Trần Duy Nhiên
CÔNG BÌNH XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
Công bình xã hội là điều mà truyền thống Việt Nam nâng lên thành một
‘đạo’, như trong câu nói đã biến thành tục ngữ: “Công bằng là đạo
người ta ở đời.” Nhà Nước Việt Nam hiện nay cũng ưu tư về vấn đề này
nên đề ra chủ trương: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển. [20]
Từ nhận định này, thử nhìn lại một số thực trạng trên đất nước.
1. Kinh Tế - Xã Hội.
Ngày 11-09-2006, ông Lê Anh Sơn, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược
Phát triển, đã phát biểu như sau tại buổi họp báo trong khuôn khổ
diễn đàn của Ủy ban Kinh tế APEC:
“Lấy hệ số bất bình đẳng làm trục tung, tăng trưởng kinh tế làm
trục hoành thì VN có mức tăng trưởng cao và công bình xã hội tốt
nhất APEC”[21]. Nhận định của ông đặt cơ sở trên số liệu. Nhưng
những con số cũng có thể đánh lừa mình! Việt Nam có thể tự hào vì
mức tăng trưởng kinh tế khoảng 8% và thu nhập bình quân đầu người
năm 2006 đã lên đến trên dưới 700UDS…[22]
Tuy nhiên nếu nhìn theo một khía cạnh khác thì lời phấn khởi trên
lại làm cho ta lo ngại. Trong kỳ họp APEC, số liệu về thu nhập bình
quân đầu người của 21 nước thành viên nêu lên nước cao nhất là Hoa
Kỳ với 41.800 USD và nước thấp nhất là Việt Nam với 620 USD.[23] Với
tốc độ tăng trưởng 8% so với Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng 3,1%, thì Việt
Nam cảm thấy hài lòng; mà không để ý là 8% và 3% của bao nhiêu. Và
mục tiêu nhắm đến là thu nhập 875 USD vào năm 2010.
Nhưng thử làm một con tính. Vào năm 2010, khi Việt Nam đạt được 875
USD nhờ tốc độ phát triển đều đặn là 8%; thì với tốc độ 3%, Hoa Kỳ
sẽ đạt 47.046 UDS. Nghĩa là trong khi người Việt Nam tăng được 230
USD thì người Mỹ tăng 5.346 USD.
Muốn đạt số thu nhập phụ trội đó (5.346) của Hoa Kỳ thì Việt Nam
phải giữ tốc độ tăng trường 8% liên tục trong 19 năm nữa kể từ 2010,
nghĩa là vào năm 2029 thì người dân Việt Nam mới có thu nhập là 5200
USD. Trong khi đó, với tốc độ 3% thì bấy giờ người dân Mỹ đã lãnh
đến 82.500 USD.
25 năm nữa, thế hệ con em sẽ có hai cái nhìn trái ngược nhau: Một là
tự hào tuyên bố rằng sau bao nhiêu năm giữ vững tốc độ tăng trưởng
vào hàng đầu thế giới thì thu nhập của người Mỹ chỉ còn gấp 15 lần
thu nhập người Việt (82.500/5.200), trong khi đó, 25 năm về trước,
người Mỹ thu nhập cao hơn người Việt đến 67 lần (41.800/620). Hai là
đau đớn thấy rằng 25 năm về trước thu nhập của người VN kém người Mỹ
41.000 USD mỗi năm, mà 25 năm sau người Việt kém người Mỹ đến 77.200
USD. Và tùy theo cách nhìn mà thế hệ con em sẽ ca ngợi hay trách móc
thế hệ cha anh mình.
Ngay cả con số 700 USD bình quân đầu người cũng phải nhìn lại theo
quan điểm công bình xã hội, để không bỏ qua cái thực trạng là thu
nhập của người dân nghèo chỉ có 200 USD. Đối với giới công nhân lao
động, thu nhập hàng tháng dưới 800.000 đồng, có khi xuống đến
500.000 đồng. Đối với một số nông thôn nghèo, thì có nơi giá một
ngày công là 2.000 đồng, nghĩa là người lao động thu nhập dưới
60.000 đồng/tháng; trái lại, những người ‘ngồi mát ăn bát vàng’ thì
xem 7 - 8 triệu hàng tháng là chuyện bình thường. Đấy là chưa kể đến
số người thu nhập bất chính hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỉ, mà số
này thì không ai có thể thống kê được.
2. Y Tế - Giáo dục.
Y tế và Giáo dục
là hai vấn nạn thật lớn liên quan đến từng gia đình trong xã hội
Việt Nam và đó là cũng ưu tư lớn nhất của mọi người khi nói đến công
bình xã hội. Trong thời bao cấp, nhiều trì trệ về kinh tế xảy ra,
chất lượng về chữa trị và giáo dục có thể yếu kém vì thiếu người,
thiếu phương tiện, thế nhưng ít ra sự bất công không nổi lên rõ nét.
Người giàu và người nghèo đều được đối xử như nhau, nghĩa là người
có khả năng trang trải chi phí y tế hay giáo dục cũng không chi trả
bao nhiêu, mặc cho Nhà Nước gánh hết. Đây hẳn cũng là một sự bất
công của xã hội, vì nếu công bình xã hội không có nghĩa là thu nhập
quốc dân được chia bằng cho nhau thì nó cũng không có nghĩa là mọi
người phải chi trả hoặc hưởng phúc lợi xã hội bằng như nhau.
Tuy nhiên, cái bất công ấy lồ lộ ra cùng với sự thâm nhập của kinh
tế thị trường. Kể từ đấy, Y tế và Giáo Dục trở thành nơi cung cấp
hàng hóa dưới dạng dịch vụ. Không phải hiếm thấy cảnh một người vào
bệnh viện cần phải giải phẫu nhưng chỉ có thể lên bàn mổ khi bác sĩ
cầm được trong tay biên nhận đã đóng tiền xong. Có những trường hợp
mà vì không thể chạy ra tiền, một gia đình nghèo đành phải để cho
thân nhân mình mang thương tật suốt đời, thậm chí phải chết đi.
Người ta bảo mọi người đều bình đẳng trước cái chết, nhưng khi công
việc chữa trị đã trở thành một dịch vụ, thì trước cái chết con người
cũng không còn bình đẳng nữa. Giàu thì sống, nghèo thì chết! Ấy là
chưa nói đến những người ở vùng sâu vùng xa, không có tiền nong đi
đến bệnh viện mà chữa trị, nên đành phải chết chỉ vì nghèo. Điều
nghịch lý, ấy sự bất công này lại xảy ra chính khi Nhà Nước muốn
thực thi công bình xã hội, bằng cách xã hội hóa y tế và giáo dục. Y
tế cần phải có một hiệu quả, không thể làm qua loa lấy có được.
Không thể nào chữa bệnh nửa chừng, và điều này cần phải có tiền, mà
ngân sách Nhà Nước thì không thể trang trải hết được.
Tuy Nhà Nước có chính sách cấp thẻ khám bệnh miễn phí cho những đối
tượng nghèo, nhưng thực tế cho thấy rằng người cầm tấm thẻ ấy không
được đối xử bình đẳng với một người đã đóng tiền, cả về nhân phẩm
cũng như số lượng và chất lượng thuốc men. Đó là chưa kể tình trạng
quan liêu ở nhiều nơi, khiến cho người có khả năng chi trả thì nhận
được thẻ khám bệnh miễn phí, còn người thật sự nghèo thì không được
cấp phát. Trước tình trạng đó, nhiều đoàn y bác sĩ đã tổ chức đến
vùng sâu vùng xa để khám bệnh và phát thuốc miễn phí, nhưng hiệu quả
thì không cao, vì phương tiện và thời gian không cho phép họ can
thiệp vào những bệnh đòi hỏi kỹ thuật cao hoặc thuốc men đắt tiền…
Trong lãnh vực giáo dục, thời gian vừa qua việc xã hội hóa học đường và
việc tăng học phí cấp Đại Học đã gây nên cuộc tranh cãi về công bình
xã hội đối với quyền được học hành. Để bảo vệ cho việc tăng học phí,
những người có trách nhiệm nêu lên rằng ở Việt Nam, dù đã dành 18%
ngân sách cho giáo dục, thì cũng không thể nào bảo đảm chất lượng
giáo dục, khi phương tiện vật chất thiếu thốn và lương bổng giáo
viên không đủ cho họ an tâm dạy học. Thế nhưng ngay cả khi một con
em tại thành phố học tại một trường công lập, chứ không phải là
trường tư, thì chi phí bình quân mà cha mẹ phải trang trải cho con
mình mỗi tháng không dưới 400.000đ, gồm các món tiền cho cơ sở vật
chất, học thêm tại trường hay tại nhà thầy cô, các sinh hoạt ngoại
khóa…
Một thực tế khác, ấy là ngân quỹ Nhà Nước tập trung vào một số
trường điểm, để thay vì cung cấp cho học sinh nghèo một phương tiện
bình đẳng mà học tập, thì đấy chính lại là nơi mà con em nhà giàu
mới có thể vào được! Vấn đề công bình xã hội vẫn còn đặt ra, khi mà
không biết bao nhiêu em phải bỏ học, trong một nền giáo dục được xem
là cưỡng bách và miễn phí. Quả như vậy, bởi vì thống kê Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo cho thấy rằng năm 2000, trên toàn quốc có 17.806.158 em
học sinh, thì năm 2007 còn 16.371.049 em, trong khi dân số gia tăng
từ 77.685.500 lên 84.158.800 người[24] và trường học cũng tăng từ
23.960 lên 27.595 trường.[25]
3. Quyền con người.
Nói đến công bình xã hội, thì không thể không nói đến những quyền
bất khả xâm phạm mà tất cả nhân loại đều công nhận.
Ngày 04-07-1776, tại Hoa Kỳ, bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of
Independence) khẳng định: Chúng tôi xem những chân lý này là hiển
nhiên, ấy là mọi người được tạo dựng bình đẳng, rằng họ được Đấng
Tạo Dựng ban cho họ một số quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền
Sống, quyền Tự Do và quyền theo đuổi Hạnh Phúc.
Ngày 26-08-1789, tại Pháp, bản Tuyên Ngôn Về Quyền Của Con Người Và
Của Công Dân (Déclaration des droits de l’homme et du citoyen) cũng
lặp lại ý đó với những từ ngữ khác: Con người có quyền sinh ra và
sống tự do và bình đẳng… Mục đích của mọi hiệp hội chính trị là bảo
vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người. Những quyền
ấy gồm quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an ninh, và quyền chống lại
áp bức.
Ngày 02-09-1945, tại Việt Nam, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập cũng mở đầu
bằng những lời trong Tuyên Ngôn của Mỹ.
Nhưng quyền tự do ở đây không chỉ là tự do chính trị, theo nghĩa là
không bị một dân tộc nào khác thống trị, mà còn là tự do theo nghĩa
rộng nhất, được John Rawls tóm lược như sau:
Tự do tư tưởng - Tự do lương tâm để chọn một tôn giáo, một triết
thuyết, một luân lý - Tự do về chính trị (ví dụ: tự do ngôn luận và tự do báo
chí, tự do hội họp) - Tự do tổ chức hiệp hội - Tự do cần thiết để
giữ toàn vẹn con người mình (nghĩa là tự do khỏi ách nô lệ, tự
do đi lại và tự do chọn nghề nghiệp cho mình) - Quyền và tự do
được luật pháp bảo vệ.
Tất cả những quyền tự do này, Việt Nam đều công nhận trong Hiến
Pháp, tuy nhiên cách hiểu về thuật ngữ ‘tự do’ thì không đồng nhất
giữa Việt Nam và các nơi trên thế giới.
Ví dụ về tự do lương tâm:
Ngày 11 tháng 3 năm 2004, ông Lê Dũng, người phát
ngôn bộ Ngoại Giao, đã trả lời một phóng viên như sau: Là một dân
tộc đã trải qua đấu tranh gian khổ để giành những quyền tự do cơ bản
nhất của con người là được sống trong độc lập, tự do; hơn ai hết,
nhân dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của quyền con người. Ở Việt Nam,
các quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và được tôn trọng
trên thực tế.[26]
Ngày 07-11-2006, Việt Nam được chính thức gia nhập WTO; ngày 09-12,
Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật Quan hệ thương mại bình thường
vĩnh viễn (PNTR); và trước đó, ngày 14-09, Quốc hội Mỹ đã đưa Việt
Nam ra khỏi danh sách nước cần được đặc biệt quan tâm (CPC) do vi
phạm tự do tôn giáo.
Ngày 17-03-2007, Đức ông Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa
Thánh, trưởng phái đoàn Toà Thánh đến Việt Nam từ 5 đến 11 tháng 3,
đã phát biểu như sau, khi Radio Vatican phỏng vấn ngài về tình trạng
tự do tôn giáo tại Việt Nam: Tôi nghĩ rằng thông tri của Văn
Phòng Báo Chí Tòa Thánh, phát hành sau khi Thủ Tướng viếng thăm
Vatican, đã phản ánh đúng đắn tình trạng tự do tôn giáo tại Việt
Nam. Thông tri đó nói đến ‘những không gian đã mở ra’ và tôi có thể
bảo đảm rằng, dựa trên chứng từ các giám mục, một số vấn đề đã được
giải quyết và một số khác đang được giải quyết.. [27]
Thế nhưng, ngày 08-03-2007, Văn phòng Cao ủy LHQ về Quyền Con Người
(UN HRC) phổ biến tờ trình của Liên Đoàn Quốc Tế về Quyền Con Người
(FIDH: Fédération Internationale des Ligues des Droits de l’Homme).
Tờ trình này khởi đầu bằng câu: “FIDH... lưu ý Hội Đồng Nhân
Quyền về những vi phạm lặp đi lặp lại đối với quyền tự do ngôn luận
và tôn giáo của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”[28]
Và ngày 18-09-2007, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự Luật Nhân Quyền
đối với Việt Nam (gọi là Dự luật HR 3096), với 414 phiếu thuận so
với 3 phiếu chống. Và thông qua dự luật này là một cách gián tiếp
nói rằng Việt Nam chưa tôn trọng quyền tự do lương tâm của người dân
mình một cách đúng mức.
Trên những lãnh vực khác thì cũng có hai mặt như thế:
Về tự do ngôn luận thì báo chí đã nêu lên nhiều hành vi tiêu
cực lên đến tận cấp trung ương, và phê bình thẳng thắn những hạn chế
trong nhiều lãnh vực nhạy cảm. Thế nhưng, cho đến nay, tất cả mọi cơ
quan ngôn luận đều trực tiếp hay giáng tiếp thuộc về chính quyền, mà
không có một tờ báo nào do tư nhân đứng ra làm chủ, ngoại trừ một
vài tờ thông tin nội bộ như tờ Hiệp Thông của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam.
Về quyền và tự do được pháp luật bảo vệ, thì bao nhiêu vụ án
đã được xử để bảo vệ quyền dân sự cho người dân, thậm chí xử phạt
những vụ tham nhũng lên đến cấp thứ trưởng; thế nhưng cũng còn bao
nhiêu vụ tồn đọng khắp các tỉnh thành mà không biết đến bao giờ mới
giải quyết. Về quyền tự do thiết lập hiệp hội thì đến bây giờ
chỉ có những hiệp hội trực thuộc Đảng hay Nhà Nước mới có tư cách
pháp nhân, còn những hội khác, ngay cả Hội Thánh Công Giáo Việt Nam,
thì cũng không có tư cách pháp nhân để góp phần tích cực vào chương
trình xây dựng công bình xã hội.
4. Kết luận:
Đấy là những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tường tận của các chuyên
viên. Đối với công cuộc này, Giáo Hội nhắn nhủ: Các chuyên viên
khoa học kinh tế, những người làm kinh tế và những nhà lãnh đạo
chính trị cần phải cấp bách nhìn lại nền kinh tế, bằng cách xem xét,
một mặt, cái nghèo vật chất bi đát của hàng tỉ người, và mặt khác,
sự kiện là ‘các cơ chế kinh tế, xã hội và văn hóa hôm nay khó mà
quan tâm đến những đòi hỏi của một sự phát triển chân chính’. Những
đòi hỏi của một sự phát triển kinh tế chân chính cần phải được dung
hòa nhiều hơn với những đòi hỏi của chính trị và của công bình xã
hội. [29]
Những lãnh vực đó vượt ra ngoài giới hạn học thuyết của một tôn
giáo. Tuy nhiên, học thuyết xã hội của Giáo Hội Công Giáo
cũng có đề ra một hướng giải quyết, ấy là công bình xã hội phải được
đặt trong một nền văn minh mới, một nền văn minh mà người công dân
công giáo có bổn phận góp phần xây dựng. Giáo Hội gọi nền văn minh
ấy là nền Văn Minh Tình Yêu:
“Tình yêu phải hiện diện trong mọi tương quan xã hội và thấm
nhuần chúng. Đặc biệt, những ai có bổn phận phục vụ lợi ích nhân dân
cần phải chuyên cần nuôi dưỡng trong bản thân mình và làm nảy sinh
trong người khác, từ người cao trọng nhất đến người thấp hèn nhất,
lòng bác ái, nữ hoàng và chủ nhân của mọi đức hạnh khác… Tình yêu đó
có thể gọi là ‘bác ái xã hội’ hay ‘bác ái chính trị’ và phải được
thông truyền đến toàn thể nhân loại. “Tình yêu xã hội’ là đối cực
của chủ nghĩa ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân.” [30]
Và cũng vì thế mà Đức Piô XI, qua thông điệp Bốn Mươi Năm (Quadragesimo
Anno), xem công bình xã hội vừa là một đức hạnh cá nhân vừa là một
nền tảng cho trật tự xã hội: Xã hội chỉ có thể công bình ngày nào
các cá nhân và thể chế trở nên công chính mà thôi.
----------
Chú thích:
[20] Nghị quyết Đại Hội X của Đảng CSVN. Chương IV Phần A Đoạn 1
[21] VNN Thứ Ba, 3-4-2007 -
http://www.bacninh.gov.vn/Story/TinTuc-SuKien/TinHoatDong/2006/9/6223.html
[22] Số liệu về thu nhập bình quân đầu người năm 2006 được ghi nhận
khác nhau trong các văn bản. Số ấy dao động từ 620 USD/năm đến 750
USD/năm.
[23] Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), bản tin ngày
14-11-2006.
[24] Cục Thống Kê - Dân số và Lao Động -
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=6156
[25] Sở Giáo Dục và Đào Tạo - Thống kê -
http://www.moet.gov.vn/?page=11.10&view=9264
[26] Ministry of Foreign Affairs -
http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_baochi/pbnfn/ns040818152525154
[27] Zenit, March 26, 2007 -
http://www.zenit.org/article-15039?l=french
[28]
A/HRC/4/NGO/106 - 08/03/2007: Situation des Droits de l’Homme au
Vietnam.
[29] Compendium of the Social Doctrine # 564
[30] ibid. # 581