Thái Công Tụng
Thế nào là 4 D trong
toàn cầu hoá
-Khi trận
đá bóng chung kết giữa hai đội Pháp và Ý diễn
ra ở Berlin tháng 7 năm 2006, trước con mắt hàng
tỷ người trên thế giới, từ Đông sang
Tây, từ Bắc xuống Nam, ta thấy trong đội
cầu Pháp có đến một nửa là dân da đen và dân
Bắc Phi !
-Nghe tin
tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh,
TV5 của Pháp, thì hình ảnh một sự cố nào đó
mới xảy ra vài phút trước đó ở một
nơi xa xăm trên hành tinh Trái Đất thì trên màn
truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay,
vừa hình ảnh, vừa tiếng nói.
-Nhìn bảng
hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có
thể hoán chuyển dễ dàng; đặc biệt Âu châu có
Euro là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều
xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du
lịch từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne lại
phải thay đổi đồng tiền sang Mark, sang lire,
sang peseta ..
-Bệnh SARS
(viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ
Đông Nam Á và qua Canada do sự lưu thông hành khách máy bay
rất nhanh chóng
-Hàng năm,
có chừng 250 ngàn người di dân đủ mọi
chủng tộc, màu da, tôn giáo đến xứ Canada,
đến hợp pháp ! Có thể nói mọi xứ từ A (A
như Angola), đến Z (Z như Zimbawe) đều có
người ở đất nước Canada, khiến xã
hội Canada càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ
trên đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu
hoá .
2.Tiến trình của toàn cầu hoá.
-Toàn cầu
hoá, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80,
nhưng thực sự đã có từ lâu đời với
Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ
quanh bờ biển Địa Trung Hải, với con
đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung
Đông, Cận Đông và Trung Hoa. Việt Nam đã buôn bán
với Nhật qua thành phố Hội An. Các nước
Anh, Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm
kiếm thị trưòng buôn bán. Chiến tranh nha phiến
Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc phiện. Đến
năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh tế rất
lớn, nên nhiều nước như Mỹ chủ
trương bảo hộ thương mãi.
-Chỉ sau
đệ nhị thế chiến, các nước bắt
đầu nhận thấy phải tăng cường
hợp tác thương mại. Các nước Âu Châu
họp bàn thành lập thị trường chung qua nhiều
giai đoạn:
a.Thoạt
đầu là các thoả thuận ưu đãi thuế
quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự
thấp hơn so với các nước không tham dự.
b. Sau đó
tiến đến khu vực mậu dịch tự do
(zône de libre échange, free trade area) xoá bỏ các cản trở
thương mại giữa các nước thành viên;
c.thứ
đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá
bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, hài hoà
giữa các nước thành viên và chính sách thương
mại
d.rồi
mới đến thị trường chung (marché
commun) có tự do lưu chuyển lao động và vốn
giữa các nước,
e.sau đó
tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất
tiền tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu
và hiến pháp Âu châu.
Từ
khởi thủy với 6 nước là Pháp, Đức, Ý,
Hà Lan, Belgique và Luxembourg thành lập năm 1957, thì ngày nay Âu
Châu đã có 27 thành viên (thêm các nước Đông Âu và
Bắc Âu) với dân số trên 500 triệu dân, tiêu thụ
hàng hoá khổng lồ với một đồng ti ền
duy nhất là Euro
-các
nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức
ASEAN bao gồm 10 xứ Đông Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái,
Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapour, Myanmar (tức
Miến Điện). Các xứ này đang tiến dần
đến chỗ giảm thuế quan để giúp hàng hoá
cạnh tranh nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh
hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm
thất nghiệp.
-Bắc
Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu
dịch tự do, có nghĩa là giúp các hàng hoá tự do lưu
thông giữa nước này với nước kia, cắt
giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan
thuế v.v.
Với công
nghệ thông tin phát triển như vỡ bờ qua trung gian
của hàng ngàn vệ tinh nhân tạo bay quanh Trái Đất,
các trao đổi và liên lạc thông tin đã giúp thế giới
càng ngày càng gần hơn, nhỏ hơn, và là một nhân
tố thúc đẩy sự tự do thương mại
giữa các nước, thoạt đầu với Thoả
thuận chung về Thuế quan GATT (General Agreement on Tariff
and Trade), tức tiền thân của Tổ chức
Thương Mại Thế giới (WTO, viết tắt
từ World Trade Organization) ta thấy ngày nay .
Với toàn
cầu hoá, các sản phẩm sản xuất ra có một
thị trường tiêu thụ rộng lớn ở
khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm
đầu tàu kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực
vậy, thị trường trong xứ thì nhỏ hẹp,
không nhiều người tiêu thụ. Cũng chính vì Trung
Quốc có một thị trường tiêu thụ khổng
lồ nên các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v.
mới đầu tư sản xuất tại đó
nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở
Thượng Hải đến các công ty điện
tử, điện thoại vì thị trường càng
lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie d'échelle)
làm giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lời lãi
nhiều .
Với toàn
cầu hoá, các nước quy định phải giảm
thuế nhập cảng, xoá bỏ các hàng rào phi thuế
quan như hạn ngạch, cấp giấy phép
xuất-nhập cảng nên mọi hàng nhập cảng
đều rẽ, khiến người tiêu thụ mua
sắm thoải mái.
Với toàn
cầu hoá, các đầu tư, các dịch vụ như
ngân hàng, bảo hiểm, các hàng hoá sẽ được
lưu thông tự do hơn, giúp tiêu thụ mạnh
hơn.
Toàn cầu
hoá có nghĩa là thị trường sẽ tự do trong các
lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
đầu tư, bưu chính viễn thông, giao thông vận
tải. Toàn cầu hoá bao gồm nhiều lãnh vực
nhưng riêng trong lĩnh vực kinh tế tài chính, có
thể tóm lược trong 4 chữ D sau đây cho dễ
nhớ.
3. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá?
31.Délocalisation .
Toàn cầu
hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về
chất lượng; các xí nghiệp phải có mặt hàng
rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh
được trên thị trường quốc tế.
Thực
vậy, trước kia, các nước để bảo
hộ sản xuất trong nước nên đánh thuế
nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng
với các hiệp định tự do thương
mại, mọi mặt hàng đều từ từ giảm
thuế xuống hết (0-5%).
Do đó, vào
luồng trong sự gia nhập thương mại quốc
tế đòi hỏi phải có các sản phẩm nhiều,
phẩm tốt, giá rẽ mới cạnh tranh được
với các hàng xứ khác. Đó là lí do nhiều xí nghiệp
các nước kỹ nghệ tổ chức sản
xuất các cơ phận khác nhau tại các xứ nhân công
rẽ như Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc .Thực
vậy, trong xe hơi, có thể động cơ sản
xuất bên Nhật, bánh xe ở Mexico, ráp cuối cùng
tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ 'chip'
chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico,
ráp cuối cùng ở Mỹ v.v.
Ngày nay, không
thể có và cũng không nên có một nền kinh tế
tự cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại
phải tìm trong xứ đó các lợi thế so sánh, xem mình
có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế
nào và nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao ?
Ví dụ :
Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất
điện rẽ nhất. Mexique cũng như các hải
đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng
ấm và đó là một lợi thế so với Canada, mùa
đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch
vụ rất phát triển; riêng Việt Nam thì giá nhân công
rẽ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân
công như may mặc, giày dép ..
Không xứ
nào độc lập về kinh tế được
hết vì không xứ nào có đủ nguyên liệu
để sản xuất sản phẩm. Máy bay sản
xuất ỏ Canada hay ở Mỹ phải có nhôm mà nhôm
phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Vùng
Chicoutimi tại Quebec có nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì
điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng bauxit
phải lấy từ Jamaica, Haiti, ..Tương tự
đồng dùng trong các giây điện là xuất xứ
từ các mỏ bên Chili, Congo v.v. Chiều hướng toàn
cầu hoá là sự phân công lao động trên bình diện
quốc tế, ví dụ: sản xuất sẽ chuyển
mạnh vào các nước kém phát triển, còn các
nước phát triển cao sẽ sống nhờ dịch
vụ như bảo hiểm, ngân hàng v.v..
3.2
Déréglementation . Sự giải toả các
quy lệ (déréglementation hay deregulation) có nghĩa gỡ
bỏ sự can thiệp của nhà nước, tư
hữu hoá những công ty quốc doanh, giúp cải t ổ
cấu trúc nhân dụng (labor structure)
3.3.
Désintermédiation . Không cần trung gian vì
với toàn cầu hoá, các thông tin có sẵn trên mạng. Các
cổ phần, cổ phiếu bán tự do ai mua vào cũng
được, ai bán ra cũng được. Mọi
dịch vụ ngân hàng phụ thuộc vào truyền thông mà
truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ
hẽm nhờ máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ
truyền tin, sử dụng máy vi tính để mua, bán,
chuyển ngân ..với Web, với e-commerce.Trong lãnh vực
mua, bán, người ta có thể khảo giá vé máy bay, vé xe
lửa, đặt chỗ trước khách sạn, mua vé
máy bay qua Internet.Trong lãnh vực nhân sự, con người
với mạng Internet có thể giao cảm, tìm kiếm thông
tin dễ dàng nhanh chóng; các tán gẫu (chat), các thảo
luận liên lục địa của các công ty đa
quốc gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet
với Webcam: người xin việc có thể
được phỏng vấn ngay trên mạng, không
cần bay đến chỗ phỏng vấn. Trong lãnh
vực tài chính, mọi người chỉ cần máy
điện toán là có thể mua, bán cổ phần chứng
khoán, các công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền
từ lục địa này sang lục địa khác trong
nháy mắt.
3.4.
Décloisonnement. Trước kia, các
thị trường có hàng rào mậu dịch (trade barrier)
bảo hộ, với toàn cầu hoá, không còn hàng rào che
chở nên thị trường rộng mở, từ hàng
hóa đến dịch vụ, đông người tiêu
thụ hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm
giảm thất nghiệp. Vì các hàng rào thương mại
giữa các nước bị xoá bỏ nên các dòng tài chính di
chuyển dễ dàng, tạo vốn đầu tư cho các
nước có môi trường đầu tư tốt,
thông thoáng, có nguồn nhân lực giỏi. Ví dụ: Thỏa
thuận bầu trời mở thay thế cho 21 thỏa
thuận hàng không song phương tồn tại
trước đó giữa Washington và các nước châu Âu
nên không thể có đường bay trực tiếp
đến nước này. Điểm chính của thỏa
thuận này là nó cho phép bất kỳ hãng hàng không nào của
Liên hiệp châu Âu bay từ bất kỳ nơi nào trong
khối đến bất kỳ điểm nào ở
Mỹ và bay tiếp sang nước thứ ba và
ngược lại. Điều này trước đây không
thể thực hiện được
4. Các cơ hội và thách thức trong
toàn cầu hoá .
41. Nói qua về các thử thách :
a/. về
nông nghiệp. Mỗi năm, các
nước chậm phát triển phải nhập cảng
phân bón, thuốc diệt cỏ, diệt sâu với giá cao
hơn, nhưng bán nông phẩm như gạo, như cà phê
với giá rẽ hơn. Như những trận mưa rào
đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là
thuộc OCDE (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế ) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi
năm,-xem như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông
dân để họ sản xuất thực phẩm
với giá phải chăng và để họ có mức
sống tương đương mức sống ở
thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình
thức như cho vay lãi xuất rẽ, bớt thuế,
khảo cứu nông nghiệp v.v. Nhật Bản và
Đại Hàn muốn bảo vệ sản xuất gạo
trong nước bằng cách đánh thuế cao trên gạo
nhập cảng. Hai nước này trợ cấp cho nông dân
rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo
sản xuất ra trong nước thì phải trợ
cấp 80 cents cho nông dân. Pháp, Mỹ, Thụy sĩ v.v.
đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các
nước này thặng dư lương thực, thặng
dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu
ăn, thặng dư lúa mì, thặng dư đậu nành,
thặng dư bắp .. ,nên họ phải bán rẽ hay cho
không các nước, đặc biệt là Phi Châu. Nông dân Phi
Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất nghiệp và
kéo theo bất ổn chính trị .Các nước chậm
mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất
cảng lương thực cho các nước Tây
phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ
no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo nhưng các
vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc
tộc miền núi non còn chưa đủ no. Ấn
Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng
gần 260 triệu dân còn bấp bênh lương thực
(tạp chí Le Courrier số 197 Mars/Avril 2003).
Các
nước nghèo mà kinh tế nông nghiệp là chủ
chốt lại muốn các nước tiền tiến
cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan
để có thể xuất cảng nông sản
được:
-đường
mía sản xuất ở Bresil rất rẽ nhưng các
nước Tây Âu chỉ muốn nhập cảng
đường mía từ các xứ cựu thuộc
địa ở miền Caraibes như Tobago & Trinidad,
Barbados v.v.
-bông
vải xứ Mali ở Phi Châu không xuất cảng
được sang các nước Âu Châu vì mua bông vải
ở Mỹ rẽ hơn, vì ở Mỹ, nông dân
được trợ cấp.
-gạo
Thái Lan không xuất cảng qua Nhật được vì nông
dân Nhật cũng được trợ cấp khi
sản xuất gạo. Giá thành sản xuất gạo
ở Mỹ năm 2002 là 475USD một tấn gạo
nhưng vì được trợ cấp nên bán ra thế
giới vơí giá 275 USD một tấn do đó bắt
buộc các nước xuất cảng gạo như
Việt Nam, Thái Lan cũng phải xuất cảng vói giá
đó .
Thực
vậy, vấn đề nông nghiệp chính là vấn
đề gay cấn nhất trong các đàm phán tương
lai, đặc biệt là ở hội nghị thương
mãi họp ở Cancun (Mexico) năm 2003 vì lập trường
khác biệt giữa các xứ.
Như
vậy, chính sách thương mại trong toàn cầu hoá
phải tăng cường công bằng xã hội chứ
không nên làm tăng hố cách biệt giàu nghèo.
b /Về y
tế .Với toàn cầu hoá, sự du
lịch, đi lại, nhập cư được thông
thoáng hơn nhưng cùng đó, sự di chuyển các
bệnh truyền nhiễm, từ cúm gà đến bò
điên v.v. các bệnh lây lan về tình dục như AIDS
cũng nhanh hơn, gây ra thêm gánh nặng y tế trong khi đó
thì lợi tức của các chính phủ bị giảm do
việc cắt giảm thuế quan trên mọi hàng nhập
cảng nên kéo theo giảm chi cho các ngành y tế, giáo dục
..Nhiều thuốc trị bệnh hiểm nghèo
được bảo vệ tác quyền đến hàng
chục năm do hiệp định TRIPS viết
tắt từ Trade-related aspects of intellectual property rights,
có nghĩa bảo vệ các lãnh vực của quyền
sở hữu trí tuệ, do đó Việt Nam cũng như
mọi nước nghèo khác không có quyền sản xuất
thuốc đó bán rẽ cho người đau.
c/ về
tệ nạn xã hội . Do di
chuyển thông thoáng, các buôn bán phụ nữ, trẻ em, các
tội ác xuyên biên giới như ma tuý, vũ khí, nguy cơ
khủng bố cũng cũng dễ dàng hơn
42. tuy nhiên, toàn
cầu hoá cũng tạo ra những cơ hội : các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ đem vốn
liếng, kỹ thuật cao, lối làm việc do đó các
doanh nghiệp trong nước cũng phải cải
tổ lối làm việc, cạnh tranh hơn, sáng tạo
hơn nếu không sẽ bị đào thải .
Với toàn
cầu hoá, khu vực tư trong nước không bị chèn
ép bởi các xí nghiệp quốc doanh . Toàn cầu hoá
đưa thông tin đến mọi nhà, thông tin khoa học,
kinh tế, chính trị ..nên xã hội bắt buộc
phải cởi mở hơn, giúp dân trí cao hơn .
Toàn cầu
hoá giúp cho người dân không có huyền thoại
như thời Việt Nam còn dưới bóng Liên Sô, các
huyền thoại mà nhà thơ Việt Phương,-nguyên
trợ lý cố Thủ Tướng Cọng sản
Phạm Văn Đồng- đã viết sau này :
..'Ta
cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu
nữa
Trong hàng
ngũ ta chỉ dành cho chỗ yêu thương
Đã
chọn con đường đi
Chẳng
ai dừng ở giữa MạcTư khoa còn hơn cả
thiên đường
Ta nhất
quyết đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng
hồ Thuỵ Sĩ
Hình như
đây là ý chí, niềm tin, tự hào
Mường
tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn
trăng nước Mỹ
Sự ngây
thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch
làm sao ..'
Toàn cầu
hoá về kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản
xuất trong nước mới xuất cảng
được. Nó đòi hỏi những công nghệ
mới, kỹ năng mới, quản lý hiện
đại giúp sản xuất có hiệu qủa hơn,
tạo sản phẩm có chất lượng hơn
với giá cả rẽ hơn, tạo điều kiện
để sản phẩm được tiêu thụ
nhiều hơn. Ngoài ra, nếu các nước kỹ
nghệ như Âu châu hay Mỹ thấy Việt Nam có giá thành
quá thấp là họ nghĩ ngay Việt Nam bán phá giá nên
họ đánh thuế nhập cảng cao như Âu Châu
đánh thuế trên giày dép, Mỹ đánh thuế trên tôm v.v.
5.Toàn cầu hoá với Việt Nam .
Như
vậy, gia nhập vào Tổ chức Thương Mại
Thế giới (World Trade Organization WTO) có nghĩa Việt
Nam phải cam kết mở cửa thị trường
về hàng hoá (từ nông phẩm đến xe hơi, hàng
hoá điện tử ..) và dịch vụ (y tế,ngân hàng,
bảo hiểm, viễn thông, giáo dục, năng
lượng ..). Điều này hàm nghĩa các doanh
nghiệp Việt Nam phải ra sức cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài trong quản lý, trong
sản xuất, trong tiếp thị, trong giá năng
lượng, trong giá cước điện thoại, giá
thuê đất v.v. để có sản phẩm rẽ,
đẹp và mới, tạo điều kiện để
sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn.
Việt Nam có lợi thế nhân công rẽ, phải tạo
môi trường đầu tư thuận lợi,- nghĩa
là trong sạch, không tham nhũng- cho những công ty,
những doanh nghiệp ngoài nước đến
đầu tư. Thực vậy, càng ngày nhiều doanh
nghiệp các nước kỹ nghệ muốn đầu
tư tại các xứ nhân công rẽ hơn. Thực
vậy, lương tháng người thợ ở Việt
Nam năm 2005 ở mức 135 Mỹ kim trong khi tại Thái
Lan là 146, Trung Quốc là 163, Malaysia là 205 và Philippines là176.
Như vậy chi phí thấp ở Việt Nam là một
lợi thế.. Song song theo đó, Việt Nam cũng
cần đào tạo thêm nguồn nhân lực có kỹ
năng cao để thu hút các ngành có chất xám cao, tạo
ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao
mức sống. Ví dụ tại tỉnh Bangalore ở
Ấn độ, có nhiều xí nghiệp Mỹ, Canada
đến đầu tư vì xứ này đào tạo
nhiều chuyên viên điện toán giỏi và lương
thấp hơn so với kỷ sư các nước kỹ
nghệ .
Trong nông
nghiệp thì với toàn cầu hoá, khi các cam kết cắt
giảm thuế trong AFTA (Asian Free TradeArea) và WTO
được thực hiện thì có nhiều loại nông
phẩm sẽ bị nhiều cạnh tranh hơn:
đậu nành, bắp sản xuất tại Việt Nam
thì khó cạnh tranh với nông sản Mỹ vì tại
Mỹ, các khảo cứu về bắp, đậu nành
rất tiến bộ, tạo ra nhiều giống cải
thiện năng xuất cao. Việt Nam thì quy mô kinh tế
sản xuất manh mún nên giá thành cao. Do đó, Việt Nam
phải tìm các lợi thế so sánh trong nông nghiệp,
sản xuất những sản phẩm không bị cạnh
tranh với các nước khác như trái cây nhiệt
đới, rau cải tươi, ngư sản, đó là
chưa nói đến phải chuyển đổi nông
nghiệp như giảm số nông dân, chuyển từ
sản xuất sang dịch vụ, huấn nghệ lại
v.v.
6. Thế
nào là 5 LESS cần tránh trong toàn cầu hoá ?
Ruthless:
Hiện nay, hố cách biệt
giàu/nghèo giữa các nước phát triển và các
nước chậm tiến qúa sâu đậm. Hố cách
biệt người cùng một nước, nhiều
người qúa giàu, nhiều kẻ qúa nghèo. Do đó cần
có phát triển hài hoà sao cho các thành tựu phát triển kinh
tế cũng phải được phân phối
đồng đều : quyền được săn sóc
khi bệnh tật, trẻ thơ như người già
yếu được chăm sóc bảo vệ,
được giáo dục. Do đó, phải dùng tiền
hưởng lợi từ tiến trình toàn cầu hoá
để tái đầu tư vào nâng cao chất lượng
giáo dục, phát triển khoa học, tạo việc làm,
bảo trợ an sinh xã hội, mục đích là giảm
hố cách biệt giàu- nghèo, nông thôn-thành thị
Rootless:
Phát triển nhưng phải
giữ căn tính, bản sắc văn hoá các dân tộc.
Một nhà thơ Nga tên Gamzatov có nói đâu đó rằng :
'Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục,
tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác'.
Do đó, phải biết gạn đục khơi trong, tìm
lại những giá trị truyền thống trong văn hoá
như hiếu thảo, hoà đồng, trọng thầy,
yêu chuộng bề dày của lịch sử văn hoá ông
cha để lại .
Jobless:
Phát triển nhưng tạo
công ăn việc làm, chứ không phải phát triển
với các dự án không tạo thêm công việc. Điều
này cũng hàm nghĩa giáo dục liên tục để
đào tạo nhân công thích nghi với sự thay đổi
mau lẹ của thị trường quốc tế ; ngoài
ra phải giảm bớt khoảng cách gây ra từ cách
biệt trong trình độ công nghệ thông tin (digital
divide).
Futureless:
phát triển nhưng phải lo bảo toàn môi trường
vì chính môi trường như đất, nước,
rừng phải được sử dụng trong
đường lối phát triển bền vững
để cho các thế hệ sau này còn được
hưởng dụng. Phải mong rằng thị
trường không phải là tất cả và không thể
để tiêu chuẩn lợi nhuận tối da trên
tiền đầu tư mà phá hủy môi trường,
lấn chiếm những gì cho các thế hệ mai sau, tóm
lại phát triển với bộ mặt con người
Voiceless:
phát triển nhưng trong sự trong sáng, tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng khiến người dân
nào cũng có thể nói mà không sợ bị bắt bớ,
giam cầm6.
7. Kết luận
Nền kinh
tế thế kỷ 21 này là một nền kinh tế xu
hướng càng ngày càng khu vực hoá, toàn cầu hoá với
đổi trao, thay vì khai thác và lấn chiếm như
xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi
một tinh thần liên đới và trách nhiệm:
-liên
đới giữa các nước
giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các nước
kém mở mang với mục đích là để vực
dậy các nước nghèo, thoát khỏi cùng cực
triền miên. Trong một nước,
sự
tăng trưởng kinh tế do toàn cầu hoá mang lại
phải được chia xẻ cho tất cả mọi
người chứ không phải chỉ một bộ
phận xã hội. Sự phát triển kinh tế phải có
tính cách bền vững, không phát triển trên nợ nần
của các thế hệ tương lai
-trách
nhiệm vì toàn cầu hoá có thể giúp
các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh hơn, các tổ
chức mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy,
buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng bố
do đó mọi xứ có trách nhiệm hợp tác để
ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa
trước khi tội phạm xảy ra. Một nền
kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường
cần có những thể chế, quy tác, luật pháp, trong đó
có việc tăng cường kiểm soát các ngân hàng
bằng giám sát chặt chẽ hơn.
Chúng ta
sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng
đồng nhân loại cũng chìm luôn . Con người
như vậy phải tập sống bao dung, bao dung với
tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín
ngưỡng nhưng trong một khung cảnh luật pháp
ở đó quyền ăn nói, quyền làm người
phải được tôn trọng. Quyền hành dù là chính
trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải
đi đôi với trách nhiệm. Con người gồm
thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên là quan
trọng nhưng còn có các giá trị tâm linh không thể mua
hay đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con nguời
không thể đo bằng bit hay byte mà sự quán
chiếu nội tâm để hiểu được
bản thân mình có thể còn quan trọng hơn là biết
mọi chuyện trên thế giới trong chớp mắt
nhờ Internet. Các đền đài, các di tích lịch
sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ quát không
thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một
dòng sông có giá trị thẩm mỹ, huyền bí, mơ
mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng mạn
chứ không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều
vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như
lăng miếu, đền đài có linh hồn như
thơ của Lamartine (Objets inanimés, avez-vous donc une âme ? ..)
.Các giá trị văn hoá phức tạp hơn là các giá
trị tài chính. Không thể xem cái gì cũng là mặt hàng
đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên
hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là
một ví dụ; khủng bố World Trade Center cũng là
một ví dụ khác. Từ vụ 911 này, du lịch sút kém
khiến máy bay không ai đi, nhà hàng không ai đến, do
đó nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay không ai
đi nên các hãng sản xuất máy bay phải sa thải nhân
viên v.v. Như vậy các vấn nạn không những liên
hệ với nhau mà lại có sự gia tăng những yếu
tố bất định không đoán trước
được, chúng phụ thuộc và phản tác dụng
lẫn nhau với những gián đoạn, những
hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng
trưởng các vũ khí nguyên tử tại các xứ
Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng
bố Hồi giáo bảo căn v.v. .. .
Nhưng
vấn đề cốt lõi lại chính lại là một
vấn đề văn hoá: làm sao cho thế giới không
phải là một sân chơi cho các cầu thủ hạng
nặng ( các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa
dạng trong đó mọi dân tộc tham dự chia xẻ
các khổ đau, các an lạc, các thành qủa, tạo ra
một hiền hoà giữa người và người,
một hài hoà giữa người và thiên nhiên, nghĩa là
tạo một nền kinh tế có bộ mặt con
nguời, trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất)
trong giải Thiên Hà bao la .