vào bậc sang nhất Châu Au. Ông nói tới
với một xác tín và yêu mến. Ông còn biết mấy món ăn khá đặc biệt, thí dụ ngoài
món ăn yến đế vương, còn có món tim gan tê giác, món tắc kỳ nướng trên than
hồng, những món mà ông chỉ nhìn chứ không dám động tới.
Về văn hóa phong
tục, tuy không đồng ý về nhiều điểm, ông nhận thấy có rất nhiều điều tích cực
có thể làm cho người Việt Nam dễ dàng tin theo Kitô giáo. Ông coi Khổng Tử như
một nhà hiền triết trứ danh Hy Lạp, Aristote. Cũng vậy, ông đề cập tới nhiều
giáo lý uyên thâm của Phật tổ và cũng coi Đức Phật như một Aristote bên phương
Đông. Tựu trung ông cho rằng người Việt Nam có hai tin tưởng căn bản này: tin
có một thượng đế thưởng phạt và tin linh hồn bất tử.
Về con người Việt
Nam, ông nhận thấy họ hiền lành, hiếu khách. Họ còn có lòng quảng đại: không
bao giờ họ từ chối người đã cất lời xin họ. Bao giờ họ cũng lịch thiệp và hòa
nhã.
Về học thuật,
người Việt Nam cũng có nhiều trường dạy học. Họ chuyên chú học sách thánh hiền.
Tuy họ không có trường đào luyện y khoa và dược khoa, nhưng họ có những lương y
rất thời danh, có những lá thuốc rất hiệu nghiệm. Chính ông đã có cơ hội nhờ
tay khéo léo các thầy thuốc Đông y chữa cho lành mạnh.
Về chính thể và
võ bị thì tác giả nói là người Việt Nam không như người Trung Hoa quá chuyên
chú về ngành văn, cũng không giống người Nhật hiếu võ: tuỳ trường hợp, tuỳ hoàn
cảnh mà chúng ta trọng lúc thì võ khi thì văn. Ông cũng nói về lực lượng của
chúa Đàng Trong lúc đó, sự việc một công chúa Việt Nam kết hôn cùng vua
Campuchia, và dĩ nhiên sự bang giao thân thiện giữa hai nước làng giềng, việc
gửi phái đoàn ngoại giao tới nước bạn.
Chúng tôi không
nói hết những thích thú khi đọc bản tường trình này, những thích thú mà từ gần
bốn thế kỷ nay, các độc giả đều cảm nhận, nhận thấy. Nhưng có vài ba nét đặc
biệt nơi tác giả làm cho chúng tôi rất yêu mến con người đó. Thứ nhất, ông nói
về tục đi chân không của người Việt Nam, và nếu có đi giày thì cũng chỉ là một
thứ dép có quai rất thô sơ. Vì không ai biết đóng giày như ở Châu Au nên ông
đành phải đi chân không trên đường cát sỏi cũng như bùn lầy. Thế rồi cũng quen
đi đến nỗi khi trở về Macao hay Châu Au ông thấy khó chịu phải đút chân vào ống
giày. Không còn là một thích thú, trái lại còn là một cái gì lòng thòng vướng
víu. Thứ hai, có nhiều người ngoại quốc tới Việt Nam và rất khổ sở vì thiếu
bánh mì. Đàng này ông cũng làm quen với cơm, cho tới khi trở về Châu Au, ông
thấy thiếu thốn và khổ sở vì thiếu cơm. Thứ ba, khi trở về Châu Au ông đã đem
theo một cây gọi là cây đại hoàng để làm giống, nhưng vì thay đổi khí hậu, nên
lúc về tới nơi thì nó đã biến chất và không thể cho ông thí nghiệm như lòng ông
mong mỏi.
Mấy điều trên đây
tỏ ra tính tình ông rất dễ thương và ông rất dễ chinh phục được lòng người.
Cũng phải nói là vì có chút vốn liếng khoa học, nhất là về thiên văn học, nên
ông đã nổi tiếng từ nơi nhà chúa Đàng Trong lúc đó cho tới các bậc cận thần, từ
chúa Sãi cho tới hoàng tử Kỳ, từ các nho gia cho tới các vị sãi.
Một việc nữa phải
nhắc qua ở đây là ông đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông
cũng hiểu biết đủ để giảng giáo lý Kitô. Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản
tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một
khởi đầu hình thành thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho khác với
De Rhodes sau này, đó là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ viết của người Ý,
chứ không phải người Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết gn chứ không nh như nho
(trái nho) ông viết là gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông viết là gno. Cũng vậy xin ông
viết scin, bởi vì theo tiếng ý nếu viết cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc
thì đọc cũng như x.
Về bản thân ông,
người ta được biết, ông sinh tại Milan (Ý) năm 1583, nhưng không rõ vào tháng
nào ngày nào. Trong cuốn tường trình, ông viết: Tôi tới xứ Đàng Trong vào chính
ngày tôi sinh ra ở trần gian này và suýt nữa là ngày tôi bỏ về trời. Nhưng là
ngày nào tháng nào thì ông không nói.
Vào Dòng Tên năm
1601, Ông qua An năm 1615 và tới Đàng Trong, cải trang làm bồi tàu năm 1618.
Ông ở đó cho tới năm 1622 thì về Macao.
Ở Bồ, ông giảng
dạy tại Đại học Coimbra về môn thiên văn và toán học. Ông lại sành về ngành
hàng hải và viết một cuốn sách về nghệ thuật đi biển bằng tiếng Bồ. Ông cũng
viết chưa xong cuốn “Chỉ dẫn hành trình đi An”. Nhưng cuốn sách làm sôi nổi dư
luận là cuốn: Luận về ba tầng trời: khí, hành tinh, thiên khung. Thế là ông bị
gọi về Roma. Ông bất mãn với Dòng Tên và xin ra khỏi Dòng năm 1632 để vào Dòng
Bernadins de Sainte Croix. Nhưng sau ba tháng, ông lại xin bỏ Dòng này để vào
Dòng Citeaux. Nhưng sau mấy tuần ông bị Dòng này trục xuất. Vì thế ông làm đơn
kiện. Kết quả là ông được kiện, nhưng khi ông đi đưa tin cho một giáo chủ bạn
thân của ông, thì ông bị nạn. Người ta đem ông về nhà và ông đã tắt thở khi
được đem lên giường ngày hôm sau. Đó là ngày 24 tháng 5 năm 1632 lúc ông không
thuộc Dòng Tên, cũng không thuộc Dòng nào, cũng không ở tu viện nào, mà lại ở
nhà một người thân.
Ông mất đi, nhưng
tác phẩm về Xứ Đàng Trong còn truyền tụng cho tới ngày nay và được độc giả
nhiệt liệt hoan nghênh. Viết bằng tiếng Ý và ấn hành năm 1631, cuốn này đã được
dịch sang tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh vào
những năm 1631-1633. Sau ba thế kỷ, ông Bonifacy năm 1931 dịch lại sang tiếng
Pháp và cho in ở tạp chí Đô thành Hiếu cổ Huế tháng 7-12 năm 1931.
Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và
Nguyễn Nghị
Chương 1: VỀ
QUỐC HIỆU, VỊ TRÍ VÀ DIỆN TÍCH CỦA XỨ NÀY
Xứ
Đàng Trong (Cochinchine) với quần đảo Hoàng Sa (Isles Pracel (Baixos de Chapar
de Pullo Scir)), trong bản đồ của Joachim Ottens, năm 1710
Xứ Đàng Trong[1]
được người Bồ gọi như vậy nhưng trong tiếng bản xứ là Annam[2]
có nghĩa là miền Tây. Đối với nước Tàu, xứ này thực sự nằm ở phía Tây. Nhưng
người Nhật gọi xứ này là Cochi[3],
trong tiếng bản xứ của họ, cũng có nghĩa là Annam trong tiếng Đàng Trong. Nhưng
người Bồ đã vào nước Annam để buôn bán, họ dùng tiếng Nhật Coci và tiếng Tàu
Cina mà làm thành tiếng thứ ba là Cocincina để chỉ xứ này, chủ ý phân biệt
Cocin cạnh Cina với tỉnh Cocin thuộc An Độ, do người Bồ chiếm đóng. Còn trong
các bản đồ thế giới thì xứ Đàng Trong thường được ghi là Cauchinchine hay
Cauchine hay tương tự, ấy chỉ là vì do ghi sai hoặc vì tác giả làm bản đồ muốn
cho người ta biết xứ này như là cửa vào và là khởi đầu của Trung Quốc.
Xứ này, về hướng
Nam, giáp vĩ tuyến 11[4],
về hướng Bắc, xế về Đông Bắc, giáp xứ Đàng Ngoài, về hướng Đông, có biển Đông
và về hướng Tây, xế về Tây Bắc, giáp nước Lào.
Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về ông cố của chúa đương thời[5] cai trị Đàng Trong, người đã chống lại chính vua nước Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cha Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô.
Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về ông cố của chúa đương thời[5] cai trị Đàng Trong, người đã chống lại chính vua nước Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cha Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô.
Xứ Đàng Trong
trải dài hơn một trăm dặm theo bờ biển, ở vĩ tuyến 11, cho tới khoảng vĩ tuyến
17[6],
chỗ bắt đầu quốc gia của chúa Đàng Ngoài. Bề rộng không lớn lắm, chỉ chừng hai
mươi dặm Ý, đất bằng, một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ Mọi
ở[7],
tên gọi này có nghĩa là man di. Mặc dầu họ là người Đàng Trong, nhưng họ không
nhìn nhận chúa cũng không thần phục ngài. Họ đóng đô và chiếm giữ miền núi rất
hiểm trở.
Xứ Đàng Trong
chia thành năm tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là
Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai là Cacciam[8],
nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia[9].
Thứ tư là Quingnim[10],
người Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là Renran[11].
Chương 2: VỀ
KHÍ HẬU VÀ ĐẶC TÍNH LÃNH THỔ ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở
trên, xứ này ở vào giữa vĩ tuyến 11 và 17, do đó, nóng chứ không lạnh. Tuy vậy
xứ này lại không nóng như An Độ, mặc dầu cũng vĩ tuyến như nhau và thuộc về
miền nhiệt đới như nhau. Lý do sự khác biệt này là ở An Độ không phân rõ bốn
mùa. Mùa hạ kéo dài tới chín tháng liên tục. Trong thời gian đó, không thấy có
một chút mây trên trời, ngày cũng như đêm, thành thử không khí luôn luôn bị
thiêu đốt bởi ánh nắng mặt trời. Ba tháng còn lại được kể là mùa đông, không
phải vì thiếu nóng, mà là vì mưa liên tục, thường là cả ngày lẫn đêm trong mùa
này. Nói theo kiểu bình thường thì mưa liên tục như thế hẳn phải làm không khí
mát dịu. Tuy nhiên, vì mưa vào tháng năm, tháng sáu, tháng bảy, lúc mặt trời ở
điểm cao nhất, ở tột đỉnh của An Độ và lại không hề có ngọn gió nào khác ngoài
những ngọn gió thật nóng, nên không khí rất ngột ngạt, làm cho nhiệt độ khó
chịu hơn là vào chính giữa mùa hạ vì lúc này thường có gió nhẹ thổi từ biển vào
đem khí mát cho nội địa. Nếu không có sự an bài đặc biệt, thì không sao ở được
trong những xứ sở này.
Ở Đàng Trong thì
không thế bởi vì có đủ bốn mùa trong năm, tuy không rõ ràng như ở Châu Au vốn
có khí hậu ôn hòa hơn. Mùa hạ gồm ba tháng sáu, bảy, và tám, cũng rất nóng vì ở
vào miền nhiệt đới và mặt trời trong những tháng đó cũng ở điểm cao nhất trên
đầu chúng ta. Nhưng vào tháng chín, mười và mười một thuộc mùa thu thì hết nóng
và khí hậu dịu bởi có mưa liên tục, nhất là ở miền núi Kẻ Mọi. Do đó nước lũ làm
ngập khắp xứ, đổ ra biển, như thể đất liền và biển chỉ còn là một. Cứ mười lăm
hôm lại xảy ra một trận lụt và mỗi lần kéo dài ba ngày. Ích lợi của nước lũ là
không những nó làm cho không khí mát mẻ, mà còn đem phù sa làm cho đất phì
nhiêu và dồi dào về mọi sự, nhất là về lúa là thức ăn tốt nhất trời ban và là
lương thực chung cho khắp xứ. Còn vào ba tháng mùa đông – tháng chạp, tháng
giêng và tháng hai thì có gió bắc thổi, đem mưa đủ lạnh để phân biệt mùa đông
với các mùa khác trong năm. Sau cùng vào các tháng ba, tư và năm, hiện rõ các
hiệu quả của một mùa xuân thú vị, tất cả đều xanh tươi và nở hoa.
Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này.
Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này.
Trước hết mọi
người ở đây đều mong nước lũ, không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để
cho đồng ruộng được mầu mỡ. Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui
mừng và thích thú: họ thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, ôm nhau hò hét vui vẻ và
nhắc đi nhắc lại “đã đến lụt, đã đến lụt”[12]
có nghĩa là nước đã tới, nước đã tới rồi. Nói tóm lại là không ai là không bày
tỏ niềm vui, từ kẻ thế gia đến chúa cũng vậy.
Nhưng thường thì
nước lũ tới bất thần, không ai ngờ, ban chiều chưa ai nghĩ tới, nhưng sáng ra
nước đã kéo vào tư bề, và người ta bị nhốt trong nhà, tình trạng này diễn ra
khắp xứ. Do đọ họ thường mất hết gia súc vì không kịp đưa chúng chạy lên núi
hay những nơi cao hơn.
Vào trường hợp
này, có một luật kì lạ ở xứ này là bò, dê, lợn và các vật khác bị chết đuối thì
không còn thuộc về chủ, nhưng đương nhiên thuộc về người thứ nhất vớt được. Đây
cũng là một điều làm cho người ta vui thích một cách lạ lùng: vừa có lụt, mọi
người đều nhảy xuống thuyền bơi đi tìm vớt gia súc chết đuối, để rồi làm thịt
và dọn cỗ linh đình.
Còn trẻ con thì
tuỳ theo tuổi, chúng để mắt và vui thú rình trên cánh đồng lúa mênh mông đầy
rẫy chuột lớn, chuột bé, vì hang ngập nước nên chúng phải ngoi ra, bò lên cây
để thoát, thành thử thật là rất vui mắt khi được nhìn thấy những cảnh cây nặng
trĩu những chuột thay vì lá hay quả. Từng đám trẻ con trên các chiếc thuyền nhỏ
của chúng tới rung cây làm các con vật này rớt xuống nước và chết đuối. Trò đùa
nghịch và giải trí của trẻ con, nhưng thực ra có ích lợi lớn cho đồng ruộng vì
thoát được những con vật gây thiệt hại nặng cho những cánh đồng rộng lớn.
Cái lợi cuối
cùng, không phải là nhỏ, đó là người ta đều có thể sắm sửa cho đủ mọi thứ cần
dùng. Vì trong ba ngày này, nước lụt làm cho người ta có thể đi lại khắp nơi
bằng thuyền một cách rất dễ dàng đến độ không có gì mà không chuyển được từ nơi
này qua nơi khác. Do đó, người ta dành thời gian này để họp chợ, những phiên
chợ có tiếng nhất trong xứ, số người đến họp chợ trong dịp này đông hơn bất kỳ
buổi họp chợ nào khác trong năm. Cũng trong ba ngày này, người ta đi lấy cây để
thổi nấu và dựng nhà. Họ chất cây từ trên núi vào thuyền và dễ dàng bơi qua các
nẻo, các ngõ và tới tận nhà vốn được cất trên các hàng cột khá cao để cho nước
ra vào tự do. Ai cũng leo lên sàn cao nhất và phải khen họ vì không bao giờ lụt
bén tới bởi họ đã lấy kích thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực
nước cao thấp, do đó họ không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà
họ.
Chương 3: ĐẤT
ĐAI PHÌ NHIÊU
Người ta dễ dàng
nhận thấy là nước lụt đã làm cho đất đai ở xứ Đàng Trong phì nhiêu, như chúng
tôi vừa nói. Tuy nhiên, tôi thấy còn phải kể nhiều sự đặc biệt khác nữa.
Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu nên mỗi năm có ba vụ lúa[13], đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc.
Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu nên mỗi năm có ba vụ lúa[13], đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc.
Quanh năm có rất
nhiều và có đủ thứ trái cây như ở An Độ, vì xứ Đàng Trong có cùng khí hậu như ở
An. Nhưng đặc biệt là cam ở Đàng Trong trái lớn hơn ở Châu Au to và rất ngọt.
Vỏ rất dể bóc, mềm và ngon, cam có thể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm
như trái chanh[14] ở Ý. Ở đây người ta cũng
thấy một số trái khác người Bồ gọi là chuối, người khác gọi là vả An Độ. Theo ý
tôi thì không xác đáng vì ở An không có cây nào được gọi là vả, và cây ở Đàng
Trong không có gì giống cây vả của chúng ta, về thân cây cũng như về trái. Về
thân cây thì nó giống như cây chúng ta gọi là “lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ” tuy cao lớn
hơn, là rất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần hai lá cũng đủ để có thể che một
người từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả người. Do đó mà có người muốn gọi
cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy lá của nó để che giấu sự trần
truồng của mình[15]. Cây này trổ ngay trên
ngọn một buồng gồm hai mươi, ba mươi hay bốn mươi trái cột chặt với nhau, mỗi
trái về hình thù, bề dài và độ lớn, đều giống trái chanh thông thường ở Ý. Khi
trái chưa hoàn toàn chín thì vỏ xanh và sau đó trở nên vàng giống hệt như
chanh. Không cần dùng dao để bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ rất dễ dàng như bóc
đâu mới hái. Mùi thì rất thơm, ruột vàng và khá cứng chắc như một trái lê
bergam chín muồi của ta, dễ tan trong miệng. Do đó không thể nói là nó giống
cây vả của chúng ta được, trừ vị thơm ngon và dịu ngọt. Cũng còn một thứ trái
khác thuộc loại này, người ta sấy và ngâm rượu[16].
Hàng năm, sau khi
cây có trái, sẽ héo đi và một nhánh con trổ ở gốc để cho năm sau. Ở Ý chúng ta
gọi là cây vả An Độ, nhưng thực ra không có gì giống về cây cũng như về trái
chuối này. Bây giờ chúng tôi nói tới cây (chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng
không phải là cây người ta thấy ở những miền này).
Trái này có rất
nhiều ở hầu hết các tỉnh An Độ, nhưng ở Đàng Trong còn một thứ không thấy ở
Trung Quốc cũng như ở khắp An Độ. Trái nó to, như trái chanh lớn nhất ở Ý và to
đến nỗi chỉ căn một trái cũng đủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen
và tròn, người ta nhai lẫn với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt cho
dạ dày.
Ở Đàng Trong cũng
còn một loại trái cây nữa, tôi không thấy có ở An Độ, người ta gọi là cam[17].
Về hình thù và chất vỏ, nó giống như lựu của ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng
phải dùng thìa để múc và có vị thơm và có màu gần giống trái sơn trà chín.
Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta, nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta, nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
Họ không thiếu
dưa, nhưng không ngon bằng dưa của ta, nên phải ăn với đường hay mật. Dưa gang
hay dưa nước, như nhiều người gọi, rất to và rất tuyệt.
Có một trái gọi
là mít. Trái này cũng có ở An Độ, nhưng không ngon bằng trái ở Đàng Trong. Trái
mọc ở trên một cây cao như cây hồ đào và cây dẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn
nhiều. Trái to như trái bí ngô lớn ở Ý và chỉ cần một trái cũng đủ cho một
người vác. Bề ngoài nó có hình thù của một nón thông, nhưng ruột thì dịu và
mềm. Bên trong thì đầy những múi vàng có hột dẹp và tròn như đồng tiền ở Ý hay
đồng “teston” (ở Pháp). Ở giữa mỗi múi có hạt[18]
người ta bỏ đi không ăn. Có hai loại[19],
một loại người Bồ gọi là “giaca barca”, dóc hột, ruột cứng. Loại thứ hai không
dóc hột và ruột không cứng bằng, rất mềm và nát như keo. Mùi vị của cả hai loại
này rất ngon gọi là sầu riêng chúng tôi sẽ nói sau đây.
Trái “durion”
(sầu riêng) là một trong những trái ngon nhất hoàn cầu, không thấy có ở đâu trừ
ở Malacca, Bornéô và mấy đảo xung quanh. Không có gì để nói giữa cây này và cây
mít. Bên ngoài, trái này cũng giống trái mít và trái thông của ta, cả về kích
thước cũng như độ cứng của vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất trắng, còn
mùi vị thì giống như món đông hạnh nhân của người Ý[20].
Thịt và nước ngọt của nó được chứa trong mười hay mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn
có nhiều múi thịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt dẻ lớn nhất của ta. Khi mở
ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành thối, nhưng ở trong thì không có mùi và
lại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra trước mắt tôi. Số là có
một người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới Malacca thưởng thức trái này và
không báo trước. Ông mở một trái ngay trước mặt vị giáo chủ. Mùi khá nặng và
khó chịu xông ra làm cho giáo chủ ghê sợ và nản không dùng được. Nhưng lúc ngồi
vào bàn tiệc, trong các món ăn có một món chỉ toàn là trái cây có mùi vị thơm
giống món đông hạnh nhân làm cho giáo chủ dễ lầm cũng như bất cứ ai chưa được
biết trước. Ông vừa đưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm thì thấy rất ngon làm
ông bỡ ngỡ và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông hạnh nhân ngon đến
thế. Chủ nhà mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào ngoài Thiên Chúa cao
cả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà lúc đầu ông đã ghê sợ. Nghe
tới đây vị giáo chủ sửng sốt và hết lời ca ngợi, ông dùng rất ngon miệng. Thế
nhưng trái này ngon đến độ ngay ở Malacca là nơi sản sinh, nhiều khi giá lên
tới một đồng “êcu” một trái.
Xứ Đàng Trong còn
có một loại trái khác người Bồ gọi là dứa. Và tôi biết trái này cũng rất thông
thường ở khắp An Độ và ở Brésil. Tuy nhiên, vì tôi thấy người ta tả không đúng
theo ý tôi lắm, nên tôi nghĩ là phải nói một chút. Trái này không trổ trên cây,
cũng không do hạt giống, nhưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và lá hoàn
toàn giống như cây các đông và atisô của ta. Trái hình tròn dài bằng chín ngón
tay[21]
và to như thể lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong thì dày như ruột cải củ,
nhưng vỏ thì cứng hơn và sờm như vây cá. Khi chín bên trong vàng và sau khi lấy
dao gọt vỏ thì ăn sống. Trái có vị chua dịu và khi chín thì thơm ngon như trái
lê “bergam”.
Ở xứ Đàng Trong
còn một trái khác đặc biệt của xứ này người Bồ gọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc
thẳng như cây dừa, rỗng ở trong và chỉ đâm lá ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở
giữa các tàu lá, nảy các ngành nhỏ có trái. Trái có hình thù và kích thước của
trái hồ đào[22], sắc xanh cũng như vỏ hồ
đào, còn ruột thì trắng và cứng như trái dẻ[23]
chẳng có mùi vị gì hết. Trái này không ăn một mình, nhưng ăn với lá trầu không,
thứ cây rất thông dụng ở khắp An Độ, lá như lá thường xuân[24]
ở Châu Au và thân bám vào cây chống như giống cây thường xuân. Người ta hái lá
cắt thành từng miếng nhỏ và trong mỗi miếng để một miếng cau, như vậy mỗi trái
có thể làm thành bốn hay năm miếng. Người ta còn thêm vôi với cau. Vôi ở xứ này
không làm bằng đá như ở Châu Au, nhưng bằng vỏ sò hến[25].
Vì trong nhà thường có những người chuyên lo việc bếp núc, chợ búa và các việc
khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều có một người không có việc gì khác hơn là
việc têm trầu, những người dùng vào việc này thường là đàn bà, nên gọi là các
bà têm trầu. Những miếng trầu đã têm sẵn thì để vào trong hộp và suốt ngày
người ta nhai trầu, không những khi ở trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ,
cả lúc nói, ở mọi nơi, mọi lúc. Và sau khi đã nhai trầu lâu và nghiền trong
miệng người ta không nuốt mà nhả ra, chỉ giữ hương vị và phẩm chất tăng thêm
sức mạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái này được têm thành miếng rất thông
dụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem theo một túi đầy trầu và mời người mình
tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng cho ngay vào miệng. Trước khi người khách
từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm trầu của nhà mình đem ra một túi để mời
người khách đến thăm mình, như để đáp lại sự lịch thiệp mình đã nhận được. Do
đó vì cần phải có sẵn coi trầu cau và có liên tục, nên cau cũng là một nguồn
lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì cũng như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng
ôliu. Họ cũng hút thuốc lá, nhưng thuốc lá không thông dụng bằng trầu cau. Cũng
có đầy đủ các loại mướp và có cả mía nữa. Các trái cây ở Châu Au thì cho tới
nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong. Tôi tin rằng nho và vả sẽ mọc được ở đây,
những thứ rau như rau diếp, rau diếp xoắn, sú và những thứ rau tương tự hiện có
ở Đàng Trong như ở khắp An Độ, nhưng chúng chỉ ra lá mà không có hạt và nếu
muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Au qua.
Thịt thà thì rất
nhiều ở đây vì có vô số súc vật bốn chân nuôi trong nhà như bò, dê, lợn, trâu
và các giống tương tự, và thú rừng như hươu nai to lớn hơn ở Châu Au, lợn rừng
và mấy loại khác. Gia cầm như gà nhà và gà rừng rất nhiều ở thôn quê, chim gáy,
chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu, thịt thơm ngon và sau cùng là mấy thứ khác ở Châu
Au không có.
Ngành ngư nghiệp
cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã
qua nhiều đại dương, đã đi nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể
so sánh được với xứ Đàng Trong. Và như tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển,
nên có rất nhiều thuyền đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ, từng
đoàn người chuyển cá từ biển tới tận miền núi, có thể nói trong một ngày hai
mươi bốn tiếng đồng hồ thì ít ra họ dùng tới hai mươi tiếng để làm việc này.
Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu
là vì họ rất ham thứ nước “sốt”[26]
gọi là balaciam[27] làm bằng cá ướp muối cho
mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt
(moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại
như tại nhiều nơi ở Châu Au, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một
mình thì không nuốt được nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì
vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm
là thức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất nhiều
balaciam (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải có một lượng lớn nước
mắm và cũng do đó phải liên tục đánh cá. Cũng không ít sò, hến và các hải sản
khác, nhất là một thứ họ gọi là cameron[28].
Nhưng ngoài tất
cả những gì đã nói, Thiên Chúa quan phòng còn dành cho họ một thức ăn hiếm và
ngon, theo thiển ý tôi, chỉ có thể so sánh được với manna[29]
Thiên Chúa dùng để nuôi dân riêng của Người trong sa mạc và thức ăn này rất đặc
biệt chỉ có ở xứ Đàng Trong chứ không đâu có. Những điều tôi sẽ nói thì không
phải bởi tôi đã nghe hay theo người khác kể lại, nhưng chính tôi có kinh
nghiệm, tôi đã thấy và thường được ăn. Ở xứ này có một thứ chim be bé giống như
chim én, nó làm tổ[30]
ở các cồn đá và hốc đá sóng biển vỗ vào. Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển
và với chất toát ra từ dạ dày, trộn cả hai thứ lại làm thành một thứ tôi không
biết là bùn hay nhựa để làm tổ. Tổ này khi đã khô cứng thì trong suốt và có sắc
vừa vàng vừa xanh. Dân xứ này nhặt những tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và
tan rã, rồi dùng làm đồ gia vị trộn với thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ
nào khác làm cho các món ăn có một hương vị khác nhau tuỳ món như thể đã sẵn
cho hồ tiêu, quế, đinh hương hay các thứ gia vị khác, như vậy chỉ một tổ yến mà
có thể làm gia vị cho hết các thứ thịt, không cần thêm muối, dầu, mỡ hay thứ gì
tương tự. Vì thế tôi nói, nó giống như manna, có hương vị của hầu hết các món
thơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do công trình của một con chim bé nhỏ và
một đàng là do tay các thiên thần của Thượng Đế nhào nặn. Thứ này nhiều đến nỗi
chính tôi đã thấy người ta chất đầy mười chiếc thuyền nhỏ những tổ yến nhặc ở
dọc các hốc núi đá, trong khoảng chưa đầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên
chỉ có chúa độc quyền sử dụng, người ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số
lớn cống vua Tàu là người rất chuộng.
Dân ở đây không
dùng sữa, họ cho là trọng tội nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang
tội, vì theo thiên nhiên thì sữa dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà
không được sử dụng thứ lương thực dành riêng cho con.
Họ còn ăn mấy thứ
chúng ta rất sợ và chúng ta coi như độc, thí dụ con tắc kè, con vật này nhỉnh
hơn những con đã phơi khô nhập cảng từ ngoại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã
thấy người bạn tôi mua mấy con, buộc lại thành bó và đem nướng trên than hồng.
Giây buộc đứt và chúng bò lê thê theo kiểu của chúng trên than hồng cho tới lúc
thấy sức nóng thì chúng chống đỡ một chút vì lúc này rất lạnh, nhưng cuối cùng
chúng bị thiêu và nướng chín. Thế là ông bạn tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da đã
cháy, thịt nó rất trắng, ông bạn tôi nghiền thịt ra và trộn với một thứ “nước
sốt” đem đun chín rồi bỏ bơ vào ăn như một thứ thịt rất thơm ngon. Ông mời tôi,
nhưng tôi không dùng, chỉ nhìn theo mà thôi.
Còn về tất cả
những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là
áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng
hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà
khuân vác đá, đất, vôi và những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho
áo đạp và quý họ mặc khỏi rách hay bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng
có những cây dâu cao lớn người ta hái lá để nuôi tằm được trồng trong những
thửa ruộng rộng lớn như cây gai ở bên ta, và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ
trong một ít tháng là tằm được đưa ra nuôi ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ,
làm thành những cái kén nhỏ với số lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi người
Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà còn bán cho Nhật Bản và gửi sang nước Lào
để rồi đưa sang Tây Tạng[31].
Thứ lụa này tuy không thanh và mịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu.
Nhà cửa và đền
đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ, nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không
nói quá chút nào, gỗ ở xứ này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những
người ở các nơi đó. Trong vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường
được dùng để làm nhà cửa và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước
hay vùi trong bùn, và rất chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt
nước và dùng làm neo tàu. Một thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun, loại
thứ hai có mầu đỏ hung. Cả hai sau khi được lóc vỏ thì nhẵn và trơn không cần
phải bào. Các cây đó gọi là Tin[32]
và rất có thể người đó không lầm khi nói rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là gỗ
chính vua Salomon đã dùng để dựng Đền thánh và chúng ta được biết qua Kinh
Thánh rằng thứ cây này được gọi bằng một cái tên rất gần với tên này, ligna
thying[33].
Núi xứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này, thẳng tắp và cao ngất nghểu, như thể
ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người ôm. Người Đàng Trong dùng gỗ này để
dựng nhà và ai nấy đều có thể lên núi chặt tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều
dựa vào hàng cột cao, chắc và đóng rất sâu, rồi lắp ván, nhưng người ta có thể
tháo gỡ ra và thay thế bằng phên liếp, bằng tre, sậy đan rất tài tình để thông
khí trong mùa nóng bức và một phần nào cho nước và thuyền qua lại tự do vào mùa
lụt lội như chúng tôi đã nói ở trên. Họ cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh và
nhiều hình hài khéo léo để tô điểm trang trí nhà của họ, họ chạm trổ và đẽo gọt
gỗ ván rất công phu.
Vì chúng tôi đang
nói về cây cối và trước khi qua đề tài khác, tôi xin thêm ít điều về một loại
gỗ vốn là món hàng quý nhất có thể xuất từ xứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó
là thứ gỗ nổi tiếng gọi là aquila và calamba[34];
cùng loại gỗ nhưng khác về tác dụng và sự quý chuộng người ta dành cho chúng.
Loại cây này có
rất nhiều, nhất là trên núi Kẻ Mọi, cây rất to và rất cao. Nếu gỗ cắt ở thân
cây non thì là trầm hương, có rất nhiều và ai muốn lấy bao nhiêu tuỳ thích.
Nhưng khi lấy ở gốc già thì đó là kỳ nam rất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên
cho những cây đó mọc lên ở những ngọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được
thảnh thơi già cỗi đi, không ai làm hại được mình. Thỉnh thoảng có ít cành gẫy
và rời khỏi thân rơi xuống, hoặc vì khô quá hoặc vì già cỗi quá khi người ta
nhặt được thì đã mục nát và mốc thếch. Nhưng đó lại là thứ có giá nhất và lừng
danh nhất gọi là kỳ nam vượt hẳn thứ trầm hương thông thường rất nhiều về tác
dụng và về hương thơm. Trầm hương thì ai cũng có thể bán tuỳ thích nhưng chúa
giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Thực ra
ở chính nơi nhặt được, nó rất thơm, rất dịu, tôi đã muốn thử mấy miếng người ta
cho tôi, tôiđem chôn dưới đất sâu chừng hơn năm chân[35]
thế mà vẫn ngửi thấy hương thơm. Kỳ nam nhặt tại chỗ thì giá năm đồng đuca[36]
một líu, nhưng ở hải cảng xứ Đàng Trong, nơi buôn bán thì đắt hơn, nghĩa là hai
trăm đuca một líu. Nếu tìm được một tấm lớn có thể làm gối để gối đầu, còn hay
làm gối dài[37] thì người Nhật mua tới ba
trăm hay bốn trăm đuca một líu. Là vì người ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên
dùng làm gối một thứ gì cứng hơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa
hay sinh bệnh. Thường thì họ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta
mong có được thứ gỗ quý nhất có thể sắm được[38].
Trầm hương thì ít được trọng hơn và giá cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu
chở đầy trầm hương cũng đủ cho thương gia trở nên giàu có và sung túc suốt đời.
Thế nên phần thưởng lớn nhất chúa ban cho thuyền trưởng Malacca, đó là cho phép
ông buôn trầm hương. Bởi vì người Bàlamôn và người Banian[39]
ở An Độ có tục hỏa thiêu xác người chết bằng gỗ rất thơm, nên họ cần có ngay
một số lượng lớn.
Sau cùng, xứ Đàng
Trong có rất nhiều mỏ kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng
vài lời những gì đáng được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi
kết thúc chương này bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ
quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là
rất dồi dào về mọi thứ.
Phải nói thêm ở
đây chút ít về các thú vật chúng tôi đã nói là có rất nhiều ở Đàng Trong, nhưng
để khỏi nói nhiều, tôi chỉ xin nói về voi và tê giác, nhất là ở xứ này và nhiều
chuyện kỳ lạ chưa bao giờ nghe thấy.
Chương 4: VOI
VÀ TÊ GIÁC
Rừng xứ Đàng
Trong có rất nhiều voi, nhưng người ta không sử dụng được vì chưa biết cách bắt
và luyện chúng. Vì thế phải đưa những con voi đã thuần phục và dạy dỗ từ nước
láng giềng Campuchia. Voi ở đây lớn gấp hai voi ở An Độ. Chân và vết chân nó để
lại đường kính đo được chừng nửa mét. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà voi thì
dài tới 4.7m, đó là voi đực. Ngà của voi cái thì ngắn hơn nhiều. Vì thế người
ta dễ nhận thấy voi ở xứ Đàng Trong to lớn hơn voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở
Châu Au tới mức nào: ngà của các con voi này chưa được 8 tấc.
Voi sống lâu năm.
Một lần tôi hỏi tuổi một con voi tôi gặp thì người quản tượng đạp là đã sáu
mươi tuổi ở Campuchia và bốn mươi ở Đàng Trong. Vì tôi đã di chuyển nhiều lần
trên lưng voi ở xứ Đàng Trong nên tôi có thể kể lại mấy câu chuyện kỳ lạ, nhưng
có thật. Voi thường chở tới mười ba hay mười bốn người, theo cách thức sau đây.
Cũng như chúng ta thắng yên trên lưng ngựa, người ta cũng đặt trên lưng voi một
bành lớn như cỗ kiệu trong đó có bốn chỗ ngồi và người ta buộc bằng chão sắt
luồn dưới bụng voi như yên và đai ngựa. Bành có cửa mở hai bên và có thể chứa
được sáu người, ngồi làm hai hàng, mỗi hàng ba người, một người ngồi ở đằng sau
với hai người nữa, và cuối cùng là người ngồi trên đầu voi để điều khiển và chỉ
huy gọi là quản tượng. Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng
đã có mấy lần tôi theo đường thuỷ, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn nửa
dặm. Thật là kỳ diệu đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng kiến một khối
thịt rất lớn, rất to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội trong nước như một chiếc
thuyền có chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực lắm, phần vì phải mang một khối
lớn, phần vì khó thở đến nỗi để cho bớt nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy
nước và tung lên rất cao làm cho người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong
lòng biển cả.
Cũng vì nó to lớn
như vậy nên rất khó cúi mình. Thế nhưng nó cần phải khom xuống để cho hành
khách tiện lên xuống. Nó không bao giờ khom nếu không có lệnh của quản tượng,
và nếu trong khi nó khom xuống mà có ai còn quá nhởn nhơ mất thời giờ, hoặc còn
chuyện vãn chào hỏi bè bạn hay làm việc nào khác, tức thì nó chồm chân đứng lên
vì không thể đợi được.
Như thế mới biết
nó rất khó chịu khi phải giữ tư thế đó lâu.
Không có gì phải
bỡ ngỡ khi thấy quản tượng ra lệnh và nó thu xếp làm cho mình nó thành một thứ
thang, có thể nói được như vậy, rất tiện cho người ta leo lên bành. Để làm bậc
thứ nhất, nó đưa chân khá cao đối với đất. Nó giơ cổ chân cũng khá xa để làm
bậc thứ hai, và để làm bậc thứ ba, nó gấp đầu gối lại. Bậc thứ bốn là cái xương
ở bên hông hơi dô ra một chút, rồi nó lấy vòi đỡ bạn và đưa bạn tới chiếc xích
buộc ở bành.
Ở đây mới thấy rõ
sự lầm lẫn của những người đã nói và còn để lại bút tích rằng voi không cúi
mình được, cũng không nằm được, thế nên muốn bắt nó chỉ có cách độc nhất là cưa
thân cây nó dùng để dựa mà ngủ, bởi vì khi thân cây đổ thì nó cũng ngã theo và
cứ năm như thế không sao trỗi dậy được, nên làm mồi ngon cho người săn. Tất cả
chỉ là chuyện huyền hoặc vì thực ra khi nó ngủ, nó không bao giờ nằm, tư thế đó
không tiện cho nó và gây khó nhọc như chúng tôi đã nói. Thế nên, nó luôn ngủ
đứng, đầu luôn luôn ngoe nguẩy.
Khi có chiến
tranh và trận mạc thì người ta nhấc mui bành đi để làm thành một thứ chòi chở
lính giao chiến với nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu
sức để chở vì là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một
con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng
lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc
kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển. Tôi cũng thấy những con
khác nhổ những cây to lớn mà không mấy vất vả như thể chúng ta nhổ su hào hay
rau diếp. Chúng cũng dễ dàng ném xuống đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy
phố khi được lệnh trong trận chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để
không cho ngọn lửa bén khi có hoả hoạn.
Vòi nó dài so với
bề cao của thân mình, nên không cần nghiêng hay cúi, nó dễ dàng lượm đồ vật
dưới đất tuỳ ý. Vòi này gồm nhiều bó gân kết lại và xoắn với nhau, một đàng làm
cho nó rất mềm dẻo và dễ xoay trở đưa ra khi cần để cầm những món đồ rất nhỏ,
và đàng khác làm cho nó cứng và khoẻ như chúng tôi đã nói. Toàn thân mình nó
bọc lớp da cứng và ráp, màu tro. Mỗi ngày nó thường đi được chừng mười hai dặm.
Đối với những người không quen thì sự vận chuyển của nó gây khó chịu cũng như
người chưa quen đi biển bị say sóng vì thuyền chòng chành.
Về sự dễ bảo của
voi thì tôi sẽ kể những việc kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để
cho biết là người nói câu này rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior:
trong các con vật khổng lồ, không con nào khôn bằng voi[40]
vì thấy nó thực hiện được những việc làm cho người ta tưởng nó có trí thông
minh và khôn ngoan. Trước hết, mặc dầu quản tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài
chừng bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh
truyền, thế nhưng thường thường họ điều khiển và chỉ huy bằng lời nói, đến nỗi
tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có mấy con biết tới ba hay bốn thứ tiếng rất
khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia trong đó nó đã sống. Thí dụ con voi đã đưa
tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì gốc nó ở đó, rồi tinh thông tiếng Đàng Trong
là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ khi thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn
dò về hành trình và đường đi lối bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và
sau cùng kể chi tiết tất cả các việc nó phải làm trong ngày.
Và voi làm phận
sự mình một cách chính xác như một người có lương tri và phán đoán có thể làm
được. Đến nỗi sau khi voi coi như đã biết nơi phải đi thì nó cứ thẳng tắp thi
hành bằng con đường ngắn nhất, không lần chần do sự tìm lối quá quen hay không
bỡ ngỡ vì gặp sông lớn, rừng già hay núi cao. Nó cho rằng nó dễ dàng vượt qua
hết, nó cứ lên đường và theo lộ trình, vượt hết mọi thứ khó khăn. Nếu gặp sông
phải qua thì nó hoặc bước sang chỗ cạn hoặc ngoi lội chỗ nước lớn. Nếu phải qua
rừng thì nó đè bẹp cành cây ngáng trở, dùng vòi nhổ cây dọn thành con đường
rộng và dễ đi, rừng rậm rạp đến đâu đi nữa cũng có lối đi nếu thấy voi đã qua
và đã mở đường. Tất cả những việc này voi làm theo lệnh của quản tượng, một
cách dễ dàng, nhanh chóng và mẫn cán. Chỉ có một bất tiện cho con vật này và
làm cho nó khổ sở, đó là khi có gai hay vật gì tương tự đâm vào bàn chân nó vốn
mềm và nhạy cảm một cách lạ lùng, mặc dầu nó rất cẩn thận bước từng bước, khi
qua nơi hiểm trở. Có lần trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp
theo nhau, tôi nghe thấy các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình phải
thận trọng khi đặt chân vì trong một quãng đường chừng nửa dặm chúng phải qua một
bãi cát trong đó thường có gai.
Nghe thế, các con
voi đều cúi đầu, mở to mắt như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất.
Chúng bước từng bước, rất chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới
khi nghe báo là không còn phải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục
hành trình như trước. Ngày hôm sau phải đỗ lại ở một nơi không có rừng cây nên
mỗi quản tượng đều đem một bó cây tươi và khá lớn cho voi. Tôi rất thích thú
nhìn xem một con dùng vòi với lấy cây một cách khéo hơn các con khác, rồi dùng
răng bóc vỏ và ăn rất nhanh, rất ngon như chúng ta ăn trái vả hay một trái nào
khác vậy. Ngày hôm sau, tôi ngồi trò chuyện với những hành khách khác, chừng
hai mươi người. Tôi cho họ hay về sự thích thú đặc biệt của tôi khi thấy con
voi ăn cành cây một cách ngon lành. Lúc ấy, quản tượng theo lệnh của người chủ
voi lớn tiếng gọi con voi với cái tên của nó là gnin và vì nó ở hơi xa nên nó
ngẩng đầu vểnh tai lắng nghe xem người ta muốn nói gì với nó.
Quản tượng bảo nó
rằng: mi làm vui lòng ông cha đi đường này đi, hôm qua ông đã thích thú nhìn mi
ăn, bây giờ mi cầm lấy một cây như cây hôm qua và tới trước mặt ông ta và làm
như mi đã làm. Quản tượng vừa nói dứt lời thì voi đã đến trước mặt tôi, vòi
quấn một thân cây, rồi nhìn tôi trong đám người khác, giơ cho tôi coi rồi bóc
vỏ và ăn, sau đó cúi đầu chào tôi và rút lui như thể mỉm cười, với những dấu
hiệu thích thú và mừng rỡ. Còn tôi, tôi rất ngạc nhiên thấy ở nơi một con thú
có nhiều khả năng hiểu biết và thi hành điều người ta truyền cho nó như vậy.
Thực ra nó chỉ vâng theo quản tượng hay chủ nó mà thôi. Nó cũng không để cho
người nào lạ leo lên cưỡi: nó mà thấy thì nó sẽ quăng bành xuống đất và dùng
vòi mà sát hại người ấy. Vì thế, khi có người phải leo lên thì quản tượng lấy
tai nó che mắt nó, tai nó to và xấu xí. Khi nó không chịu nghe lệnh truyền và
không nhanh nhảu làm theo thì quản tưởng đứng hai chân trên đầu nó, đánh và trị
nó rất nặng, rất cương quyết, lấy roi quất mạnh trên trán nó. Có lần mấy người
chúng tôi cùng đi chung một voi chở chúng tôi, người quản tượng đánh nó như
chúng tôi vừa nói, mỗi lần roi quất trên nó, chúng tôi tưởng như nó sẽ ném
chúng tôi xuống đất. Thường thường người ta quất sáu bảy cái vào giữa trán nó,
và mạnh đến nỗi làm voi rùng cả mình: phải nhận là nó rất kiên nhẫn chịu đựng.
Chỉ có một trường
hợp nó không vâng theo quản tượng và bất cứ ai, đó là khi nó bất thần động đực,
vì lúc đó hình như nó không tự kiềm chế nổi, nó không chịu ai, nó lấy vòi ném
bành và mọi người trong đó, nó giết, nó huỷ và phá vỡ tan tành. Thường thì quản
tượng biết trước qua một vài dấu hiệu. Lập tức, mọi người xuống đất, tháo gỡ
bành và để nó một mình ở một chỗ xa cho tới khi nó hết cơn. Sau đó, như thấy
mình đã gây nên xáo trộn và như tự lấy làm hổ thẹn, nó cúi đầu chịu đánh đập
như một kẻ phạm tội.
Thời xưa người ta
dùng voi rất có ích trong chinh chiến và đạo binh nào ra trận với những con vật
như vậy thì thật là đáng sợ. Nhưng từ khi người Bồ tìm được cách ném tàn lửa và
đuốc vào mũi chúng thì càng làm cho chúng gây hại hơn trước. Bởi vì chúng không
thể chịu được lửa đốt làm cay mắt nên chúng đùng đùng chạy trốn và làm tan tác
đạo binh, giết hại và phá phách tất cả những gì cản đường chúng. Voi nhà chỉ sợ
hai con thú khác là voi rừng và tê giác, nó có thể thắng được tê giác, nhưng đối
với voi rừng thì thường nó chịu thua.
Tê giác là một
thú vật có một cái gì giống bò và ngựa, nhưng lại to lớn như một con voi con.
Mình nó đầy vẩy[41] như những yếm để tự che
thân. Nó chỉ có một sừng ở ngay giữa trán, thẳng tắp và có hình kim tự tháp,
còn chân và móng thì như bò. Khi tôi ở Nước Mặn một xã thuộc tỉnh Quy Nhơn, có
biết một viên quan lần nọ đi săn tê giác ở trong khu rừng gần nhà chúng tôi.
Ông đem theo hơn một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa cùng với tám
hay mười con voi. Con tê giác ra khỏi khu rừng và một số đông địch thù, nó
không những không tỏ vẻ sợ hãi mà còn thu hết sức lực giận dữ xông tới, thế là
đạo binh phân tán làm hai cánh để cho con tê giác lọt vào giữa và chạy tới hậu
quân có viên quan đứng chờ để giết nó. Viên quan ngồi trên lưng voi, voi cố lấy
vòi chộp lấy tê giác, nhưng không sao làm nổi vì tê giác nhảy tứ tung, cố dùng
sứng để đâm voi. Viên quan biết rõ tê giác vì có vẩy nên không dễ gì bị thương
nếu chỉ đánh vào bên cạnh. Ông chờ đến lúc nó nhảy lên và phơi bụng ra, lúc đó
ông nhắm, và rất thiện nghệ, ông ném ngọn đao đâm suốt từ bụng tới lưng, giữa
tiếng hò hét vui mừng của cả đạo quân. Không chờ đợi gì nữa họ lập tức quơ một
đống củi lớn, châm lửa đốt, trong khi vẩy con thú bị thiêu và thịt nướng chín
thì họ nhảy múa chung quanh, mỗi người tiếp theo nhau xẻo thịt đang chín dần
dần và ăn vui vẻ. Sau đó họ mổ lấy tim, gan và óc để dọn món mĩ vị đem hầu viên
quan lúc này đã lui ra xa một chút, ở một nơi khá cao, vui mừng và thích thú
nhìn xem cuộc vui. Còn tôi, tôi có mặt trong cuộc, tôi cũng có phần và phần của
tôi là móng con vật viên quan cho tôi, móng đó cũng có những tác dụng và tính
chất như móng voi, dùng làm thuốc chống ngộ độc một cách tuyệt diệu không hơn
không kém sừng kỳ lân[42]
Chương 5: VỀ TÍNH TÌNH, PHONG HÓA, TỤC LỆ NGƯỜI ĐÀNG TRONG, CÁCH SỐNG, CÁCH ĂN
MẶC VÀ THUỐC MEN CỦA HỌ
Về màu da thì
người Đàng Trong không khác người Tàu, tất cả đều có sắc xám xanh[43],
nếu là người ở ven biển, còn những người khác từ nội địa cho tới biên giới Đàng
Ngoài thì cũng trắng như người Châu Au. Về nét mặt thì cũng giống, như người
Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói,
họ không quá lùn như người Nhật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân
hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật
là hơn họ về một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến
trận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất cứ giá nào. Người Đàng
Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân phương
Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm, nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận.
Tất cả các nước phương Đông đều cho người Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên
họ ghét mặt đến nỗi khi chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế
nhưng trái lại ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với
chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã
giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các
đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng tôi
như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu.
Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kitô đến
rao giảng Phúc âm.
Từ tính tình rất
trọng khách và cách ăn ở giản dị đó mà họ rất đoàn kết với nhau, rất hiểu biết
nhau, đối xử với nhau rất thành thật, rất trong sáng, như thể tất cả đều là anh
em với nhau, cùng ăn uống và cùng sống chung trong một nhà, mặc dầu trước đó
chưa bao giờ họ thấy nhau, biết nhau. Họ coi là một nết rất xấu, nếu ai ăn món
gì dù rất nhỏ mịn mà không chia sẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một miếng. Họ có
tính quảng đại, hay bố thí cho người nghèo, họ có thói quen không bao giờ từ
chối, không cho kẻ xin bố thí. Họ nghĩ là sẽ không làm đủ bổn phận nếu từ chối,
họ coi như bị ràng buộc bởi phép công bằng. Do đó có lần có mấy người ngoại
quốc bị đắm tàu và được cứu tại một cảng Đàng Trong. Họ không biết tiếng để xin
người ta cho thức ăn để sống, họ chỉ cần học một chữ thôi cũng đủ, đó là chữ
đói, có nghĩa là tôi đói. Bởi vì vừa nghe thấy người ngoại quốc than thở như
vậy và đi qua các cửa nhà người dân mà kêu đói, thì tất cả đều động lòng thương
và cho họ ăn, đến nỗi chỉ trong một thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều
thức ăn dự trữ, đến khi chúa cấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì
chẳng ai muốn đi vì họ quyến luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những người
rộng rãi cho họ các thứ để sống mà không phải làm việc. Cuối cùng người thuyền
trưởng buộc phải vác gậy đánh đập họ, thì họ mới chịu sửa soạn xuống tàu, đem
chất trong tàu thóc gạo họ đã xin được, khi họ đi gõ cửa các nhà và kêu đói.
Nếu người Đàng
Trong nhanh nhảu và rộng rãi hay cho, thì mặt khác họ lai hay xin những gì họ
thấy. Thế nên khi họ vừa đưa mắt nhìn thấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ
đem lòng thèm muốn và nói ngay xin một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ
coi là rất bất lịch sự nếu người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và chỉ có
một cái mà thôi. Ai từ chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do đó một là nên
giấu đi, hai là sẵn sàng cho người nào xin.
Một thương gia
người Bồ không ưa cách cư xử lạ lùng đó, bởi vì hễ họ trông thấy ông cầm đồ vật
gì đẹp trong tay là họ xin liền. Một hôm ông nhất quyết cũng làm thử như họ.
Ông tới gần thuyền của một người đánh cá nghèo và để tay trên một cái rổ lớn
đầy cá, ông nói bằng tiếng bản xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này. Chẳng
nói chẳng rằng, người thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông đem về. Người
Bồ đem về nhà, rất sửng sốt và khen ngợi lòng quảng đại của người Đàng Trong.
Thực ra vì thương người thuyền chài nghèo khổ, nên sau đó ông trả tiền rổ cá
theo giá của nó.
Những từ ngữ về
đối thoại, giao tiếp và lịch sự thì cũng giống như từ ngữ Trung Hoa. Người dưới
rất kính trọng người trên, cũng như kẻ bằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả
cách thức tỉ mỉ và những lời khen tế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt nơi
người Trung Hoa, nhất là họ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi tác, bao giờ
họ cũng nể người có tuổi hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế
nào, bao giờ họ cũng nhường ưu tiên cho người già hơn. Vì thế có một lần mấy
viên quan lớn tới thăm nhà chúng tôi, mặc dầu đã được người thông dịch cho họ
biết là có một cha có tuổi hơn cả, nhưng không phải là Bề trên, thế nhưng không
tài nào ngăn cản họ chào người có tuổi đó trước hết, sau mới chào Bề trên, là
người trẻ tuổi hơn. Trong tất cả các nhà cửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn
đến đâu đi nữa, người ta cũng giữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là
ngồi trên chiếu trải trên đất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp
bậc. Cách thứ hai là ngồi trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải
chiếu nhỏ và mịn hơn, dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba là trên một thứ
bục[44]
cao hơn đất chừng tám tấc làm thành như cái giường và chỉ dành cho các quan và
bậc chức vị bản địa hay những người lo việc thiêng liêng, như các cha dòng
chúng tôi thường được ngồi.
Vì người Đàng
Trong tử tế và có tính tình hòa nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để
cho mỗi người tự do sống theo đạo của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do
đó họ khen cách làm của người nước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài
và dễ dàng chuộng đạo giáo của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn
với người Tàu, họ chỉ khen ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ mà
thôi.
Còn về y phục thì
như chúng tôi đã nói, tơ lụa rất thông dụng ở xứ Đàng Trong đến nỗi ai cũng mặc
hàng tơ lụa. Bây giờ chỉ nói về cách họ mặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ[45],
phải nhận rằng cách mặc của họ tôi vẫn coi là giản dị hơn khắp cõi An Độ, vì họ
không để lộ một phần nào trong thân thể, ngay cả trong những mùa nóng bức nhất.
Họ mặc tới năm hay sáu váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia và tất cả có màu
sắc khác nhau. Cái thứ nhất phủ dài xuống chấm đất, họ kéo lê rất trịnh trọng,
khéo léo và uy nghiêm đến nỗi không trông thấy đầu ngón chân. Sau đó là cái thứ
hai ngắn hơn cái thứ nhất chừng bốn hay năm đốt ngón tay, rồi tới cái thứ ba
ngắn hơn cái thứ hai và cứ thế trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ ngắn hơn cái
kia, để cho các màu sắc đều được phô bày trong sự khác biệt của mỗi tấm. Đó là
thứ phái nữ mặc từ thắt lưng xuống bên dưới. Còn trên thân mình thì họ khoác
vắt chéo như bàn cờ với nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một tấm
voan rất mịn và rất mỏng cho người ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng
khác mùa xuân vui tươi và duyên dáng, nhưng cũng không kém trịnh trọng và giản
dị.
Họ để tóc xõa và
rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp.
Họ đội trên đầu một thứ mũ lớn riềm rộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông
xa hơn ba hay bốn bước trước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến
tuỳ theo gia thế của từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ làm gì
khác khi phải chào hỏi những người mình gặp, ngoài việc cất nón đủ để trông
thấy mặt.
Đàn ông[46]
thì không nai nịt, nhưng quàng cả một tấm, rồi cũng thêm năm hay sáu áo dài và
rộng. Tất cả đều bằng lụa màu sắc khác nhau với ông tay rộng và dài như ống tay
các tu sĩ Biển Đức. Còn từ thắt lưng trở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu
rất khéo và rất đẹp. Thế nên khi ra phố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu
có gió nhẹ thổi từ bên trong làm tung bay thì thực ra có thể nói là những con
công xoay tròn khoe màu sắc đẹp của mình.
Họ cũng để tóc
dài như đàn bà, cho xõa tóc tới gót chân và cũng đội nón. Người có râu thì
hiếm, họ không bao giờ cắt. Về điểm này, họ làm theo người Tàu. Họ còn để móng
tay dài: người quý phái không bao giờ cắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu
của sự quý phái, và để mình khác biệt với thường dân và thợ thuyền, những người
này không để dài được vì vướng tay trong khi hành nghề, tỉ như kị mã để móng
tay dài thì không sao nắm chặt dây cương trong lòng bàn tay. Họ không thể
thưởng thức cách cắt tóc ngắn và cắt móng tay của chúng ta, họ nại lý do là
thiên nhiên ban cho các thứ đó để trang trí bản thân con người. Có lần nói
chuyện về tóc, họ bác bẻ chúng ta và không dễ gì đáp lại được lúc đầu. Họ nói,
nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các ông khoe là các ông bắt chước hết mọi việc Người
làm, nhưng chính Người để tóc dài theo kiểu người Nagiarét, như chính các ông
quả quyết và cho chúng tôi coi hình ảnh, thì tại sao các ông không làm theo như
Người. Họ nói thêm để cho có thế lực hơn nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài,
như vậy là Người muốn cho chúng ta biết đó là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng hài
lòng khi chúng tôi trả lời là bắt chước không phải là làm theo một cách lố
lăng.
Các văn nhân và
tiến sĩ thì ăn mặc trịnh trọng hơn, không màu mè loè loẹt. Họ choàng lên trên
tất cả một áo dài đen. Họ còn khoác một thứ khăn quấn cổ và ở cổ tay một khăn
bằng lụa màu da trời, còn đầu thì thường đội một thứ mũ kiểu như mũ giám mục.
Cả đàn ông đàn bà đều ưa cầm quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy lệ
thôi. Người Châu Au chúng ta khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng màu trắng.
Khi họ chào nhau, không bao giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là không lịch sự,
cũng giống như người Tàu, họ cho đó là không phải phép đối với người thế gia và
rất vô lễ. Vì thế, để cho hợp với họ các cha dòng chúng tôi đã thấy cần phải
được đức giáo hoàng Phaolô V cho phép dâng thánh lễ đầu đội mũ trong những miền
đất này[47].
Sau cùng người
Đàng Trong không đi dép cũng không đi giầy, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng
da buộc mấy giây lụa và khuy trên mu bàn chân như kiểu săn đan của ta để cho
bàn chân không bị đâm: Họ cho rằng đi chân không không phải là không biết cách
ăn ở, họ đi dép hay đi chân không thì chân họ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm, nhưng
họ không ngại vì trước nhà họ bao giờ cũng có một chậu đầy nước để rửa chân.
Còn kẻ đi dép thì phải để dép ở ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì trong nhà không
cần, họ đã trải chiếu nên họ không sợ bẩn.[48]
Dân Đàng Trong
rất trọng những tục lệ của họ. Họ khinh những tục lệ của người ngoại quốc như
người Tàu. Các cha không cần thay đổi y phục, thực ra không khác cách ăn vận
chung ở khắp An Độ. Các ngài mặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon thường
làm màu thanh thiên và ra nơi công chúng như thế không thêm áo dái hay áo
choàng[49].
Cũng không đi giầy như tục người Châu Au hay người bản xứ: vì giầy Châu Au thì
làm gì có mà đi và cũng không ai biết làm[50],
còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho người chưa quen, nên
đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón nọ cách xa ngón kia,
do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài nhất là trong lúc đầu, vì
đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau một thời gian thì theo tính tự
nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không có thấy khó chịu, mặc dầu phải
đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen lắm đến nỗi khi
trở về Macao, tôi không chịu được giầy, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân
tôi vướng víu làm sao.[51]
Thức ăn thông
thường nhất của người Đàng Trong là cơm và thật là điều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có
rất nhiều thứ thịt, gà, vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất
lại là cơm, họ xới thật nhiều cơm, ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và
nếm náp các món thịt như để theo nghi lễ. Lương thực chính yếu của họ là cơm
như bánh mì là lương thực chính của chúng ta; họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm,
không cần nước sốt hay món gì khác vì sợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ
hay muối hay dầu mỡ hay đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước
thôi để cho cơm không dính vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn,
chỉ mềm một chút và dẻo. Họ còn kinh nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào
cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn
mỗi ngày bốn lần và ăn rất nhiều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi
hỏi.
Người Đàng Trong
ngồi trên đất để ăn, chân xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm
được khắc vẽ chạm trổ tỉ mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của
người dùng. Mâm này không lớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng[52],
cho nên trong bữa tiệc có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn
riêng ở nhà họ cũng giữ như vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng
chung một mâm. Họ không dùng dao hay xiên trong mâm, thực ra họ không cần dao,
xiên. Họ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong bếp và
thay vì xiên thì họ dùng những đũa nhỏ rất nhẵn nhụi họ cầm giữa các ngón tay
để gắp một cách rất khéo léo, rất sành sỏi, nên không cần gì khác. Họ cũng
không cần khăn ăn vì không hề dùng tay, không bao giờ lấy thịt mà không dùng
đũa.
Tiệc tùng cũng
khá thông thường giữa lân bang với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác
nhau, những thứ tôi đã nói trước đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở
nhà mình. Và mặc dầu người mời là người nghèo, người ta không tin ông thành
thực, nếu mỗi khách mời không có trong mâm ít nhất là một số các món ăn. Bởi vì
họ có thói quen mời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc
cũng có chừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai
trăm. Có lần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba
nghìn người. Cho nên tiệc này phải làm ở thôn quê là nơi có chỗ rộng để bày
mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những mâm nhỏ như chúng tôi đã nói. Trên đó
bày tới cả trăm món, vả trong những dịp này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ
đặt mâm trên một cái gác với những thanh nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng
chất rất ngoạn mục hết các món, gồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá,
gà vịt, thú vật bốn cẳng, gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể
có trong mùa. Nếu chẳng may thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và
người ta không coi bữa ăn đó là bữa tiệc. Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc
trên thì đứng hầu, khi chủ ăn xong thì tới phiên toán gia nhân bậc trên có đầy
tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến lượt những người đầy tớ bậc thấp
này. Và để không làm phí phạm tất cả những món đầy rẫy đó và theo tục lệ thì
tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho thoả thuê. Một mâm khác dành
cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê thỏa, còn thừa thì cho vào những túi
dành riêng cho việc này và đem về nhà cho vợ con được no nê[53].
Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đàng Trong không
có nho, do đó cũng không có rượu nho, họ dùng làm rượu một thứ gạo cất có mùi
vị như rượu của ta, giống cả về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có
rất nhiều rượu đến nỗi mọi người đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và
không hề buồn vì không có rượu nho ở những miền này. Thế nhưng, những người khá
giả thường có thói quen pha thêm một thứ rượu cất ở cây trầm hương làm cho mùi
vị có một hương thơm đặc biệt, sự pha trộn này rất thành công.
Trong ngày họ có
tục dùng một thứ nước rất nóng, trong đó nấu một thứ rễ cỏ[54]
gọi là trà, cũng là tên thứ nước uống đó, thứ nước này rất bổ và giúp cho tan
các chất xấu trong dạ dày và làm cho dễ tiêu. Ngừơi Nhật và người Tàu cũng
dùng, trừ ở Tàu, người ta không dùng rễ mà dùng lá và ở Nhật người ta tán nhỏ,
nhưng hiệu lực thì cũng giống nhau và tất cả đều gọi là trà.
Thật là một sự
không thể tin được là người Châu Au chúng ta ở đây có rất nhiều thịt thà và dồi
dào về đủ mọi thứ, thế mà chúng ta vẫn còn đói, còn khát, không phải vì thiếu
thịt mà vì không quen với các thứ đó, bản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì
và rượu nho một cách đột ngột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ cảm
thấy như thế, nếu họ tới Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều thứ thịt
ngon và rất dồi dào. Tôi kể ở đây một việc đã xảy đến với một quan cai trị xứ
Đàng Trong. Ông này là bạn thân của chúng tôi, chúng tôi mời ông đến nhà chúng
tôi dùng cơm và để tỏ mối thịnh tình khăng khít của tôi đối với ông thì chúng
tôi dọn nhiều món theo lối Châu Au của chúng tôi. Ông ngồi vào bàn và thay vì
như chúng tôi tưởng ông sẽ chiều ý chúng tôi mà khen ý tốt lành của chúng tôi
và cảm ơn về sự mới lạ này, bởi vì chúng tôi đã không tiếc công, nên thử dọn
cho ông hết các món liên tiếp. Thế nhưng không có món nào ông có thể dùng được,
mặc dầu ông cố gắng tỏ ra hết sức lịch thiệp và thành tâm[55].
Đến nỗi chúng tôi đành phải đem lên những món thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ
nhiên, chúng tôi cũng cố gắng hết sức. Lúc ấy ông mới ăn ngon lành và hài lòng,
còn chúng tôi mới thỏa dạ. Thế nên, về việc ăn uống cũng như về những gì chúng
tôi đã nói như về việc đi chân không, bản tính tự nhiên cũng cho quen dần với
nếp sống bản xứ, tập cho thành thục và làm rất đúng đến nỗi thức ăn ban đầu trở
nên kỳ dị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi đã nghiệm thấy, khi tôi về từ
những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng được ăn cơm xứ Đàng Trong mà tôi
thấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây người ta đem cho tôi.
Còn về thầy thuốc
và cách chữa các bệnh nhân, tôi phải nói là có rất nhiều, người Bồ cũng như
người bản xứ, và người ta thường thấy nhiều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu
Au không chữa được thì đã được khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi
một cách dễ dàng. Không ít lần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân,
coi như xong rồi, thế nhưng bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ dàng
nếu gọi được một lương y bản xứ.
Phương pháp của
họ là thoạt vào phòng người bệnh, họ ngồi nghỉ một lát gần giường bệnh, để cho
dịu cảm xúc khi tới đây. Rồi họ bắt mạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ
nói ông hay bà mắc chứng gì và nếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho
biết, tôi không có thuốc chữa bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có thể chữa
được bằng thứ thuốc nào của họ thì họ cũn cho biết, tôi có cách chữa ông, bà và
trong bao lâu, tôi sẽ chữa ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ bàn về tiền thù lao cho
lương y trong trường hợp khỏi bệnh. Tiền nhiều ít tuỳ theo tính chất và sự nặng
nhẹ của bệnh và có lần hai bên có hợp đồng với nhau. Rồi chính lương y bốc
thuốc, không cần tới dược sĩ, vì thế họ không có dược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ
bí mật của các liều thuốc họ cho, vì thê họ hết sức giấu, một phần cũng vì họ
không dám tin tưởng vào một người nào khác bốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu
bệnh nhân phục hồi sức khoẻ trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả,
thường diễn ra như vậy, thì buộc phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với
nhau, nhưng nếu không khỏi thì lương y mất cả công, mất cả thuốc.
Thuốc họ cho bệnh
nhân uống thì không như thuốc chúng ta, vừa khó uống lại làm yếu và làm cho
bụng ươn lười, nhưng dễ uống như canh[56]
và cũng rất bổ, không cần ăn thêm món nào khác. Vì thế họ cho bệnh nhân uống
mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh thoảng cho uống nước thịt. Các vị thuốc đó
không biến đổi cơ thể, nhưng giúp các chức năng hoạt động thông thường, làm khô
kiệt những chất hư mà không động tới người bệnh. Có một điều phải tường thuật
lại ở đây vào chương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho mời lương y Châu
Au tới và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh nhân coi như chết
không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ, ông này hứa chữa
trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong thời gian ông chữa
bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì cực kỳ nguy hiểm và ông không
thấy có thuốc nào trong y khoa có thể cứu thoát cơn nguy hiểm bệnh nhân đang
chịu và chỉ cần điều kiện đó thôi. Hai bên thỏa thuận là lương y sẽ chữa khỏi
trong vòng ba mươi ngày. Người bệnh uống thuốc theo đơn lương y cho và trong một
ít ngày, bệnh nhân đã khỏi, nhưng không chịu nghe theo điều thầy thuốc đã cấm
đoán rõ ràng. Thế là lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có sự thay đổi. Ông
biết chắc là người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho biết là bệnh nhân
phải chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không còn thuốc nào cứu chữa được
nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền thù lao như đã thỏa thuận bởi vì người
bệnh chết nhưng lỗi không phải tại thầy thuốc. Người ta xử việc này và tòa ra
lệnh cho bệnh nhân phải trả tiền cho lương y, sau đó người bệnh nhắm mắt lìa
đời.
Họ cũng dùng cách
chích máu, nhưng họ tiết kiệm máu hơn cách người ta làm ở Châu Au và họ không
dùng kim chích thông thường: họ có nhiều lông ngỗng, trong đó có ghép những
mảnh sứ nhỏ rất sắc và được dùng như những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và
khi phải đâm vào mạch máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này, lớn nhỏ
tuỳ theo nhu cầu và lấy ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch máu, mũi mảnh sứ
chỉ đâm đủ theo nhu cầu mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn hết là khi đã lấy đủ
máu thì họ không cần băng bó, không cần miếng gạc, không cần buộc cột gì cả: họ
liếm ngón tay cái cho có nước bọt và ấn trên vết thương, làm cho da khép lại,
máu ngừng tức thì và vết thương lành ngay. Được vậy tôi cho là do cách thức họ mở
mạch máu với mũi sứ nhọn làm cho sạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng.
Không nhiều nhà
giải phẫu có nhiều bí quyết kỳ diệu. Tôi không muốn đưa ra chứng cớ nào khác
bằng việc họ đã làm cho chính bản thân tôi và một bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã
từ một nơi cao xuống và bên chỗ có dạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt
đầu thổ ra máu và ngực tôi cũng bị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy liều thuốc
theo cách bên Châu Au của chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt chút nào. Trong
khi đó may có một thầy giải phẫu bản xứ tới, thầy lấy một thứ cỏ nào đó giống
như cỏ xổ[57] làm thành một thứ cao và
đắp trên dạ dày, rồi cũng sắc những thứ cỏ đó cho tôi uống, lại cho ăn sống nữa
và trong mấy ngày tôi hoàn toàn hồi phục. Để thí nghiệm lại, chính tôi đập gãy
chân một con gà mái ở nhiều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ làm thành cao và đắp trên
những vết chân gãy, thế là sau ít ngày nó khỏi hẳn.
Một con bọ cạp đã
cắn vào cổ một bạn đồng sự của tôi và ở xứ này đây sẽ là vết tử thương. Tức thì
cổ sưng vù và khi chúng tôi chuẩn bị làm phép sức dầu thì người ta mời một thầy
giải phẫu tới. Thầy cho nấu tức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân người
bệnh, lấy vải quấn chung quanh cho hơi và khói nóng không bay đi. Thế là hơi
bốc lên tận vết thương và người đồng sự của tôi cảm thấy bớt đau nhức, cổ bớt
sưng vù và được khỏe mạnh như thể chưa bao giờ bị đau.
Người ta còn có
thể thêm nhiều thí dụ tương tự, nhưng tôi chỉ nói rằng thuốc ở những miền này
có hiệu lực hơn thuốc ở đây (Châu Au). Và riêng tôi, tôi có thể thêm rằng tôi
đã đem theo tôi cây đại hoàng[58]
trong một hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt. Khi tôi về tới Châu Au sau hai
năm hành trình, tôi thấy cây đại hoàng của tôi đã biến chất khiến tôi không
nhận ra nữa, nguyên chất mất hết công dụng khi chuyển từ những xứ đó về xứ
chúng ta.
Chương 6: VỀ HÀNH CHÍNH VÀ DÂN CHÍNH NƠI NGƯỜI ĐÀNG TRONG
Lính
Đàng Trong năm 1793
Tôi sẽ nói vắn
tắt đủ để hiểu biết một cách ngắn gọn. Bởi vì nếu tôi trình bày dài dòng quá
thì tôi sẽ đi xa ý tôi đã định cho tôi trong bản tường trình này. Nói chung thì
việc hành chính có cái gì giống như ở Nhật và ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật
trọng nhiều về võ thuật hơn về học thuật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về học
thuật và coi thường võ thuật. Người Đàng Trong không hoàn toàn xa người Nhật và
lại cũng gần người Tàu, nghĩa là ở giữa và cũng theo tinh thần của dân tộc
mình, vừa trọng võ vừa chuộng văn tuỳ theo cơ hội. Do đó họ thưởng và đặt lên
các chức vụ và cấp bậc trong nước, khi thì là các tiến sĩ, lúc thì là các tướng
sĩ, họ chỉ định và cắt đặt lúc thì người này khi thì người kia tuỳ theo nhu
cầu.
Xứ Đàng Trong có
nhiều trường đại học[59]
trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng
như ở Tàu. Họ cũng dạy các khoa, dùng những sách và tác giả như nhau, như Khổng
Tử theo kiểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên thâm, với giáo thuyết
sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng ta, chúng ta có Aristote[60].
Và thực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa đầy lý lẽ bác học, nhiều chuyện
lạ, nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục ngữ và nhiều sự tương tự, tất cả đều bàn
về thuần phong mỹ tục, như chúng ta có Seneca, Caton, và Ciceron[61].
Phải mất nhiều năm học mới có thể đọc được các câu, các chữ, và các hình để
viết. Cuốn sách họ chuộng hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết
học luân lý gồm có đạo đức học, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú
khi thấy và nghe họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca
hát. Họ phải làm như thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng
của nó, vì có rất nhiều, mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau. Vì thế,
để đàm thoại với họ thì cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc và phép đối
âm.
Tiếng nói thông
thường thì khác với chữ viết họ dạy và họ đọc khi học và viết. Cũng như ở nơi
chúng ta tiếng bình dân chung cho tất cả thì khác, còn tiếng Latinh chỉ dạy
trong trường thì khác[62].
Đây là điểm khác với Trung Hoa, văn nhân hay quý phái cũng chỉ có một thứ tiếng
nói gọi là quan thoại, nghĩa là tiếng các tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị.
Còn chữ viết như
chữ in trong sách thì có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác nhau. Vì thế các
cha dòng Tên phải mất tám và có khi mười năm để học những sách ấy trước khi trở
nên tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp với họ. Nhưng người Đàng Trong đã
rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại chừng ba ngàn chữ họ thường dùng để viết văn
bài, thư tín, đơn từ, ký sự và những sự khác không liên quan tới sách in, thiết
yếu phải soạn bằng chữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi hơn, mặc dầu về sách viết
và sách in, họ gắng theo người Tàu, nhưng về các việc thường thức họ đã sáng
chế ra bốn mươi tám chữ phối hợp với nhau để diễn đạt và trình bày tất cả những
gì họ muốn, không hơn không kém gì những vần a, b, c của chúng ta.
Nhưng mặc dầu có
thứ chữ này, chữ Hán vẫn rất thông dụng ở Nhật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện
lợn hơn để diễn đạt tư tưởng, nhưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta
khinh chê coi như chữ của đàn bà.
Việc phát minh
tốt đẹp và tài tình về ngành in đã được thực hiện ở Trung Hoa và Đàng Trong
trước khi được biết đến ở Châu Au, mặc dầu chưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ
nhưng dùng cái đục hay dao mà khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ
mà họ muốn in trên sách. Rồi họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho vào
ép cũng như cách chúng ta làm ở Châu Au khi người ta in trên phiến đồng hay vật
gì tương tự.
Ngoài những sách
chúng tôi đã nói là những luận thuyết về luân lý, họ còn có những sách khác,
như họ nói, giảng về những sự thần linh như về việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ
trụ, về linh hồn, về ma quỷ thần thánh và nhiều giáo phái khác, những sách này
gọi là sách kinh khác với những sách đời gọi là sách chữ[63].
Chúng tôi sẽ nói về lý thuyết các đạo chúa đựng trong những sách đó ở phần thứ
hai bản tường trình này, như vậy đúng chỗ của nó hơn.
Mặc dầu ngôn ngữ
của người Đàng Trong cũng giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người
Trung Hoa, họ chỉ dùng những từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều
cung và giọng khác nhau, nhưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú
hơn và dồi dào hơn về nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành
âm nhạc và có khả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau[64].
Tiếng Đàng Trong,
theo tôi, là một tiếng dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có
biến cách các danh từ[65]
nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết
về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay
thế cho tất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như
những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn
ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại
từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động
từ này như sau: tôi có, anh có, nó có[66].
Họ chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ các
thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi
đã có; về thì vị lai: tôi hoặc sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có
không bao giờ thay đổi[67].
Do đó người ta dễ
thấy là ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần, tôi đã
học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải tội được nữa, tuy chưa được
tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn[68].
Nhưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của tôi, tôi đã nói rằng người Đàng Trong không những chỉ trọng các văn nhân, tán thưởng trình độ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những chức vụ cao và có thế giá, phát cho họ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý trọng những người can tràng, có giá trị và giỏi giang về võ bị. Nhưng họ cai trị và khác chúng ta, họ không có tục lệ làm như ở Châu Au chúng ta. Bởi vì đáng lý ra họ ban phát cho các tướng lãnh có tài có công, như người ta thường làm nơi chúng ta, một lãnh thổ, một bá tước địa, một thái ấp hầu tước để thưởng công họ, thì họ lại thưởng bằng cách đặt dưới quyền người họ thưởng một số nhân đinh và một số nhân khẩu và lính hầu nhất định của chính nhà vua[69]. Những người này ở bất cứ nơi nào trong nước đều phải nhận người được thưởng là chủ, phải phục dịch bằng binh khí, trong tất cả mọi trường hợp người này cần tới, nộp tất cả các khoản thuế mà cho người này như trước đó họ nộp cho chính nhà vua vậy.
Vì thế, thay vì
chúng ta nói người này là chúa cai quản một địa điểm nào, là bá tước hay vương
hầu cai trị một lãnh thổ nào thì họ lại nói người này là một nhân vật có năm
trăm đinh, người kia có một ngàn đinh, chúa cứ tăng số đinh cho người này,
người khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền, thêm thế giá, thêm nguồn lợi
và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính hầu mới. Về các cuộc chiến
tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở đây, tôi phải nói về một việc đáng
được biết, có liên quan tới dân chính. Thứ nhất họ xét xử các sự việc rất nhanh
chóng, như người ta thường làm trong quân đội và như người ta thường nói “trong
thời chiến” (more belli), chứ không kéo dài nơi tòa án qua đường lối các quan
tòa, các công chứng viên, các biện lý với tất cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm
sai và các quan trấn thủ các tỉnh làm hết các chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi
ngày bốn giờ liền, trong một cái sân đẹp và rộng, ngay giữa tư dinh của mình,
hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều.
Những ai tranh
tụng thì tới đó, trình bày khiếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay quan trấn thủ
tự vào cửa sổ mà nghe người này người kia lần lượt trình bày, kêu cả. Thường
thì các quan này là những người có óc phán đoán ngay thẳng, biết nghe và có
kinh nghiệm trong các vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách xác đáng,
nhất là để ý tới ý kiến của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp nhận cho bên
nguyên hay bên bị, nên họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ việc và tức thì không
trì hoãn, họ lên tiếng công bố án xử và người ta tức khắc cho thi hành không
khiếu nại hay hình thức tố tụng nào khác nữa, hoặc là án tử hình hoặc là án
phát vãng hay phạt trượng, phạt tiền: các ngài lên án phạt tội mỗi người theo
hình phạt luật định.
Các trọng tội
thông thường phải thú nhận và bị phạt nặng thì rất nhiều. Nhưng người ta trừng
phạt nghiêm khắc nhất những kẻ gian dối, trộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ
nhất thú nhận là đã vu cáo một người về một trọng tội mà người đó không phạm
thì sẽ bị phát rất ngặt, nghĩa là chịu hình phạt đáng lý ra người kia phải chịu
nếu thực sự đã phạm cái tội người ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta cáo gian
đáng phải tử hình thì người cáo gian này sẽ phải xử tử. Và thực tế cho thấy
cách xử này là cách tốt nhất để biết đích xác sự thực. Còn kẻ trộm cướp thì bị
phạt chiếu theo của ăn trộm, ăn cướp, nếu chúng lấy một của gì quan trọng thì
phải chém đầu, nếu là của không đáng giá bao nhiêu, thí dụ một con gà, thì bị
chặt ngón tay nếu là lần thứ nhất, nếu còn tái phạm thì bị chặt ngón khác, nếu
bị bắt lần thứ ba thì bị cắt tai, lần thứ tư thì bị cắt cổ.
Kẻ ngoại tình,
phái nam cũng như phái nữ bất kể, sẽ bị trừng phạt về trọng tội của họ bằng
cách để cho voi giày theo cách thức như sau. Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi
thành tới một thửa ruộng và trước mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ
phạm ở giữa, tay chân bị trói, ở ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt
kẻ sắp bị xử và thi hành án xử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn,
rồi nắm và ép chặt tội nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người
trông thấy, rồi tung lên cao và đón tội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ
cao rớt xuống và vì nặng nên cắm sâu vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống đất
rồi dẫm chân lên và đạp cho tan nát. Voi làm việc này mà không bỏ sót một điểm
nào làm cho mọi người có mặt sửng sốt và sợ hãi. Vì chứng kiến hình phạt kẻ
khác chịu mà mọi người phải giữ trung thành trong đạo vợ chồng.
Không phải ngoài
đề vì chúng tôi vừa nhắc tới hôn nhân, nếu chúng tôi kể qua ở đây mấy đặc điểm
riêng biệt để kết thúc chương này. Không bao giờ thấy người Đàng Trong, tuy còn
là lương dân, lại kết hôn trong những bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự nhiên
cấm đoán, rất ít trong bậc thứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị em họ[70].
Những cấp bậc khác được phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có một vợ. Thực ra,
những người giàu có, càng có thế giá và có của thì họ có tục lấy nhiều vợ mọn.
Họ còn cho là biển lận và keo kiệt nhựng ai không cưới nhiều vợ khi mình có đủ
tiền của để dễ dàng làm việc này.
Những vợ mọn được
gọi bà hai, bà ba, bà tư tuỳ theo thứ tự mỗi người. Tất cả đều là nàng hầu của
bà vợ cả. Bà này được trọng nể là vợ đích thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này
chọn các nàng hầu tuỳ theo ý mình và cưới về cho chồng. Hôn nhân của họ không
bền chặt vì luật xứ Đàng Trong cho phép li dị, tuy không phải chỉ để tuỳ ý và
tuỳ thích của bên này hay bên kia. Để ly dị, điều cần thiết phải làm trước tiên
là chứng tỏ được tại sao mình xin ly dị, vì có nhiều tội nặng tỏ tường, nếu có
tội thật thì được xin ly dị và lấy người khác. Vì chồng quản lý tài sản của vợ
nên họ cũng bỏ nhà mình đến ở nhà vợ mới. Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các
việc trong nhà, còn chồng ở trong gia đình chẳng làm gì, không vất vả gì và nếu
chỉ có một vài đồng thi họ cũng bằng lòng vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và
ăn mặc.
Chương 7: LỰC
LƯỢNG CỦA CHÚA ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở đầu
bản ký sự này là Đàng Trong trước kia là một tỉnh tách rời khỏi xứ Đàng Ngoài.
Cụ cố[71]
của chúa đương thời đã vô cớ chiếm đoạt, lập nhà nước và phản nghịch cùng chúa
Đàng Ngoài. Rồi họ trở nên mạnh dạn hơn khi được cung cấp trong một thời gian
rất ngắn, nhiều thứ súng lớn tịch thu và lượm nhặt được do tàu và thuyền chiến
bị đắm trôi dạt vào bờ biển: thực ra tàu người Bồ cũng như người Hòa Lan[72]
thường đâm vào cồn đá và người bản xứ vớt được như ngày nay có thấy.
Nguyên trong phủ
chúa cũng có tới sáu mươi cỗ và có những cỗ rất lớn. Ngừơi Đàng Trong tinh xảo
và có kinh nghiệm sử dụng, họ vượt cả người Châu Au đến nỗi họ chẳng làm gì
khác mà chỉ ngày ngày bắn đạn giả và rất lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho là
có thế lực đến nỗi vừa thấy những chiếc tàu của Châu Au chúng ta cập bến của họ
thì liền bắn súng để thách thức, nhưng người của chúng ta biết rằng súng của họ
chẳng địch lại được súng của chúng ta, nên người của chúng ta hết sức tránh né
tầm bắn. Người của chúng ta biết rằng theo kinh nghiệm, ta có thể chắc chắn bắn
vào chỗ nào ta muốn với súng của mình, còn họ với súng hỏa mai là một thứ gậy
thì không nhằm bắn trúng được.
Điều giúp chúa
rất đắc lực trong cuộc dấy binh chống chúa Đàng Ngoài, đó là ngài có một trăm
thuyền chiến và hơn nữa, chúa rất mạnh về đường biển, như đã mạnh về đường bộ
vì có súng ống. Thế là chúa dễ dàng thi hành ý đồ và âm mưu chống chúa Đàng
Ngoài là chủ mình. Việc họ buôn bán thường xuyên với người Nhật đã đem lại cho
chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản, với nước thép rất tốt.
Trong nước còn có rất nhiều ngựa, tuy thấp bé hơn, nhưng rất tốt và rất can
đảm, dùng để cưỡi và bắn nỏ, hằng ngày không ngớt thao luyện. Thế lực của chúa
rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể cho tuyển ngay được tám mươi ngàn
quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn còn sợ chúa Đàng Ngoài
vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần. Vì thế, để có sự thỏa hiệp và giao hảo
tột thì chúa nhận triều cống về những gì vương quốc của ngài có thể có cho xứ
Đàng Ngoài, nhất là vàng, bạc, lúa gạo, cung cấp ván và gỗ để đóng thuyền
chiến.
Về binh pháp và
cách cai trị trong chinh chiến thì cũng gần như ở Châu Au. Họ cũng giữ các luật
lệ để huấn luyện binh lực, đánh du kích, tấn công và rút quân.
Ngoài ra chúa còn
chuẩn bị vũ khí liên tục và mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này
thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm. Vì thế mà vũ khí của Đàng
Trong đã lừng danh và nổi tiếng khắp các nơi qua đường biển cũng như đường bộ.
Ngoài biển họ
chiến đấu trên thuyền như đã nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng
musqueton. Và người ta sẽ không lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn
có tới một trăm thuyền chiến có đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến khi
người ta biết những thứ này đuợc thành lập như thế nào.
Cần phải biết
rằng người Đàng Trong không có lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ sai
để chèo thuyền[73]. Khi họ cần người để
chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì tức khắc họ có thể tuyển mộ
ngay được đủ số theo cách thứ sau đây: Họ ngấm ngầm phái đội trưởng và uỷ viên
lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt ngay lập tức tất cả những trai
tráng có sức cầm tay chèo và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa tới con nhà sang
hay người có thế giá, bởi vì không ai được miễn. Việc này thực ra không khó
khăn gì như lúc đầu người ta tưởng, vì thứ nhất họ được đối xử tốt trong thuyền
cũng như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa, vợ con họ và cả
gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết tất cả những gì họ cần, tuỳ theo cấp
bậc, thanh thế, trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và những người này
không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi cần và họ chiến đấu rất
anh dũng. Để làm việc này, người ta trao cho mỗi người một súng hỏa mai hay
musqueton với đạn, dao hay mã tấu. Người Đàng Trong không giả đò, họ rất hăng
hái và dũng cảm, với mái chèo, súng và dao, họ can đảm tấn công và trong hỗn
chiến, họ tỏ rõ lòng dũng cảm hiếm có của họ. Thuyền chiến của họ không lớn
cũng không đặc biệt rộng như của ta, nhưng rất lẹ và được trang trí vàng bạc
trông rất ngoạn mục. Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất
thì toàn bằng vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị
cao, và lý do là vì người thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất
trận, thế cho nên rất hợp lý, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở chỗ
nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền.
Trong số những vũ
khí tự vệ dùng trong trận chiến thì có những chiếc khiên nhỏ hình bầu dục, hoàn
toàn rỗng, cao, có thể dễ dàng chắn cả thân người và rất nhẹ, dễ cầm và không
hề vướng víu bận bịu chút nào. Cũng rất có ích cho việc bảo vệ thành trì ở xứ
này, đó là cách thức họ dựng nhà chỉ toàn bằng ván và trên cột gỗ như chúng tôi
đã nói. Nếu quân địch hùng mạnh kéo tới và họ không muốn chống cự, lúc đó mỗi
người đem theo nồi niêu bát đũa và trốn lên núi, sau khi châm lửa đốt nhà và
chỉ để lại không gì khác ngoài đống tro tàn. Quân địch không thể tìm ra được
thứ gì để ăn và sinh sống nên họ phải rút quân về, và họ trở về dựng lại những
căn nhà khác trong một thời gian rất ngắn và khôi phục lại thành phố như trước.
Chương 8: VỀ
THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HẢI CẢNG Ở XỨ ĐÀNG TRONG
Xứ Đàng Trong có
rất nhiều thứ thuận lợi cho sinh hoạt con người như chúng tôi đã nói trước đây.
Vì thế mà dân xứ này không ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để
buôn bán, cũng như không bao giờ ra khơi quá xa đến độ không còn trông thấy bờ
biển và lãnh thổ của tổ quốc yêu quý của họ[74],
mặc dầu họ dễ dàng cho người ngoại quốc vào hải cảng của họ và họ thích thú
thấy người ta tới buôn bán trong lãnh thổ của họ, không những từ những nước và
tỉnh lân cận mà từ cả những xứ rất xa. Về vấn đề này, họ không cần phải dùng
những mánh lới gì lớn, người ngoại quốc đủ bị quyến rũ bởi đất đai phì nhiêu và
thèm muốn những của cải tràn đầy trong xứ họ. Không những người xứ Đàng Ngoài,
xứ Campuchia và Phúc Kiến và mấy xứ lân cận đến buôn bán, mà mỗi ngày người ta
còn thấy các thương gia đến từ những miền đất xa xôi như Trung Quốc, Macao,
Nhật Bản, Manila và Malacca. Tất cả đều đem bạc tới xứ Đàng Trong để đem hàng
hóa xứ này về. Thực ra không phải là mua hàng hóa mà là trao đổi với cùng một
thứ bạc kể như hàng hóa, lúc cao lúc hạ tuỳ theo có nhiều hay có ít bạc, tuỳ
theo có nhiều hay ít tơ lụa và những mặt hàng khác.
Tiền dùng để mua
mọi thứ là thứ tiền bằng đồng và tất cả đều có giá trị bằng gần một đồng
“double” và năm xu của đồng này thì bằng một “êcu”. Đồng tiền này rất tròn, có
khắc con dấu và biểu hiệu nhà vua. Mỗi đồng đều có lỗ ở giữa để xâu thành từng
nghìn đồng, mỗi chuỗi hay mỗi dây giá bằng hai “êcu”.
Người Tàu và
người Nhật là những người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ
phiên họp hàng năm ở một hải cảng và kéo dài tới chừng bốn tháng. Người Nhật
chở trên thuyền của họ giá trị bằng bốn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở
trong tàu họ gọi là “somes”[75],
rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều hàng hóa khác của xứ họ. Chúa thu được lợi nhuận
lớn trong việc buôn bán này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra và
cả nước đều kiểm tra được rất nhiều mối lợi không thể tả hết. Vì người Đàng
Trong không có đồ kỹ nghệ và thủ công nào, không biết kỹ thuật cơ giới, vì đất
đai phì nhiêu và thổ sản dồi dào nên họ ăn không ngồi rồi, và mặt khác họ dễ
dàng chuộc những của lạ từ các nơi khác đưa tới, nên họ rất hám và chạy theo
mua cho bằng được với bất cứ giá nào. Họ không biết tiết kiệm tiền khi sắm
những thứ thực ra chẳng đáng giá bao nhiêu, tỉ như bàn chải, kim khâu, vòng
tay, hoa tai bằng thuỷ tinh và những hàng lặt vặt. Tôi nhớ có một người Bồ đem
từ Macao tới Đàng Trong một lọ đầy kim khâu, tất cả chỉ giá hơn ba mươi
“ducat”, nhưng đã được lời tới hơn một ngàn, vì ông ta bán mỗi chiếc một đồng
“rêal” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Macao ông ta mua không tới một “double”.
Sau cùng họ tranh nhau mua tất cả những gì họ thấy miễn đó là đồ mới lạ và từ
xa tới, họ tiêu tiền một cách dễ dàng. Họ ham chuộng tất cả các mặt hàng mũ
nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi và tất cả các loại áo của chúng ta vì rất
khác các đồ vật của họ. Nhưng họ thích san hô nhất.
Còn về hải cảng
thì thật là lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm
được hơn sáu mươi cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền.
Là vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người
ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc
tỉnh Quảng Nam[76]. Người ta cập bến bằng
hai cửa biển: một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An).
Các cửa biển cách nhau chừng ba hay bốn dặm, kế đó biển chia thành hai nhánh đi
sâu vào đất liền chừng bảy hay tám dặm, làm thành như hai co sông luôn tách rời
nhau để rồi cuối cùng gặp nhau và đổ vào một con sông lớn. Tàu bè từ hai phía
tới cũng đi vào con sông này[77].
Chúa Đàng Trong
xưa kia cho người Nhật, người Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập
một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là
Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai
thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng,
có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và
phong tục của người Tàu và người Nhật cũng vậy.
Hơn nữa, chúa
Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa
cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng
với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ. Vì thế người Bồ ở Macao mới có ý định
sai một sứ giả tới chúa để nhân danh mọi người khẩn khoản chúa trục xuất người
Hà Lan là địch thù của họ. Để làm việc này, họ dùng một thuyền trưởng tên là
Ferdinand de Costa. Ông này đã thành công, dĩ nhiên với nhiều khó khăn. Ông đã
làm cho chúa ra sắc lệnh cấm người Hà Lan tới gần lãnh thổ ngài, nếu không nghe
thì nguy tới tính mạng. Nhưng vì người Bồ ở Macao sợ sắc lệnh đó không được
tuân thủ nghiêm chỉnh, nên họ lại sai một phái đoàn mới tới Đàng Trong, để nắm
chắc lệnh cấm đó. Họ cũng căn dặn đoàn đại biểu phải làm cho chúa hiểu là, vì
ích lợi của ngài và nếu ngài không cẩn thận thì e rằng, với thời gian người Hà
Lan vốn rất khéo léo và rất quỷ quyệt, sẽ dám xâm chiếm một phần xứ Đàng Trong
như chúng đã làm ở mấy nơi trong nước An Độ. Nhưng có mấy người am hiểu tình
hình xứ này bàn là không nên nói thế với chúa, nhưng cách thế đích thực phải
dùng là cho phép người Hà Lan tới buôn bán trong xứ và mời cả nước Hà Lan tới
nữa. Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào
trên thế giới. Thật là hoàn toàn trái ngược với vua Trung Hoa, ông này sợ tất
cả, đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không cho phép buôn bán trong
nước ông. Các sứ giả phải nại nhiều lý do mới được như ý sở cầu.
Chúa Đàng Trong
tỏ ra thích để cho người Bồ đến buôn bán ở nước ngài một cách lạ lùng. Và đã
mấy lần ngài cho họ ba hay bốn địa điểm ở nơi phì nhiêu nhất và phong phú nhất
trong vùng hải cảng Đà Nẵng, để họ xây cất một thành phố, với tất cả những gì
cần thiết, cũng như người Tàu và người Nhật đã làm. Và tôi mạn phép nói lên cảm
tưởng về việc này với hoàng đế công giáo[78],
tôi xin nói rằng ngài nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp
chúa Đàng Trong đã đưa ra và sớm xây cất ở đó một thành phố tốt đẹp, làm nơi an
toàn và cư trú, lại dùng để nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi Trung
Quốc. Cũng có thể giữ một hạm đội sẵn sàng chống lại người Hà Lan. Họ đi Tàu
hay đi Nhật, dù muốn dù không, họ bó buộc phải qua giữa eo biển nằm trong bờ
biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ Phú Yên và Quy Nhơn với những quần
đảo Chàm.
Đó là một ít điều
tôi tưởng là nên tường thuật một cách chính xác về tình hình vật chất ở xứ Đàng
Trong, theo sự hiểu biết của tôi, trong thời gian mấy năm tôi ở đó 6 như sẽ
biết nhiều hơn trong phần thứ hai của bản tường trình này.
Chương 9: QUAN
TRẤN THỦ QUY NHƠN ĐƯA CÁC CHA DÒNG ĐẾN TỈNH ÔNG CAI QUẢN VÀ CHO DỰNG MỘT TRÚ SỞ
VÀ MỘT NHÀ THỜ CHO CÁC CHA
Cha Buzomi, cha
De Pina và tôi, chúng tôi bỏ Hội An để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh
đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết
sức tử tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và đối xử với chúng
tôi một cách rất đặc biệt. Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt con
người bắt buộc ông phải xử như thế.
Ông dành một
chiếc thuyền để phục dịch riêng cho một mình chúng tôi và các người thông ngôn,
không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng
cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng
chiều đậu bến[79]. Thường thì các hải cảng
đều ở cạnh các thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh Quảng Nghĩa. Nơi đây ông có quyền
như ở Quy Nhơn, mọi người đều ra đón, chúc mừng và tỏ lòng quy phục ông với rất
nhiều lễ vật quý và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do
lệnh quan trấn thủ vì ông muốn thế. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy chúng tôi
được trọng đãi và vì thế người ta quý mến chúng tôi, có thịnh tình với chúng
tôi. Và đó cũng chính là điều quan trấn thủ muốn, ông cũng nghe theo lời chúng
tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp phải xử trị một trọng tội nào đó.
Chúng tôi chưa kịp mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng lòng ban ngay rồi. Do đó
chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không kém quan trấn thủ. Thấy chúng tôi có
lòng bác ái và thương xót hết mọi người nên mọi người đều quý mến và tìm đến
chúng tôi.
Ngoài ra ông muốn
trong suốt cuộc hành trình người ta đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là
những quan lớn, tới đâu ông cũng cho tổ chức trò chơi và hội hè cho dân chúng,
khi thì cho đấu chiến thuyền, lúc thì cho đua thuyền, đặt giải thưởng cho
thuyền nào thắng cuộc. Không ngày nào ông không thân chinh sang thuyền chúng
tôi. Ông rất thích trao đổi với chúng tôi, nhất là khi chúng tôi nói về sự cứu
rỗi đời đời và về đức tin đạo thánh của chúng tôi. Cứ thế, rồi chúng tôi tới
tỉnh Quy Nhơn. Nhưng chúng tôi còn phải đi mấy ngày đường nữa mới về được tới
dinh quan trấn thủ. Ông muốn cho chúng tôi đi đường bộ để được thoải mái và vui
thú.
Thế là ông truyền
đưa bảy cỗ voi tới, tất cả đều đã sẵn sàng. Ông còn muốn dành cho chúng tôi cái
danh dự đặc biệt là mỗi người chúng tôi có riêng một cỗ voi, kèm theo một trăm
người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa. Vì cuộc hành trình này chỉ là để tiêu
khiển, nên chúng tôi đi mất tám ngày, tới đâu cũng được tiếp đón và đối xử như
một ông hoàng, nhất là ở nhà một bà chị của ông, người ta tiếp chúng tôi rất
long trọng trong một bữa tiệc rất linh đình. Không những vì có rất nhiều món
khác nhau, mà còn vì có nhiều cách nấu nướng đặc biệt và nhiều thứ thịt thà,
dọn theo bếp Châu Au[80]
của chúng tôi, mặc dầu cả quan trấn thủ, cả mọi người trong nhà đều không dùng
được.
Rồi sau cùng,
chúng tôi tới tư dinh. Sau tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành
trình, chúng tôi được tiếp đón một cách rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ
dành cho các ông hoàng bà chúa. Tám ngày tiệc tùng liên tiếp và cỗ bàn linh
đình, ông còn để chúng tôi ngồi ngai của chúa. Chính ông, bà vợ và con cái ông
săn sóc chúng tôi, ăn chung với chúng tôi, làm cho cả dinh đều bỡ ngỡ. Ai cũng
đồng thanh quả quyết rằng người ta chỉ dành những danh dự này cho bản thân các
chúa mà thôi. Đó là cơ hội cho mấy người nói và đồn thổi khắp xứ này rằng chúng
tôi là những bậc đế vương tới xứ này để bàn những việc rất quan trọng. Nghe lời
đồn đó, quan trấn thủ rất lấy làm hài lòng và tuyên bố trong cuộc họp chung các
quan trong phủ rằng: thật ra các cha là con vua con chúa, tức là các thiên sứ
đến những vùng đất này, không phải vì thiếu thốn hay cần thiết thứ gì, vì ở
nước các cha không thiếu gì, trái lại, mọi của cải đều dư dật, nhưng chỉ vì các
cha hăm hở sốt sắng cứu vớt các linh hồn.
Viên quan đức độ
này, khi hoàn toàn còn là lương dân, đã là người rao giảng Phúc âm. Ông làm cho
mọi người nghe ông thì đều kính phục ông, nhất là ở bất cứ nơi nào người ta
cũng coi ông là một người rất mực thông thái.
Tám ngày qua đi,
chúng tôi cho ông biết là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc
âm hơn, còn nếu ở trong tư dinh thì không dễ dàng cho công việc chúng tôi, vì ở
xa tỉnh chừng một dạm rưỡi, trong miền thôn quê, theo kiểu ở đây. Quan trấn đã
vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và ông đã
buồn phiền khi phải xa chúng tôi: thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên
ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho
chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là
Nước Mặn. Ông còn thêm, trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng
tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho
ông biết thì tức khắc ông sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn
cảm tạ ông về tất cả những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành
trình và những việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt,
chúng tôi leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa
điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi. Ở đây chúng tôi cũng được tiếp
đãi với tất cả sự sang trọng, quan trấn đã truyền phải dành cho chúng tôi.
Nhưng vì không chịu được vắng mặt lâu hơn, ngay ngày hôm sau, ông thân hành đến
thăm chúng tôi và kiểm tra xem người ta có sửa soạn nhà chúng tôi tươm tất và
thuận tiện không. Ông còn nói với chúng tôi rằng chúng tôi là người ngoại quốc
không có nhiều tiền bạc, không có nhiều của cải, không có đủ sự cần dùng, nên
ông nhận cung cấp cho chúng tôi mọi sự cần thiết.
Thế là ông truyền
mỗi tháng người ta đem đến cho chúng tôi một món tiền khá lớn và mỗi ngày người
ta đưa tới nào là thịt thà, cá mú, thóc gạo, không phải chỉ đủ cho chúng tôi mà
còn cho các người thông ngôn và người làm nữa. Không chỉ có thế, ngày nào ông
cũng gửi cho chúng tôi quà bánh, rất đầy đủ, không kể các đồ vật khác để bồi
dưỡng chúng tôi một cách hậu hĩ. Để tỏ lòng trọng kính chúng tôi và tạo uy tín
cho chúng tôi trước mọi người, một ngày nọ, ông mở một phiên tòa ngay trong sân
nhà chúng tôi, theo cách thức được thực hiện ở Đàng Trong như chúng tôi đã nói.
Trong phiên tòa này, ông phải xử mấy người phạm trọng tội, mỗi người đều được
xử theo tính chất của tội phạm. Trong số các phạm nhân có hai người bị xử tử
bằng vũ khí và phải chịu hình tên bắn. Nhưng trong khi người ta trói các người
này thì chúng tôi can thiệp để xin ân xá cho họ. Ông liền tha ngay và truyền
cho cởi dây trói tức thì. Ông tuyên bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá
này cho một người nào cả. Nhưng vì những vị nhân đức này, ta không thể khước từ
được.
Rồi quay về phía
chúng tôi, ông giục chúng tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để
dựng một nhà thờ. Chúng tôi liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là
rất hợp và rất tiện để làm việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư dinh
ở ngoài thành phố. Ba ngày sau, người ta đến cho chúng tôi biết là nhà thờ đã
được đem đến. Được tin đó chúng tôi rất vui mừng và sung sướng, chúng tôi ra
khỏi nhà, hăm hở tới coi sự lạ lùng này, chúng tôi cũng muốn biết xem nhà thờ
có thể đem đến bằng cách nào.
Chúng tôi biết là
nhà thờ phải được làm bằng ván lắp, theo họa đồ đã vẽ. Chúng tôi cũng được biết
là tòa nhà này rất lớn và rất cao, phải được đặt trên những cột cao và lớn. Tức
thì chúng tôi phát hiện ra trong cánh đồng một đạo quân trên một nghìn người
khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi người lực lưỡng và khoẻ
mạnh nhất khênh. Còn những người khác thì vác xà, người khênh ván, người khênh
nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác. Tất cả đều trật tự mang
đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tôi chật ních người. Chúng tôi niềm
nở đón tiếp họ với niềm hân hoan các bạn có thể nghĩ được là như thế nào. Chỉ
có một điều làm cho chúng tôi buồn phiền là trong nhà không có gì để ít ra cho
họ ăn qua loa. Đám người rất đông này tuy được quan trấn trả công hậu hĩ nhưng
chúng tôi cũng thấy xấu hổ và bẽ mặt nếu để họ ra đi mà không cho họ chút gì
lót dạ.
Nhưng chúng tôi
không phải lo lắng lâu khi thấy mỗi người ngồi trên đồ vật người ta căn dặn
phải kỹ càng giữ lấy và khi đã sẵn sàng họ mở khăn gói ra, trong đó có tất cả
dụng cụ nhà bếp gồm có nồi, thịt, cơm và cá. Họ nhóm lửa và tự nấu nướng lấy.
Không ồn áo. Không xin xỏ gì. khi họ ăn xong thì một người chủ thầu lấy dây đo
địa điểm, đo khoảng giữa hai cột, rồi ông cho gọi người đem tới dựng vào chỗ.
Sau đó ông gọi tất cả lần lượt khuân các bộ phận khác tới và mỗi người đem lắp
xong là ra về ngay. Cứ thế, tất cả đều làm việc trong trật tự không nhầm lẫn.
Ai cũng làm đúng cách thức, và tất cả khối lớn lao đó được dựng nội nhật trong
một ngày, làm cho chúng tôi rất mực sung sướng. Nhưng hoặc là vì người ta làm
quá vội vã, hoặc là vì người lắp đặt không cẩn thận nên ngôi nhà không đứng
thẳng lắm, trái lại hơi nghiêng một chút. Người ta kể cho quan trấn biết, thế
là ông cho gọi kiến trúc sư tới và truyền cho phải làm lại ngay, nếu không sẽ
bị cắt gân chân và phải gọi tất cả ngần ấy thợ trở lại để làm cho xong. Kiến
trúc sư tuân lệnh và cho dỡ hết, rồi với tất cả khéo léo và thận trọng hơn, ông
cho làm lại thật đúng và trong không bao lâu công việc đã hoàn thành.
Để biết rõ về
quan trấn đạo hạnh đã tận tâm lo việc của chúng tôi và rất quý trọng công việc
đó, thì tôi sẽ kể một việc rất đặc biệt để kết thúc chương này. Số là có những
làn gió nồm rất nồng nực thường nổi lên và thổi liên tục vào các tháng sáu, bảy
và tám gây nên một sức nóng bức lạ lùng làm cháy, làm khô héo và thiêu huỷ nhà
cửa vì chỉ làm bằng gỗ. Do đó chỉ một tia lửa nhỏ vì vô ý hay do cách nào khác
rơi vào thì cũng có thể làm lửa bốc lên ngay lập tức như châm diêm đốt vậy. Vì
thế, thường xảy ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn ở khắp lãnh thổ trong ba tháng đó. Một
khi lửa đã bén vào một nhà thì trong nháy mắt ngọn lửa từ nhà này sẽ lan sang
hết các nhà khác, lần lượt thẳng tắp theo hướng gió thổi và biến tất cả thành
tro một cách thảm hại. Để tránh nguy cơ này, nhất là tránh cho nhà thờ chúng
tôi ở ngay giữa thành phố và cũng để cho người ta biết chúng tôi được quan trên
quý trọng đến mức nào, ông ra sắc lệnh bắt tất cả các nhà ở cùng hàng với nhà
chúng tôi, theo hướng luồng gió nóng thổi, phải dỡ mái xuống trong hai tháng
đó. Và số nhà phải để trống mái đó nhiều đến độ có thể chiếm một khoảng rộng ít
là hai dặm Ý. Và ông đã chủ ý ra lệnh như vậy để nếu lửa bén vào một nhà nào
trong những nhà ấy thì dễ ngăn cản không cho nó bén sang nhà chúng tôi. Mọi
người đều nghiêm chỉnh thi hành vì danh dự và sự trọng kính họ dành cho ông.
Chương 10: QUAN TRẤN TỈNH QUY NHƠN QUA ĐỜI
Công việc của
chúng tôi tiến triển tốt đẹp ở thành phố này và có rất nhiều thành công. Khu
truyền giáo ngay buổi đầu đã thu được thành quả tốt đẹp, như chúng ta đã thấy ở
chương hai. Nhưng sau đó nổi lên cơn bão táp dữ dằn của cuộc bắt bớ do vụ hạn
hán và mất mùa, tưởng như đã nhận chìm giáo đoàn.
Bây giờ mọi sự
thật là yên ổn và vui tươi do sự biệt đãi và che chở của quan trấn thủ Quy
Nhơn. Và ruộng nho mới nở hoa, hứa hẹn một mùa quả rất thơm ngon. Nhưng bất
thần xảy đến cái chết của quan trấn thủ, khác nào ngọn gió bấc khắc nghiệt làm
tan tác và cuốn theo trong chốc lát tất cả các hy vọng tốt đẹp. Tai họa đã xảy
đến như sau. Quan trấn một hôm cưỡi voi đi săn rất thích thú. Ông hứng chí đến
độ không còn biết giữ gìn đã chạy suốt một ngày trong ánh nắng gay gắt của mặt
trời. Nóng bốc lên đầu đến nỗi chiều hôm đó ông lên cơn sốt kịch liệt. Được
tin, chúng tôi đến ngay phủ để thăm ông. Chúng tôi ở bên ông hai ngày, nài xin
ông sửa soạn chịu phép thánh tẩy, như đã nhiều lần ông ngỏ ý muốn chịu, nhưng
lại luôn cho biết là chỉ chịu khi nào ông thu xếp xong các công việc, nhưng ra
ông chẳng thu xếp gì cả. Tới ngày thứ ba, ông mất trí và lên cơn hoảng hốt. Ông
vẫn tiếp tục mê sảng trong ba ngày cho tới khi kiệt lực vì cơn bệnh, ông tắt
thở khi chưa nhận phép thánh tẩy.
Mọi người đều có
thể hiểu một cách dễ dàng tai nạn này làm chúng tôi đau đớn đến chừng nào.
Chúng tôi thấy mình ở trong một vương quốc xa lạ, bị bỏ rơi và thiếu thốn mọi
trợ lực của loài người. Nhưng điều làm chúng tôi đau lòng hơn hết là thấy một
người tắt thở trước mặt chúng tôi mà chưa chịu phép rửa tội. Người đó đã giúp
đỡ chúng tôi và chúng tôi đã thăm nom săn sóc cho tới hơi thở cuối cùng. Về các
nghi lễ ma chay phúng điếu chúng tôi không thể tường thuật hết các chi tiết vì
sẽ không bao giờ cùng.
Chương 11: THIÊN VĂN
Trước hết nên
biết về một ít tục lệ thịnh hành trong xứ này có liên quan tới thiên văn học,
nhất là về những thiên thực. Họ ham hiểu biết khao này đến nỗi trong viện đại
học[81]
của họ có những phòng rất rộng lớn để giảng khoa này một cách công khai và
người ta trích ra nhiều tiền thưởng và dành cho các nhà thiên văn lợi tức đặc
biệt gồm có nhiều ruộng vườn để làm một thứ tiền lương. Chúa có các nhà thiên
văn của chúa. Hoàng tử có các nhà thiên văn của hoàng tử. Những người này
chuyên chú học hỏi để rồi thông báo cho đúng thời kỳ có thiên thực. Nhưng họ
không có bộ lịch cải cách và những khoa chuyên nghiệp bàn về sự vận chuyển của
mặt trời và mặt trăng nên họ thường tính rất sai về mặt trăng và nguyệt thực,
do đó thường thường họ nhầm tới hai hay ba giờ và nhiều khi, tuy hiếm hơn, tới
một ngày trọn, còn họ chỉ tính đúng về điều chính yếu của thiên thực[82].
Khi họ tính đúng
thì họ được ban thưởng cho đất ruộng, trái lại nếu tính sai thì mất cả những
ruộng đất đã được từ những lần trước. Khi có thiên thực, xứ này trở nên rất náo
động. Trong thời gian đó, họ giữ những tập tục xung quanh mặt trời và mặt
trăng. Họ sửa soạn các nghi lễ rất linh đình. Chúa được báo trước ra sắc lệnh
cho tất cả các tỉnh trong nước và bắt các văn nhân cũng như thường dân phải
chuẩn bị đợi ngày đó. Khi ngày đó tới thì tất cả các quan trấn tỉnh, các hàng
quan khác, các tướng lãnh, kị binh và dân chúng cùng các viên chức, tất cả hội
họp nhau trong mỗi thành phố và lãnh thổ. Nhưng cuộc tập họp chính yếu là ở
trong phủ chúa, nơi có mặt tất cả các quan cao cấp trong nước, tất cả đều ra
ngoài đem theo vũ khí và cờ hiệu. Chúa đứng đầu mặc y phục tang chế, rồi tất cả
triều đình, họ nhìn ngắm mặt trời và mặt trăng, và trong khi thấy thiên thực
thì họ quỳ xuống lạy một hay hai hay nhiều lần, nói mấy lời thương xót vị hành
tinh đang chịu cực nhọc và thống khổ. Bởi vì họ cho rằng thiên thực không là gì
khác, nếu không phải là mặt trời và mặt trăng bị con rồng nuốt và thay vì nói
như chúng ta là mặt trăng bị khuất một nửa hay bị khuất hết, thì họ lại nói. Da
an nua, da an het, có nghĩa là con rồng đã ăn một nửa, con rồng đã ăn hết tất
cả.
Cách nói của họ
tuy có vẻ quá đáng, nhưng lại nói lên được cái cơ bản của thiên thực, cũng một
nguyên tắc như chúng ta, nghĩa là do đường hoàng đạo là đường chính và là đường
của mặt trời gặp đường của mặt trăng trong khi vận chuyển, đó là hai điểm gọi
là đầu và đuôi của con rồng, như các nhà thiên văn thường nói, do đó dễ đi đến
kết luận là họ cũng có cùng một lý thuyết với chúng ta về thiên thực, sử dụng
cùng từ ngữ và tên gọi con rồng, họ cũng có những từ như Lâu (Aries), Tất
(Taurus), Tĩnh (Gemini) và những từ khác để chỉ các cung hoàng đạo.
Nhưng chúng ta
hãy trở lại việc các dân tộc này thương xót các hành tinh: sau khi họ đã thờ
lạy rồi thì chỉ còn nghe thấy tiếng súng hỏa mai, súng musqueton, súng đại bác
người ta bắn, thứ nhất là từ phủ chúa, sau từ khắp kinh thành, hết các chuông
đều đổ inh ỏi, nào kèn thổi, nào trống đánh, tóm tắt là người ta không bỏ một
dụng cụ nào, kể cả soong nồi và những dụng cụ làm bếp khác mà không đem ra khu
vang trong thời gian đó, nghe rất ồn ào và inh ỏi. Họ nói là làm thế để ngăn
cản không cho con rồng nuốt mặt trời và mặt trăng hay để bắt nó phải nhả và mửa
vật nó đã nuốt.
Nói chung thì như
vậy. Bây giờ tôi xin nói riêng đến việc có liên quan tới vụ nguyệt thực xảy ra
ngày mồng 9 tháng 12 năm 1620 vào 11 giờ thiên văn, nghĩa là một giờ trước nửa
đêm. Vào chừng thời gian này tôi đang ở Nước Mặn thụôc tỉnh Quy Nhơn, tại đây
có một tướng lãnh cai quản khu chúng tôi ở. Một lần ông đến thăm chúng tôi, mấy
ngày trước khi xảy ra nguyệt thực, chúng tôi có bàn về việc đó. Ông quả quyết
là sẽ không có và ông cực lực bác lại lời chúng tôi, mặc dầu chúng tôi đã cho
ông thấy sự thực bằng cách tính toán của chúng tôi và cả cách thức nguyệt thực
sẽ xảy ra, tất cả đã được vẽ trong sách của chúng tôi. Nhưng không tài nào làm
cho ông tin được. Ông rất cố chấp và quả quyết là nếu có nguyệt thực thì hẳn
chúa đã cho biết trước một tháng trong toàn cõi, theo tục lệ. Bây giờ chỉ còn
tám ngày mà vẫn chưa có sắc lệnh ban hành trong nước, như thế là dấu hiệu hiển
nhiên cho thấy là không có nguyệt thực xảy ra. Mà vì ông cứ cố chấp quả quyết
ngược lại những điều chúng tôi nói, nên ông thách chúng tôi, ai thua thì phải
mất cho người được một Cabaia (là một thứ áo bằng lụa). Chúng tôi vui lòng thỏa
thuận như thế, nếu chúng tôi thua, chúng tôi cũng sẽ vui lòng biếu ông chiếc áo
dài còn nếu chúng tôi được thì thay vì áo dài, ông phải đến nghe giáo lý tám
ngày[83]
trong nhà chúng tôi và nghe những gì thuộc về đạo thánh của chúng tôi. Ông đáp,
tôi bằng lòng và không những thế mà còn tin theo Kitô giáo nếu quả thực tôi
thấy có nguyệt thực, và hơn nữa, ông nói: nếu những sự bí ẩn ở trên trời như
các thiên thực, các cha hiểu biết xác đáng và chắc chắn, còn hiểu biết chúng
tôi chỉ là sai lầm, thì là đạo của các cha và sự hiểu biết về Thiên Chúa thật,
không thể không đích đáng và đạo của chúng tôi hoàn toàn sai lầm. Thời điểm xảy
ra nguyệt thực mà chúng tôi đã tiên đoán đã đến, viên tướng lãnh đến nhà chúng
tôi, đem theo nhiều học trò và nho sĩ để làm chứng về những gì sẽ xảy ra, nhưng
vì nguyệt thực chỉ bắt đầu từ 11 giờ thiên văn, nên trong thời gian đó tôi đi
đọc kinh nguyện, tôi cũng nhớ quay trở đồng hồ cát chừng một giờ trước. Nhưng
họ liên tục đến gọi tôi như có vẻ thách thức ra coi nguyệt thực, họ cho rằng
tôi lui vào nhà trong không phải để đọc sách nguyện mà để che giấu sự hổ thẹn vì
thực ra không xảy ra. Họ rất bỡ ngỡ thấy tôi trả lời quả quyết là chưa tới giờ
và phải kiên nhẫn một chút cho đến khi đồng hồ cát của tôi mà họ nhìn ngắm như
một đồ vật từ ở thế giới bên kia rơi xuống[84].
Và khi tôi bước ra ngoài, tôi chỉ cho họ thấy là vòng mặt trăng không hoàn toàn
tròn như thường lệ vào lúc bắt đầu có nguyệt thực, rồi tối dần tối dần, thế là
sáng tỏ sự thật như tôi đã tiên đoán. Viên tướng lãnh và các văn nhân đều ngạc
nhiên về sự việc xảy ra, tức thì họ truyền lệnh cho người ta tới các nhà trong
khu phố và tới khắp các phố phường loan tin có nguyệt thực, mọi người chạy ra
để khua chuông đánh trống và làm các nghi lễ như thường lệ để cứu mặt trăng
trong cơn nguy khốn.
Một trường hợp
tương tự đồng thời đã xảy ra, giữa những người và ở một địa điểm quan trọng hơn
nhiều. Chúng tôi biết rằng các nhà toán học của chúa không biết nguyệt thực
này, trái lại các nhà toán học của hoàng tử lần này chuyên chú học hỏi nên biết
là có nguyệt thực ở Quảng Nam nhưng với một sai lầm quan trọng, không phải họ
chỉ lầm hai hay ba giờ mà một ngày tròn. Họ công bố sẽ có nguyệt thực vào ngày
Rằm nghĩa là một ngày trước khi xảy ra nguyệt thực thực sự. Cha Francois de
Pina lúc đó đang ở trong phủ, cha báo tin cho một cận thần, ông này ở gần hoàng
tử hơn các vị khác, lúc nào cũng theo ngài với tính cách người chủ nghi lễ, và
theo chức vụ được gọi là ông nghè[85],
và nhờ vị này thưa với ngài là nguyệt thực không thể xảy ra vào thời điểm như
nhà chiêm tinh đã loan báo, mà là vào ban đêm hôm sau như cha Cristoforo Borri
đã nói. Cha nhờ ông cho chủ ông là hoàng tử biết tin đó và cũng cho ngài thấy
sự sai lầm của các nhà chiêm tinh. Nhưng ông nghè chưa tin lời cha cho lắm. Vì
không hoàn toàn tin tưởng nên cũng không muốn nói. Thế rồi đến giờ các nhà
chiêm tinh đã đoán thì chúa và cả phủ ra xem nguyệt thực theo cách thức của họ
và cứu mặt trăng mà họ tưởng là sắp bị ăn. Nhưng thấy rõ là đã bị lừa, ngài rất
giận các nhà toán học và truyền bớt một tỉnh lợi tức họ đã được theo tục lệ
chúng tôi đã nói trên, khi họ tính sai. Bấy giờ ông nghè lợi dụng cơ hội thưa
với chúa là đạo trưởng Tây dương đã nói với mình, trước khi xảy ra, là đêm sau
mới có.
Thế rồi ông nghè đến tìm cha để biết chắc chắn thời điểm nguyệt thực. Cha cho biết theo đồng hồ và các dụng cụ khác, là sẽ xảy ra đúng 11 giờ đêm sau. Nhưng ông cũng chưa lấy làm chắc và vì ngờ vực, ông không muốn đánh thức chúa khi chưa thấy rõ nguyệt thực bắt đầu. Chờ cho tới lúc đó ông mới chạy đến đánh thức ngài và vội vã cùng mấy người cận thần làm các nghi lễ kính bái và cúng tế theo tục lệ khi có nguyệt thực. Ông cũng không dám công bố biến cố này ra vì sợ làm mất uy tín của các nhà toán học và sách vở họ dùng.
Thế rồi ông nghè đến tìm cha để biết chắc chắn thời điểm nguyệt thực. Cha cho biết theo đồng hồ và các dụng cụ khác, là sẽ xảy ra đúng 11 giờ đêm sau. Nhưng ông cũng chưa lấy làm chắc và vì ngờ vực, ông không muốn đánh thức chúa khi chưa thấy rõ nguyệt thực bắt đầu. Chờ cho tới lúc đó ông mới chạy đến đánh thức ngài và vội vã cùng mấy người cận thần làm các nghi lễ kính bái và cúng tế theo tục lệ khi có nguyệt thực. Ông cũng không dám công bố biến cố này ra vì sợ làm mất uy tín của các nhà toán học và sách vở họ dùng.
Sau khi nói về
nguyệt thực thì chúng tôi xin kết thúc chương này bằng một vụ nhật thực xảy ra
vào ngay 22 tháng năm năm 1621. Trong vụ này, các nhà thiên văn của chúa tiên
đoán là sẽ xảy ra và kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Nhưng vì họ rất tín nhiệm
chúng tôi về vấn đề này và để biết chắc chắn hơn, họ đến tìm chúng tôi để xem
chúng tôi nghĩ sao. Tôi cho họ biết rằng chắc chắn sẽ có nhật thực và không gì
xác đáng hơn. Chúng tôi cho họ coi đường vẽ trong lịch của chúng tôi. Nhưng tôi
cố ý không nói cho họ biết là vì thị sai của mặt trăng với mặt trời nên trong
xứ Đàng Trong không thể trông thấy được. Họ không biết thế nào là thị sai. Do
đó theo sách và cách tính của họ, họ thường nhầm lẫn, không tìm đúng thời điểm.
Tôi khất họ một thời gian ngắn để coi rõ lại điểm này.
Tôi chỉ nói chung
chung với họ là cần phải đo lại trời với đất để xem nhật thực có thể thấy được
ở Đàng Trong hay không và như vậy tôi có ý hoãn câu trả lời cho tới lúc họ công
bố có nhật thực. Sau cùng, họ thích thú vì thấy sách của chúng tôi phù hợp với
ý kiến của họ và không đào sâu hơn nữa, họ chắc chắn là sẽ có nhật thực và đưa
tin cho chúa. Chúa liền công bố sắc lệnh và truyền giữ và làm những việc theo
thông tục. Khi sai lầm của các nhà thiên văn đã được phổ biến đi khắp nơi thì
tôi cho biết là nhật thực này không thể xem thấy ở bất cứ nơi nào trong xứ Đàng
Trong. Điều này đến tai hoàng tử. Để biết rõ sự thật, ông sai các nhà toán học
đến hỏi ý kiến tôi và tranh luận về vấn đề này. Kết quả cuộc tranh luận là về
phía họ, họ rất lúng túng và phân vân làm cho hoàng tử lưỡng lự, không biết
trong lãnh thổ thuộc quyền ông, có nên theo ý kiến là sẽ có nhật thực như đức
thân phụ ông đã công bố hay nên nói ngược lại. Điều làm ông khó xử hơn cả và là
điều ông chú ý hơn hết, đó là không những các sách của họ mà cả sách của chúng
tôi cùng nói là sẽ có nhật thực và ông sẽ mất uy tín nếu không công bố như
thường lệ. Thế nhưng lòng tin tưởng vào lý thuyết của chúng tôi, trong dịp
nguyệt thực mới xảy ra đây, ngăn cản không cho ông giải quyết. Đến nỗi để khỏi
nghi ngờ, ông lại phái người tới hỏi chúng tôi một lần nữa để cho biết chúng
tôi còn quả quyết nữa không. Tôi đáp là sau khi đã làm tất cả các phép toán và
đã tính rất kỹ thì tôi thấy một cách không thể sai lầm rằng không một nơi nào
trong nước ông có thể thấy nhật thực vì thế ông không phải lo lắng cho công bố
gì nữa.
Ngày đó trời đẹp,
sáng và trong, không có chút mây nào. Vả lại vào tháng 5, mặt trời ở xứ này
chiếu thẳng trên đầu và vào khoảng 3 giờ chiều, giờ phải xảy ra điều họ kể, giờ
mọi người chịu nóng bức. Thế nhưng chúa không quên ra khỏi phủ với các cận
thần, chịu mệt nhọc trong thời gian chờ đợi, nhưng không có chuyện gì xảy ra
chúa bực tức đã khiển trách họ rất nặng lời và quở mắng họ rất nghiêm khắc. Họ
tạ lỗi, và cho là nhật thực chắc chắn xảy ra, nhưng trong khi tính toán họ đã
nhầm lẫn một ngày liên quan tới sự giao hội của mặt trăng và chắc chắn là ngày
mai cũng vào giờ này sẽ có nhật thực. Chúa tin lời họ nói và ngày hôm sau vào
đúng giờ này, chúa chẳng nhận thấy được gì ngoài cái nóng bức như ngày hôm
trước. Các nhà toán học lại một phen nữa bị chúa trách phạt.
Chương 12: ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở ĐÀNG TRONG
Xứ Đàng Trong còn
có nhiều đền chùa rất đẹp với tháp cao và lầu chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ bé
đến đâu thì cũng có đền chùa thờ cúng thần Phật. Có những pho tượng rất lớn có
vàng có bạc chứa chấp và tàng trữ ở trong. Thật không hơn không kém là một kho
tàng thánh trong ngực hay trong bụng pho tượng. Không ai dám sờ mó vào trừ khi
bị lâm vào cơn túng quẫn cùng cực. Một tên ăn trộm nào đó thò tay lục trong
bụng tượng mà không nghĩ đến tầm quan trọng của việc phạm thánh, vì ở đây người
ta vẫn quan niệm rằng làm như vậy là phạm thượng. Lại nữa họ đeo ở cổ nào là
tràng hạt, chuỗi hột. Họ tổ chức rước sách, lễ lạt rất long trọng, để kính thần
Phật như chúng ta thấy nơi những giáo dân sốt sắng nhất của ta. Và hơn nữa có
những ông sãi có chức tương ứng với chức tu viện trưởng, giám mục và tổng giám
mục cũng cầm gậy dát vàng dát bạc không khác những gậy chúng ta dùng trong Giáo
hội.
Tất cả giáo phái
của họ không có mục đích nào khác ngoài việc tôn thờ Thượng Đế hay ao ước vinh
quang và hạnh phúc đời sau hoặc công nhận hồn bất tử hoặc quả quyết mọi sự đều
chấm dứt khi thân xác chết. Tất cả lương dân phương Đông đều công nhận hai
nguyên lý này. Các giáo phái đếu phát nguyên từ kinh sách của một đại triết gia
và nhà siêu hình học trứ danh gọi là Thích Ca. Vị này còn có trước Aristote[86]
và không thua kém ông về tài trí và tinh thông các sự thiên nhiên. Với trí óc
minh mẫn, ngài suy nghĩ về thiên nhiên và sự thành lập vũ trụ. Ngài chiêm
ngưỡng nguyên lý và cứu cánh vạn vật, nhưng nhất là về bản thể con người làm
chủ lâu dài đại thế giới này.
Giáo thuyết ngài
Thích Ca công bố được người Trung Hoa đón nhận. Họ rất mong muốn được giải
thoát nên đã đón nhận giáo thuyết này và chủ trương thành mười hai giáo phái
khác nhau trong đó có một giáo phái được người ta theo và sùng hơn cả và là
phái chủ trương vạn vật là hư không họ gọi là Genfiu, thiền phái. Những người
theo phái này có tục cùng nhau hẹn ngày về miền thôn quê để nghe một vài thượng
tọa thuyết pháp về đề tài cực lạc.
Thế nhưng bây giờ
phải trở lại với người xứ Đàng Trong[87],
họ không đón nhận toàn bộ thứ giáo lý quá khích và phi lí chối bỏ hình thức bản
thể và quy mọi sự về hư không. Khắp nơi trong nước, tất cả đều công nhận hồn là
bất tử và do đó có phần thưởng đời đời cho người lành và hình phạt trường cửu
cho kẻ dữ, làm cho chân lý đó mờ nhạt đi vì đầy những điều vô lý và sai lầm.
Thứ nhất họ không phân biệt hồn người dữ tách rời khỏi thân xác với các thần
xấu và gọi tất cả là tà ma, và cho rằng không những thần xấu mà cả hồn người dữ
đều tìm cách làm hại người sống. Thứ hai là một trong những phần thưởng của hồn
người đã sống lành thánh đó à chuyển3 từ một thân này tới một thân khác tốt
hơn, trọng hơn, như từ thân xác một người dân thường đến thân xác một đế vương
hay quan cao cấp. Thứ ba là hồn người quá cố cần ăn uống và bồi dưỡng thân xác,
do đó đôi khi trong năm họ có tục dọn cỗ bàn thịnh soạn và long trọng, con cái
cúng tế cha mẹ đã khuất, chồng cúng tế vợ, bạn bè cúng tế người thân thích.
Chương 13: VỀ XỨ ĐÀNG NGOÀI
Trong năm năm[88]
ở Đàng Trong, tôi chuyên cần tìm hiểu và học để biết chắc chắn những gì liên
quan đến Đàng Ngoài; ngôn ngữ là ngôn ngữ chung vì cả hai xứ đều thuộc về một
quốc gia. Theo những câu chuyện những người từ Đàng Trong tới tỉnh Quy Nhơn,
nơi tôi thường trú, kể lại, tôi sẽ chỉ thuật lại những gì cần thiết cho việc
tìm hiểu xứ Đàng Trong và việc cai trị xứ này vẫn còn thuộc về Đàng Ngoài.
Về địa thế, không
kể Đàng Trong phụ thuộc vào Đàng Ngoài, thì gồm có 4 tỉnh có bề rộng và bề dài
bằng nhau, ở giữa là kinh thành của Đàng Ngoài, tên kinh thành này cũng là tên
cho cả nước[89], ở đây có triều đình và
có vua cai trị. Kinh thành thì ở giữa có bốn tỉnh vâyquanh như một hình vuông
góc, các tỉnh khá lớn, diện tích cả nước gấp bốn lần Đàng Trong. Phía Đông là
vịnh Hải Nam, giữa có con sông lớn, thuyền bè đi lại được, nó bắt nguồn từ tỉnh
Đàng Ngoài xa chừng 18 dặm, có một số thuyền Nhật Bản.
Nước sông này
thường dâng lên vào tháng sáu và tháng một, làm ngập hầu như cả nửa kinh thành,
nhưng lụt này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Về phía Nam thì gần Thuận
Hóa, như chúng tôi đã nói, thuộc về Đàng Trong; về phía Bắc thì giáp với Trung
Quốc, nhưng không cần có luỹ tường che chở, vì thế sự giao thông đi lại giữa
người Trung Hoa và người Đàng Ngoài rất thường xuyên, không cần tường luỹ,
không cần cửa đóng then cài, họ đều buôn bán với các người ngoại quốc khác. Sau
cùng, về phía Tây là nước Lào, nơi cha Alexandre de Rhodes người thành Avignon
thuộc dòng chúng tôi đã từ Đàng Trong mà tới[90].
Tôi cho rằng nước Lào cũng ở cạnh Tây Tạng là đất mới khám phá ra, tôi cũng cho
là Tây Tạng cách xa và rộng ở cạnh nước Lào, theo vị trí thì thấy hai nước này
đều rộng lớn. Cho nên tôi nghĩ là không thể có nước nào chen vào giữa hai nước
đó và cũng vì các cha đã tới đó đều khẳng định là tỉnh cuối cùng của Tây Tạng,
về phía Đông thì ở cạnh và thông thương với dân tộc bán nhiều tơ lụa và bát đĩa
bằng đất nung tinh xảo và quý như ở Trung Quốc với nhiều hàng hóa khác, mà
chúng tôi biết rằng là Đàng Ngoài có rất nhiều người thường bán cho người Lào.
Về việc cai trị ở
xứ này thì các vua chúa nối tiếp nhau như sau. Quyền tối cao của nhà vua thì ở
trong tay một người gọi là bua, thế nhưng vị này không dính vào việc nước, ông
trao tất cả quyền hành cho một người thân tín gọi là chúa với đủ mọi thế lực
rộng lớn và biệt lập, khi hòa bình cũng như lúc chiến tranh, đến nỗi vị này hầu
như không còn nhận ai là kẻ trên mình nữa. Nhà bua thì ngự trong đền, xa hết mọi
việc trong nước, chỉ giữ lại cho mình một sự tôn sùng bề ngoài như thể một vị
thần thiêng liêng với quyền ban hành luật pháp, chuẩn y sắc lệnh hay chỉ dụ.
Khi chúa mất thì bao giờ cũng để cho con mình kế vị trong việc trị nước; thế
nhưng thường xảy ra cái nạn, các người quản trị những người con đó cũng ham
chức vị và cho giết đi để tranh giành quyền làm chúa[91].
Thế lực của các
chúa rất rộng lớn, vì đi liền với một nước rộng lớn có dân số đông gấp ba hay
bốn lần dân Đàng Trong; còn quân đội thì như chúng tôi đã nói ở trên, có thể
lên tới 80.000 người. Nên không khó gì khi chúa muốn thì chúa có thể cho mộ
thêm cho tới 300.000 hoặc hơn với đầy đủ vũ khí, bởi vì các tướng lãnh trong
nước như ở nước chúng ta có các công hầu bá tước, họ phải tự lực cung cấp đủ cho
cuộc chiến tranh[92]. Còn lực lượng của nhà
vua thì không quá 40.000 binh lính hộ vệ; thế nhưng các chúa Đàng Ngoài và cả
Đàng Trong đều công nhận ông là kẻ bề trên và cả một chúa khác chúng tôi đã nói
ở phần một, ông này đã trốn lánh trong tỉnh giáp với Trung Quốc, mặc dầu ông
vẫn luôn làm ngụy[93].
Khi chúng tôi nói
vương quốc này theo dòng truyền kế thì chúng tôi cũng nói về nhà vua, bao giờ
cũng có thế tử kế nghiệp để giữ dòng truyền thống đế vương; đó là tất cả những
gì tôi muốn vắn tắt nói về Đàng Ngoài theo những điều tôi được biết khi tôi trở
về Châu Au.
KẾT
LUẬN
Bản tường trình
nhỏ mọn này không thể không kích động những người ít thích đi khám phá các lãnh
thổ mới và chỉ biết quý trọng xứ sở và đền đài riêng của mình, để họ có một ít
kiến thức, đó là trong thế giới có biết bao điều đẹp đẽ, những điều này, tuy
không vượt giới hạn của những điều tự nhiên, nhưng cũng có thể được gọi là
những phép lạ của thiên nhiên. Đó chính là điều tôi đã trình bày, bởi chính mắt
tôi đã thấy ở xứ Đàng Trong: lãnh thổ có khí hậu và các mùa khác nhau rất dễ
chịu để ở. Lãnh thổ có rất nhiều đồng ruộng thênh thang và phì nhiêu, với mọi
thứ lương thực, lúa thóc, trái cây, chim chóc và thú vật, biển thì vô số các
loại cá rất thơm ngon. Lãnh thổ có khí hậu rất trong lành và dân cư chưa biết
thế nào là dịch hạch. Lãnh thổ có rất nhiều vàng, bạc, tơ lụa, kỳ nam và các
thổ sản khác rất có giá. Lãnh thổ phát triển thương mại rất mạnh, nhờ có các
hải cảng và tất cả các quốc gia cập bến. Sau hết, lãnh thổ có dân cư dễ giao
du, có tình và rất mực quảng đại. Người ta có thể tiếp xúc và sống an toàn,
không những vì giá trị và đức can trường lớn lao của người Đàng Trong, được tất
cả các nước lân cận đều công nhận, vì có lực lượng quân sự và tất cả các thứ vũ
khí mà họ sử dụng rất tài tình và thiện nghệ không ai sánh kịp mà còn vì chính
thiên nhiên như đã bảo vệ họ, bao bọc họ, một bên là biển trời cho để làm hào
hố và một bên là dãy Trường Sơn Alpes và Pyrénées[94]
hiểm trở của Kẻ Mọi. Đó là phần lãnh thổ người ta gọi là Đàng Trong. Người bản xứ
thì thông minh đĩnh ngộ, họ dễ dàng và sẵn sàng đón tiếp hết các người ngoại
quốc đến xứ họ và rất dễ dàng để cho mỗi người sống theo luật lệ riêng của
mình, cũng không cần nghiên cứu tường tận về học thuật và chữ viết[95]
của họ trước khi giảng dạy họ, như các cha dòng ở Trung Quốc phải làm và tiêu
phí những năm đầu tiên là những năm tốt nhất, bởi vì chỉ cần học tiếng nói của
họ, thứ tiếng rất dễ, như chúng tôi đã viết, đến nỗi chỉ trong một năm là đã có
thể nói được dễ dàng[96].
Những người bản xứ còn rất dễ giao thiệp, họ không chạy trốn khi thấy người
ngoại quốc như các dân tộc khác ở các miền phương Đông.
Họ có đến chùa,
họ cúng tế và rước kiệu. Họ tin có hình phạt đời đời cho kẻ dữ và hạnh phúc
trường cửu cho người lành.
[2] An Nam, miền Nam
được bình định, chứ không phải miền Tây như Borri nói. Lý Anh Tôn được nhà Tống
tôn làm An Nam quốc vương. Đó là năm Giáp Thân 1164.
[4] Về ngành hàng hải, người Bồ và người Tây rất thành thạo. Người Hà Lan cũng
đã giỏi về thuật đi biển và người ta đã bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với những vĩ
tuyến, đường xích đạo. Vào thế kỷ 15, 16 trung tâm địa dư là ở Roma.
[5] Lúc này Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) làm chúa ở Đàng Trong tục gọi là
chúa Sãi. Như vậy ông cố tức là Nguyễn Kim thân sinh của Nguyễn Hoàng. Nguyễn
Hoàng (1600-1613), tục gọi là chúa Tiên.
[6] Kỳ lạ thay, Hiệp
định Genève đã coi vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam-Bắc
(1954).
[11] Theo bản đồ 1651: 1.
Quảng Bình (Dinh Công); 2. Thuận Hóa (Dinh Cả); 3. Quảng Nam (Dinh Chiêm); 4.
Quảng Ngãi; 5. Quy Nhơn (Nước Mặn, Nước Ngọt); 6. Phú Yên (Ranran, Dinh Phó An)
[12] Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, de Pina tới năm 1617 và Borri với Marquez
tới năm 1618. Cha De Pina rất thông thạo tiếng Việt và là thầy dạy De Rhodes
sau này.
[15] Theo Kinh Thánh, sau khi phạm tội ăn trái cấm, tổ tiên thấy mình trần
truồng và phải lấy lá che thân.
[20] Món hạnh nhân tán
nhỏ hòa với đường, rồi để vào tủ lạnh, món ăn rất sang của người Châu Au vào
thời này.
[26] Nước sốt (sauce),
một thứ nước dùng riêng đằng đặc gồm nước thịt và mỡ béo để tưới vào các thức
ăn khô và nhạt.
[30] Chim yến, tổ yến.
“Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cả con trong biển, rồi
đêm đến nhả nước dãi thành những vành tròn hình xoáy ốc để xây tổ (Đỗ Tất Lợi:
Những cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam, Hà Nội 1981, tr.945)
[31] Vào thế kỷ 15, 16,
17 người Châu Au qua phương Đông nhất là Trung Quốc để buôn hồ tiêu và tơ lụa,
vì thế có con đường gọi là con đường tơ lụa (route de la soie)
[33] Chúng tôi chưa
nghiên cứu xem danh từ này có nghĩa thế nào. Nếu là lim thì theo Đỗ Tất Lợi,
sách dẫn, là những thứ cây mọc phổ biến của nước ta, nhất là tại những khu rừng
miền Bắc và miền Trung. Còn thấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc. Thường người ta
khai thác gỗ làm nhà, làm đồ dùng. Có thể cao hơn mười thước hoặc hơn nữa (tr 361)
[36] Đồng tiền này thường đúc bằng vàng vào thế kỷ 13 tại Venise (Ý) lúc đó là
một cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng. Líu: livre, tức nửa cân.
[41] Theo Đỗ Tất Lợi, sách đã dẫn: “da nhẵn không sùi màu, biểu bì có rãnh nhỏ
chia làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với
nhau bởi nhiều nếp, nếp trước và sau vai cũng như nếp trước đùi kéo dài qua
lưng. Nếp gáy tương đối kém phát triển. Màu da xám thẫm toàn thân” (Sd, tr.984) Thường
có một sừng, nhưng cũng có tê giác hai sừng, Sd tr. 985
[44] Cách thứ hai: một thứ võng? Cách thứ ba: khó tưởng tượng ra được, một thứ
bục. Phải tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà vào thế kỷ 17, nhất là miền Nam lúc
đó.
[45] Về y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho rõ. Trong câu ngạn ngữ thường thấy “Mớ
bảy mớ ba”, có thể nghĩ như vậy.
[46] Cũng thế, y phục phái nam thời đó trong địa phương đó, như đã nói, có thể
có ảnh hưởng người Chàm.
[47] Một trong những điều xin Tòa thánh chuẩn là dâng Thánh lễ đội mũ như cách
thức người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ cũng đội mũ. Đức Piô V (1504-1572) làm
giáo hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng Đaminh và làm quan toà Inquisition trước
khi ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực thi công đồng Trente, ban hành sách Giáo lý
công đồng Trente, sửa lại sách Kinh nguyện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong
hiển thánh năm 1712.
[49] Thời đó, bên Châu
Au, linh mục ra ngoài đường phố thì khoác thêm một áo choàng. Philipphê Bỉnh có
nói tới tục này trong sách “Sổ Sang chép các việc”.
[55] Theo lịch sự, thì
cho dù mình không thích nhưng cố gắng dùng và khen cái mối thịnh tình của người
ta.
[56] Không phải là canh,
cũng không hẳn là cháo, nhưng là thứ “potage” bằng nước thịt hay nước các thứ
rau nấu chín.
[57] Mercurialle, theo Đỗ
Tất Lợi thì có Mercurialis indica Lour (lộc mai) thuộc loại thầu dầu, không
biết có phải vậy không?
[58] La rhubarbe. Đỗ Tất
Lợi, sd, về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp người ta làm mút với thân cây
này.
[59] Nhưng thực ra có hoàn toàn như Borri nói không? Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn
cũng bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi.
[61] Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca thế kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2 tr.c.n,
Ciceron nhà hùng biện đại tài thế kỷ 1 tr.c.n.
[62] Thời đó người ta còn dùng Latinh để giảng dạy ở các trường đại học, còn
tiếng mẹ đẻ thì mới manh nha.
[63] Kinh là kinh điển như Tứ thư, Ngũ kinh, còn sách là sách viết thông dụng
không thuộc kinh điển.
[66] Động từ tiếng Pháp
avoir (có) j’ai (tôi có), tu as (anh có), il a (nó có), nous avons (chúng tôi
có), vous avez (các anh có), ils ont (chúng nó có).
[67] Một động từ avoir có
thể thay đổi hình dạng rất nhiều tuỳ theo khi nói về hiện tại, quá khứ, tương
lai, nghi vấn, truyền khiến v.v…
[69] Ở Châu Au nhà vua
ban bổng lộc cho công hầu bá tước bằng đất đai thuộc quyền sở hữu của họ và họ
có thể truyền lại cho con cháu. Ở Việt Nam, họ chỉ được lợi tức, nghĩa là thay
mặt vua thu thuế các hộ, hoặc một trăm hoặc một nghìn hay hơn nữa. Họ không có
quyền để lại cho con cháu, nhà vua vẫn giữ quyền sở hữu.
[72] Coi Pierre Yves
Manguin, Les Portugais sur les côtes du
Viet Nam de du Campa EFEO, 1972. Tác giả chứng minh cụ thể là vào thế kỷ
16-17 thương gia người Bồ, Hà Lan thường đi dọc bờ biển Đàng Trong, rồi chiếu
thẳng đi Macao hay Nhật Bản, ít khi lên tới Đàng Ngoài. Vì thế trong một thời
gian, chưa ai để ý tới xứ Bắc.
[73] Bên Châu Au người ta dùng tù binh khổ sai để chèo thuyền, vì thế nói đến
galères là nói hình khổ nhục nhã, trái với Việt Nam, chèo thuyền chiến là việc
của quân binh thiện nghệ.
[74] Trong Lịch sử Đàng Ngoài, De
Rhodes nói rõ hơn tại sao người Việt Nam không thành thạo ngành hàng hải, mặc
dầu có nhiều bờ biển và nhiều hải cảng tốt, xem sd. ch.16, phần 1.
[77] Hội An ở phía bắc
sông Thu Bồn, gần cửa sông Cửa Đại. Hàng từ sông Thu Bồn, sông Vĩnh Điện, sông
Trường Giang chuyển đến cũng dễ dàng.
[78] Các vua Bồ, Tây, Pháp thời đó thường xưng mình là các vua hay hoàng đế công
giáo (les rois catholiques).
[82] Trình độ nghiên cúu lịch và khoa học thiên văn của ta thời đó khá thấp kém.
Xem Hoàng Xuân Hãn, Lịch và Lịch Việt Nam, tập san KHXH Paris 1982, tr.54-58.
[84] Hẳn không ngoa vì trình độ khoa học, cơ giới của ta thời đó quá thấp, ngay
cả chúa Sãi cùng cận thần cũng không hơn.
[85] Có thể lúc này Sãi vương có mặt ở Quảng Nam, vì ngài ở Ai tử thuộc Quảng
Bình. Như vậy Borri thuật lại vụ nguyệt thực ở Quy Nhơn (Nước Mặn) và Quảng Nam
nữa, lúc này có De Pina.
[86] Borri sánh Khổng Tử với Aristote, ở đây cũng coi Phật tổ như nhà hiền triết
Hy Lạp đại tài Aristote.
[88] Lại một lần nữa, chúng ta xem năm 1622 là năm Borri bỏ Đàng Trong chứ không
phải năm 1621, Đỗ Quang Chính cũng sai vì chỉ cho Borri ở Đàng Ngoài trong 3
năm, chứ không phải 5 năm (xem: Sd, tr. 27)
[89] Từ đời Lê, đổi Đông Đô thành Đông Kinh, và người ngoại quốc gọi xứ Bắc là
Đông Kinh (Tunquim, Tonquin, Tonkin)
[90] Thực ra không bao giờ De Rhodes tới Lào, chỉ có Raphael de Rhodes là người
con tinh thần của Alexandre de Rhodes đã tới Lào rồi lập nghiệp ở xứ Bắc (xem
Lịch sử việc truyền giáo Tây Tạng của Launay)
[91] Thực ra chưa bao giờ xảy ra, con các chúa Đàng Ngoài thảy đều kế nghiệp
cha: Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn…
[92] Chế độ phong kiến ở Bắc cũng khác chế độ phong kiến ở Châu Au. Các công hầu
bá tước chỉ có quyền trong khi sống, sau đó thuộc về nhà vua nhà chúa; các hoạn
quan đứng đầu một tỉnh, sau khi mất thì thuộc về nhà vua; khi có đám rước thì
chúa đi voi, còn vua đi kiệu; nhà chúa tổ chức hết các cuộc đón tiếp phái đoàn
ngoại giao, các cuộc thi đua tập dượt, trừ có phái đoàn ngoại giao Trung Quốc
thì thuộc về nhà vua.
[95] Chữ nho rất khó đọc đối với người ngoại quốc. Tiếng Việt tương đối dễ học,
nhất là khi đã dùng thứ chữ phiên âm hay quốc ngữ.