Nguyễn Quang
Bài học lịch sử: còn làm người, còn sợ…
Còn làm người, còn sợ, nhất là đối với nạn nhân chiến
tranh, chiến tranh mang đến mọi thứ gọi là văn minh, nhưng nó cũng lấy
đi mọi thứ kể cả văn hóa. Tại Việt Nam, hòa bình lại đáng sợ hơn khi bản
chất con người biết mang ơn và thích trả thù nghiệt ngã. Họa sĩ Phạm
Cung có một bức họa sau bảy lăm, họ trả thù bằng cách nướng chim của một
sĩ quan thuộc phe miền Nam và tại thôn An Mỹ, miền Trung Việt Nam đã
xảy ra chuyện một xã trưởng bị nhốt trong chiếc lồng sắt, đám đông vây
chung quanh gồm toàn du kích nhảy múa, họ dùng giáo mác đâm từng nhát hả
hê vào nạn nhân, máu phun tung tóe và hát bài ca cách mạng, tung hô
lãnh tụ.
Nhưng càng giết người các bạo chúa càng trở nên sợ hãi, ám
ảnh sợ người, đây có thể nói là tâm trạng chung của các lãnh tụ độc
tài, và càng sợ người họ càng giết người để được an tâm trong sự cai trị
độc đoán nhằm thoả mãn các tham vọng của họ hơn là thực hiện các khát
vọng của công dân. Chính từ sự giết người như một kế sách để tồn tại
trong các chiếc ghế quyền lực, nên trong chiến tranh các công dân vô tội
trở thành nạn nhân của những bóng đêm kinh hoàng luôn phủ trên người
họ.
Thanatophobia - Càng đạt được quyền lực con người
càng thêm ưu tư lo lắng bảo vệ ngôi vị của mình trong ám ảnh sợ mất tất
cả, thứ ám ảnh sợ chết do mất uy quyền. Mọi thứ sao dễ tan vỡ vì không
thể có sự đồng lòng của hàng vạn người đối với một người, quý hồ cả
triệu người sẽ như một, nhất là trong miếng đỉnh chung không thể thoả
lòng hết bá tánh. Không ai xác quyết sau cái chết con người sẽ về đâu,
vì thật sự nếu ai đó có hiểu được phần nào, chắc chắn không người nào
chạy theo quyền lực trần thế vì cùng lắm cũng chỉ được như Tần Thuỷ
Hoàng. Bạo chúa này cũng chỉ mang theo cung tần mỹ nữ và đám âm binh
toàn là bằng tượng đất. Tất cả trong sự thể hiện tính thể về mặt nhà
nước, đều có dịp cho người hậu thế chứng kiến các thứ nhà nước, rồi ra
chỉ là hư ảo với quyền lực thế gian.
Còn đối với người dân là nạn nhân chiến tranh, những
ai phải ở lại nơi chôn nhau cắt rốn, thường là những người đã lớn tuổi
hay còn trẻ nhưng mang đầy thương tích chiến tranh, họ luôn nghĩ đến
đoạn đường như quá thoáng nhanh đã trải qua, rồi những ngày sắp đến với
tuổi già mà niềm tin và hy vọng dường như đã tan biến.
Nên quả thật họ không biết sẽ có ngày gia đình sum
họp hay không, hoặc lại về với ông bà trước rồi lần lượt những người
khác sẽ cùng về sau. Hằng ngày tiếng bom cùng đại pháo, súng lớn súng
nhỏ… hậu quả của những âm thanh chiến tranh cũng đủ biến các công dân
thành điên loạn. Cái chết trở thành Đấng cứu chuộc trong nhiều trường
hợp nếu chẳng may rơi vào tình cảnh dở sống dở chết, hai tay hai chân
không còn hay chột cả hai con mắt mà tứ chi cũng không còn. Khoa học đã
làm những điều không thiện trong trường hợp này.
Nhiều chứng nan y như đường ruột, tim mạch, suyễn,
phổi… mọi thứ đều có trong chiến tranh. Có những đoàn quân miền Bắc trên
đường tiến vào Nam trúng phải bom mìn, họ đã chết không người thu dọn,
hậu quả không biết bao mầm bệnh cùng nạn dịch cho các cư dân quanh vùng,
nhất là đồng bào dân tộc còn sống du cư, du canh trong thưở ban đầu khi
cuộc chiến khởi phát.
Qua những sự phòng thủ, vũ khí cùng đội quân bảo vệ
cho các lãnh tụ các quốc gia, đủ biết rằng họ luôn mang theo mình nỗi ám
ảnh lo sợ thực hiện. Nghĩa là nỗi ám ảnh về cái chết, bị đảo chánh, ám
sát, dùng bom tự sát… Những thứ đó biến thành sự thực như lo sợ mất ngủ
và mất ngủ thật. Sinh hoạt của Hitler, Staline… thường đều có giấc ngủ
muộn vào sáng hôm sau, vào ban đêm có khi phải họp nội các nên các bộ
trưởng thời Staline hầu như thường thức suốt đêm vì không biết lúc nào
tên bạo chúa này gọi dậy để báo cáo. Còn Hitler vào một buổi sáng khi
thức dậy nhìn sang đại sảnh đường nơi mọi người đang tập trung để nghe
ông diễn thuyết, Hitler đã dùng ống nhòm và thấy rõ một Hitler như thật,
tất nhiên là giả đang thao thao bất tuyệt, múa tay múa chân và khán giả
vỗ tay liên hồi… Quả là ‘thiên tài hay làm việc về đêm’ như lời người
đời hay dí dỏm. Họ thức suốt đêm vì những lo toan, ám ảnh nhiều nhất
vẫn là cái chết cùng sự sụp đổ của chế độ.
Người dân - nạn nhân chiến tranh thì mất ngủ là
chuyện thường tình, họ mất ngủ thật... lý do bom rơi đạn vãi luôn rình
rập họ. Thần chết không từ sự sợ hãi vì mất quyền lợi nhưng do hậu quả
sự hủy diệt người của tầng lớp thống trị. Họ nghĩ vẫn vơ về mọi thứ,
những ý tưởng cứ đến liên tục và cứ thế cho đến gần sáng mới chợp mắt
được. Trong bóng đêm như có kẻ khủng bố luôn rình rập bên ngoài cửa, dù
chỉ có thể vào một đêm bất hạnh nào đó như đã từng xảy ra với nhiều gia
đình trong làng, cũng có thể sẽ đến phiên họ. Nỗi ám ảnh sợ mất ngủ và
cố gắng ngủ, nhưng đêm nào cũng đến gần sáng mới chợp mắt được. Nó giống
như một sự chờ đợi cái kinh hoàng, một thất bại lớn nhất trong cuộc đời
mỗi người, biết chắc là như thế nhưng không tránh được. Cái gọi là
không tránh được – nó khả dĩ hoàn toàn tránh được nếu đồng loại không vì
tỵ hiềm, lòng tham và thích giết hại người. Trong bao dung thể tưởng
chừng dễ vứt bỏ nhưng cho đến khi nhân loại vẫn còn hai chữ thiện ác thì
nó vẫn còn trong sự phản diện của hai mặt đối lập một cách tương sinh, đầy biện chứng.
Nạn nhân chiến tranh rơi vào tình huống nầy, đó là
hay nghi ngờ các sự việc đã làm không biết có quên thực hiện hay không,
như phân vân không biết đã làm dấu thánh trước khi rời khỏi Nhà nguyện
hay đã vái Phật hay chưa trước khi rời khỏi Chùa, họ lẩm nhẩm các phép
tính đã làm, thư đã dán phong bì rồi bốc ra dán lại nhiều lần vì nghi
ngờ không biết có gửi đúng hay không. Sự kiểm tra nhiều lần cũng không
làm người bệnh yên tâm và buộc họ phải tiến hành kiểm tra một cách liên
tục trong sự ám ảnh nghi ngờ.
Khoảnh khắc tưởng có hòa bình, văn hóa phát triển ở
miền Bắc, nhưng rồi vụ nhân văn giai phẩm 1961, đảng Lao Động Việt Nam
thay đổi thái độ đột ngột vào đầu tháng 11 khi các báo của đảng bắt đầu
chỉ trích Nhân Văn và Giai Phẩm bằng những luận điệu cực kỳ gay gắt và chụp mũ. Đồng thời chính quyền bắt đầu làm những áp lực hành chánh đối với Nhân Văn trong việc ra báo. Cuối cùng tờ báo bị đóng cửa vào cuối năm 1961.
Sự thay đổi thái độ này trong ám ảnh nghi ngờ sợ mất quyền lực của đảng có vẻ là vì hai nguyên nhân. Thứ nhất Nhân Văn
bắt đầu mở rộng những chỉ trích của mình ra ngoài lãnh vực văn nghệ
sang lãnh vực chính trị và càng ngày càng tạo ra ảnh hưởng đối với quần
chúng. Thứ hai, cuộc nổi dậy của dân chúng Hungary chống lại chế độ Cộng
Sản đã làm cho đảng Lao Động lo sợ và quyết định phải có hành động
quyết liệt để ngăn chặn một chuyện như vậy xảy ra tại Việt Nam.
Nhân Văn Giai Phẩm đều
bắt đầu hướng những chỉ trích của mình không chỉ trong lãnh vực văn
nghệ mà sang cả chính trị, trong đó Trần Đức Thảo viết rằng “chính bệnh
quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là những di tích của chế độ cũ
trong tổ chức mới. Đấu tranh chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của nhân
dân và đường lối của Đảng, một trọng tâm công tác để đẩy mạnh công cuộc
kiến thiết kinh tế và văn hóa, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội” và
đòi hỏi rằng “nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá
nhân”.
Aichmophobia – ám ảnh sợ vật nhọn đâm vào chính mình,
có lẽ điều ám ảnh nầy dành cho phía cán bộ đảng viên nhiều hơn cả đến
nổi họ nghiêm cấm các công nhân không được giữ bất cứ loại vũ khí nào,
và công việc kiểm tra hầu như xảy ra thường xuyên tại tại các địa
phương. Hậu quả của những vụ trấn áp với lý do không được dùng các loại
gươm giáo nầy đã dẫn đến không biết bao nạn nhân bị vào tù do các cá
nhân lợi dụng để trả thù, ngay cả việc chôn giấu vũ khí vào nhà vườn
người khác để vu oan, mọi công dân đều có thể trở thành nạn nhân chiến
tranh do sự chụp mũ của thành phần thống trị mới. Quả là trong nỗi ám
ảnh nầy vì tập đoàn lãnh đạo phải lo cho chính bản thân của họ, các bạo
chúa bao giờ cũng sợ nhất là những cuộc bạo loạn mà đối tượng đầu tiên
bị nhắm đến trước tiên chính là giai cấp thống trị.
Nhà báo Nguyễn Hữu Đang chỉ trích tính cách “gia đình” của đảng và nêu gương Liên Sô như sau:
“Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội
với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý pháp luật cũng như sửa
đổi hệ thống và lề lối xét xử của tòa án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn
kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô còn phải đặt vấn đề pháp trị một
cách nóng hổi như vậy? Chính là vì trong bao lâu Stalin đã lạm dụng
quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính trị
mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi
thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp
ủy Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và
đảng viên tốt - kể cả Trung ương ủy viên của Đảng - đã bị tù đầy, bắn
giết oan trong tình trạng đó? Cho nên Đại hội đã phải quan tâm đặc biệt
đến việc bảo vệ chế độ pháp trị, nó là hiện thân của tinh thần nhân văn,
tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước văn minh”.
Panphobia - ám ảnh sợ tất cả, đây
là tâm trạng chung của các nạn nhân chiến tranh nhưng cũng là thứ ám
ảnh như thứ bóng đen luôn đè nặng trên các lãnh tụ độc tài, chỉ có rất
ít và có lẽ cũng chỉ với một vài quân vương nào đó theo dòng lịch sử là
biết sợ chính mình, không có kẻ nào lên hàng lãnh tụ mà không ‘ưu thắng
liệt bại’, nghĩa là không có sự triệt hạ con người, thậm chí giết cả
triệu triệu người trong chiến tranh. Tất cả đều mang nỗi ám ảnh sợ đủ
thứ... nghĩ đến sự thất bại cuối cùng đến cái chết vẫn còn ám ảnh sợ vì
không thể trở thành lãnh tụ mà không giết người.
Theo nhân văn giai phẩm, vì lòng khinh bỉ của chúng
ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở
thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung. Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài
và gian khổ, chúng ta đã quen giải quyết mọi công việc to nhỏ trong
không khí gia đình, với tinh thần tùy tiện. Chúng ta đã quen dùng cái
“linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được mỗi khi vấp phải điều quy
định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật
lệ cụ thể.”
Anthrophobia - ám ảnh sợ người, đây có thể nói là tâm
trạng chung của các lãnh tụ độc tài, và càng sợ người họ càng giết
người để được an tâm trong sự cai trị độc ác nhằm thoả mãn các tham vọng
của họ hơn là thực hiện các khát vọng của công dân. Chính từ sự giết
người như một kế sách để tồn tại trong các chiếc ghế quyền lực, nên
trong chiến tranh các công dân vô tội trở thành nạn nhân của những bóng
đêm kinh hoàng luôn phủ trên người họ.
Các nạn nhân không chỉ sợ vũ khí mà thấy bóng dáng
con người trong những bộ quân phục nhất là thứ màu đen của du kích là
hồn vía của họ đều lên mây. Mùi thuốc súng, mùi của lửa, mùi tanh của
thịt sống từ sự nát thây do bom mìn văng tung toé thành từng miếng thịt
nho nhỏ, có thể treo lủng lẳng trên các mái nhà, trước sân trên giàn bí,
giàn bầu… Nó khiến con người khi trực kiến các thảm cảnh, tính khí từ
đó sẽ khó còn bình thường. Ngoài ra với những người sống sót sau những
vụ thanh trừng, ám sát với ngay chính người thân mà họ chứng khiến: Ôi
những người ra lệnh phần lớn là những ông nội nằm vùng hoặc lẩn trốn
điều khiển từ xa, còn những kẻ thừa hành toàn là những trai trẻ du kích
địa phương, nhưng trước cách tàn bạo của những con người này ai cũng
trong ấn tượng, chúng ta cùng sinh ra trong cùng một giống nòi có gene
của sự ác ?
Nạn nhân chiến tranh trong trạng huống ám ảnh hồi ức
hay nhớ lại một sự kiện hết sức khó chịu, một sự đau khổ trong quá khứ
làm cho họ xấu hổ, hối hận và cố gắng quên đi nhưng không sao quên được.
Yếu tố thời tính đã chứng minh theo thời gian, thời
hậu chiến, ngay cả những kẻ từng điều khiển chiến tranh cũng trở thành
những nạn nhân chiến tranh. Mặc cảm tội lỗi, tội giết người và nhất là
để chiến thắng, qua tuyên truyền phải đạt đến đỉnh cao trí tuệ của sự
ngụy tín đến vong thân vì chứng nói láo! Không một chính trị gia nào là
người nói thật và đã nói thật sẽ không là chính khách!
Họ nhớ lại quá khứ và trở nên trầm uất, hình ảnh con
người giết nhau – hữu thể không còn thể hiện tính người, con người nhìn
nhau trong cái gọi là hận thù giai cấp: con người không còn ngồi chiêm
niệm thế giới, không cần cầu nguyện cho nhau, nhưng từ đây đi chuyển
biến thế giới, từ đây hãy học biết giết người.
Monophobia - ám ảnh sợ cô đơn, một khi những vùng
nông thôn xa xôi trở thành những khu trù mật, về sau với hình ảnh chung
quanh làng trở thành những hàng rào ấp chiến lược và rồi đến các khu tái
định cư cũng trong bờ rào kẽm gai, những người dân ngoài độ tuổi phải
vào quân ngũ, họ nằm nhà thường không có việc gì khác hơn đi lãnh đồ
viện trợ. Sự cô đơn trống vắng với thân phận con người khi phải nằm chờ
một cái gì đó mà chắc chắn không phải là nền hoà bình vĩnh cửu, song cái
chết lại dễ xuất hiện nhất, cho dù được chuẩn bị sẵn sàng với những
người có đức tin tôn giáo. Nó vẫn là một không gian thật tối tăm không
ai biết được cho đến khi con người không còn ý thức và ra đi.
Mỗi buổi sáng và chiều, nơi các trại định cư với
người Ki Tô giáo hầu nhưng không người nào bỏ sót lễ misa, họ đến các
nhà nguyện nhỏ trong các khu nhà xây tạm để dâng lễ, dọn đường cho cái
chết thanh thản và trước mắt là có được ít ra sự bình an trong ngày. Và
quả vậy những người có đức tin Ki Tô giáo họ có đau xót trước sự ra đi
của người thân ngày càng nhiều trên chiến trường, nhưng họ đều như không
la lối hay than vãn cho dù ánh mắt kia có ngập dòng lệ. Hãy trao cho
con người ước mơ và hy vọng, đó cũng là sự góp phần vào việc tạo dựng
hạnh phúc cho nhân loại!
Trong chiến tranh, bọn cai thầu đã làm băng hoại xã
hội dân sự, họ tạo ra những bồi bút, những dư luận viên, báo cáo viên
với nhiều bài tham luận, phóng sự bóp méo sự thật, mạ lỵ vô cớ, gây chia
rẽ và tạo sự nghi ngờ đối với những người khác lập trường của họ. Cuộc
chiến tranh tuyên truyền và phản tuyên truyền dẫn đến một xã hội tha hóa
đạo đức lâu dài cho dân tộc đó: “Nói láo, nói láo, nói láo mãi khiến
con người hoài nghi về một chân lý, hoặc lộng giả thành chân”, như thế
là đã thành công của nền trị chính bá đạo.
Theo Pascal: “Con người là một cây sậy biết suy
nghĩ”. Tư duy là một quá trình hoạt động tâm thần phức tạp, là hình thức
cao nhất của quá trình nhận thức. Hoạt động của tư duy gồm có: phân
tích, tổng hợp, so sánh, khám phá và trừu tượng hoá, phán đoán suy luận
và cuối cùng tìm ra kết luận.
Nhân văn giai phẩm và ngày nay qua mạng xã hội… như
tiếng nói lương tri của con người, nhưng sự rối loạn nội dung tư duy
trong hàng ngũ lãnh đạo đầy tham vọng quyền lực Hà Nội, vốn từ các định
kiến còn gọi là ý tưởng quá đáng. Định kiến là những nhận định phát sinh
trên cơ sở những sự kiện thực tế nhưng về sau chiếm một vị trí trong ý
thức không phù hợp với ý nghĩa của nó và có kèm theo một tình trạng cảm
xúc mãnh liệt. Người mang chứng bệnh luôn luôn nhớ tới việc đó tỏ ra bực
tức, đau khổ, và tìm cách phản ứng trả thù. Người bệnh không thấy chỗ
sai của định kiến nên không có sự đấu tranh phê phán lại và luôn tìm
cách trả thù, nhưng cũng có rất ít trường hợp với thời gian gặp hoàn
cảnh thuận lợi định kiến sẽ mờ nhạt dần và mất hẳn.
Định kiến khác với hoang tưởng là sự xuất hiện của nó
không kèm theo biến đổi nhân cách. Thường gặp trong các trạng thái trầm
cảm tự ty, cho mình có phẩm chất cao hơn người, hoặc mặc cảm xấu xa như
vụng trộm về tình ái, tiền bạc, nhiều khuyết điểm, và từ thứ mặc cảm
tội lỗi này luôn tạo ra thứ chính nghĩa nào đó như bình phong bên ngoài.
Quả là những ý nghĩ, hồi ức, nghi ngờ, hành
vi và động tác... không phù hợp với thực tế, xuất hiện trên người bệnh,
cũng như các lãnh tụ với tính chất cưỡng bức. Người bệnh ý thức được đó
là do bệnh tật, biết đó là sai, tìm cách xô đuổi nhưng không sao thắng
được.
Tiến sĩ Kissinger nghĩ rằng mình ở thế mạnh của một
siêu cường đã áp lực lên Tổng thống Thiệu phải ngồi vào bàn hội nghị và
phải ký kết Hiệp định Paris, nếu không như đe dọa của Tổng thống Nixon
sẽ “chặt đầu Thiệu”. Còn Ông Thiệu từng tuyên bố khi thăm miền Trung,
thấy dân chúng bị chết oan quá nhiều qua những chiến dịch ám sát giết
hại dân lành của cộng sản đã thốt lên “Chặt, chặt…thấy cộng sản là
chặt…”.
Các công dân sống dưới chế độ cộng sản nhiều người
vẫn còn lương tri nhưng họ không thể nói khác hơn và chắc chắn phải hành
động hoàn toàn trái với sự phát triển tự nhiên của con người. Con người
từ đây không còn chiêm niệm thế giới nữa, nhưng là chuyển biến thế
giới, nhưng thế giới như một cây cổ thụ đã che lấp cả những người gọi là
vô sản vì cái bề dày lịch sử của nó, nhất là tại Việt Nam những con
người giành chính nghĩa cho mình từ thứ chủ nghĩa này, đó là những thành
phần bất hảo cùng nhau vào hang Pắc Pó, để gọi là dựng cờ cứu nước, ăn
cướp mà đền ơn, cả cướp chính quyền và cả việc ăn cướp để đền ơn đáp
nghĩa về sau, trong bối cảnh như dân gian truyền ‘được làm vua thua làm
giặc’, đó chính là bao niềm kinh hãi với người dân từ sự sợ hãi thông
thường – phobia đến thanatophobia, monophobia, anthrophobia,
aichmophobia…
Thay vì nói ‘Các con đừng sợ’ ! Hãy bảo nhau rằng
phải biết sợ trong chế độ bạo tàn mới có thể sống sót được và rồi vượt
qua sự sợ hãi để làm nên những giá trị theo phẩm cách làm người hầu
hướng đến những giá trị siêu nhiên.
Huyền thoại và ước mơ như những yếu tố muôn đời của
con người hướng đến điều gì trong hy vọng sẽ đạt được và thường khi vẫn
chỉ là mơ ước. Nhưng nhân loại hết huyền thoại đến thần thoại để luôn
nuôi dưỡng tinh thần con người tiếp tục hành trình đến chân thiện mỹ.
Miền Nam Việt Nam trước khi nội chiến tương tàn, quân
đội miền Bắc vào xâm lược miền Nam, đây là một đất nước Tự Do dù chỉ là
khởi đầu của một nền dân chủ hạn chế, nhưng xã hội trên đà phát triển
kinh tế phồn vinh, một thời thái bình thịnh trị của miền Nam Việt Nam,
nhưng hạnh phúc đến với người dân Việt dường như suốt theo dòng lịch sử
chỉ là một thoáng qua.
Giấc mơ về cuộc chiến chấm dứt, về một nền hòa bình
vĩnh cửu hầu như chỉ là khúc nhạc dạo trong trường ca lịch sử bao gồm
những cuộc chém giết lẫn nhau.
Bài học lịch sử của người Việt, đó là xin đừng nhân
danh về bất cứ gì để giết người. Giết người dù bất cứ lý do gì cũng là
tội ác! Thay vì triệt hạ con người, hãy cứu người! Thay cho dục vọng khả
giác là tình yêu chân thật! Hãy tránh xa mê mờ thay bằng minh tuệ! Đó
là bước khởi đầu biết cùng nhau tôn trọng nhân phẩm con người.
Nguyễn Quang
(Trích từ tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình VN
của cùng tác giả, với nội dung không mô tả cuộc chiến, không nói về ai
thắng ai, nhưng viết về các nạn nhân chiến tranh, đồng bào là kẻ chiến
bại! Sách hơn 1000 trang.)