Một
vài suy nghĩ về
TƯƠNG
LAI GIÁO DỤC VIỆT NAM
Nguyễn Đức Tuyên
The ills of education are the
ills of society and cannot be cured until society itself is healed.
Những căn bệnh của giáo
dục là những căn bệnh của xã hội và không thể chữa
trị được cho tới khi chính xã hội được chữa lành.
Ở quốc gia nào cũng vậy,
một trong những ưu tư của nhà cầm quyền và mọi tầng
lớp xã hội là vấn đề giáo dục vì giáo dục đóng
vai trò quan trọng bậc nhất trong xã hội đương thời và
nhất là trong tương lai của dân tộc. Một quốc gia có
một nền giáo dục lạc hậu thì dân trí sẽ thấp kém,
kéo theo sự sa đọa của xã hội và sự chậm tiến về
phương diện kinh tế. Một quốc gia có một nền giáo dục
tân tiến sẽ nâng cao dân trí và nâng quốc gia lên hàng
tân tiến và phát triển, nhờ đó dân giầu nước mạnh.
Cải tổ giáo dục là ưu tư
hàng đầu của một quốc gia. Cải tổ nhằm sửa chữa
những sai lầm trong giáo dục; cải tổ còn nhằm thâu
nhận những kiến thức mới mà sự tiến bộ của xã hội
ngày nay, từ lãnh vực tư duy đến lãnh vực khoa học kỹ
thuật, dường như đang đi hia vạn dặm hàng ngày, hàng
tháng và hàng năm.
Muốn cải tổ giáo dục,
phải xét lại toàn bộ của nền giáo dục, tìm ra nguyên
nhân và dám quyết tâm sửa chữa. Nhiều khi việc cải tổ
phải khởi sự từ những bước căn bản. Đàng khác
trong thế giới tin học và sự giao thông tiện lợi ngày
nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu, so sánh nền giáo dục
quốc tế giúp cho những nhà giáo dục, nếu bỏ công sưu
tầm, cũng dễ thâu thập được nhiều dữ kiện hữu
ích.
Có rất nhiều phương cách
tiếp cận để trình bầy về tương lai giáo dục Việt
Nam. Người ta có thể khảo sát và nhận định về nền
giáo dục hiện tại, nghiên cứu một số nền giáo dục
Đông Tây, phân tích và so sánh, làm bối cảnh để phác
họa ra một nền giáo dục khả thi trong tương lai. Khi đề
cập đến nền giáo dục tương lai, theo lý thuyết, trước
hết người ta phải trình bầy quan niệm về triết lý
giáo dục làm chỉ tiêu hướng dẫn cho một nền giáo
dục. Bước kế tiếp có lẽ là bàn đến tổ chức giáo
dục, chương trình giáo dục, sách giáo khoa, tổ chức thi
cử, vấn đề nhân sự và việc giảng dậy v.v… Đây
phải là một công trình tập thể và cần tới một thời
gian khả thi; một cá nhân thường không làm được, một
phần vì kiến thức chỉ có giới hạn, phần khác là
không ai có đủ khả năng trên nhiều lãnh vực chuyên môn
và đa dạng trong giáo dục thông suốt từ Tiểu học,
Trung học, Đại học tới chuyên nghiệp.
Với kiến thức hạn hẹp,
chúng tôi chỉ dám có đôi điều liên quan tới tương lai
giáo dục Việt Nam qua mấy điểm sau : đường hướng
giáo dục, giáo dục giá trị đạo đức, một vài điểm
liên quan tới tổ chức giáo dục, chương trình, vấn đề
nhân sự và việc giảng dậy.
I. Đường Hướng Giáo
Dục.
Quốc gia nào cũng có một
đường hướng giáo dục, có nơi được viết ra thành
văn bản, được mệnh danh là triết lý giáo dục. Cũng
có những quốc gia, như Hoa Kỳ chẳng hạn, đường hướng
giáo dục chỉ đơn giản thể hiện qua các trường sư
phạm, chương trình giảng dậy và sách giáo khoa. Đối
với Việt Nam, thiết nghĩ nên có một đường hướng
giáo dục rõ ràng để hướng dẫn giáo chức, học sinh,
sinh viên và cả phụ huynh để hiểu rõ những vấn đề
căn bản trong việc đào tạo con người mới, gần hơn là
đào tạo công dân mới, để kiến tạo một xã hội tiến
bộ và một nền kinh tế phát triển. Sở dĩ vấn đề
giáo dục Việt Nam cần tới một đường hướng căn bản
vì ba lý do : trước hết, Việt Nam đã trải qua một trận
chiến kéo dài 30 năm mà ở đó lòng người ly tán, hai ba
thế hệ phải sống trong một xã hội bất thường, thứ
hai là sự phân chia 2 miền Nam Bắc với 2 ý thức hệ,
cho dù đã trải qua 30 sau chiến tranh cho tới ngày đổi
mới giáo dục thực sự chưa biết xẩy ra lúc nào, thứ
ba là tình trạng giáo dục Việt Nam có rất nhiều bất
cập so với thế giới.
Trong khi suy nhĩ về đường
hướng giáo dục, chúng tôi mạo muội đề nghị 5 chủ
điểm : Dân tộc, Nhân bản, Khai phóng, Đại chúng, và Đa
văn hóa.
-
Dân tộc : Đường hướng giáo dục Việt Nam trước hết phải lấy dân tộc làm tiêu chuẩn. Trải qua cuộc hành trình trên bốn ngàn năm, dân tộc ta đã cùng chung sống trên một bờ cõi và cùng chia sẻ một bề dầy lịch sử với phong tục, tập quán, triết thuyết, truyền thuyết, văn hóa và ngôn ngữ tạo thành tinh hoa truyền thống và sắc thái riêng biệt. Dân tộc Việt đã có “một đời sống nội tâm phong phú, một bản chất giầu tình cảm, một đầu óc tổng hợp và dung nạp, một lòng yêu nước mãnh liệt phối hợp với tình gia đình mặn nồng”1 Cùng với các sắc dân chung giải giang sơn trong ý niệm “con rồng cháu tiên”, lấy sự thái hòa làm lẽ sống. Giáo dục dựa trên ý niệm dân tộc giúp cho con em biết ơn tiền nhân đã dầy công dựng nước, biết trân quý và bảo vệ tổ quốc, biết gìn giữ bản sắc dân tộc và biết dùm bọc lẫn nhau.
-
Nhân bản : Giáo dục nhân bản là một nền gíao dục lấy con người làm gốc với tất cả phẩm gía của Con Người. Nhân bản là một danh từ mang nhiều ý nghĩa tùy theo trường phái triết học, nhằm thẩm định con người, nhờ kinh nghiệm và tri thức về con người như là chủ thể; có khi lưu tâm đến đời sống con người và tìm phương cách giải thoát con người do chính con người gây ra; có khi nhấn mạnh đến nhu cầu và lợi ích của đời sống con người qua nhân tính, nhân sinh, nhân vị, nhân văn và nhân đạo. Nhân bản được nói tới ở đây không mang ý nghĩa triết học, kể cả các trường phái triết học nhân bản; chỉ đơn thuần nhằm đề cao giá trị con người – nhân linh ư vạn vật - trong sự tự do, bình đẳng, công bằng, trong sự liên hệ giữa con người với nhau, cùng với chiều kích tâm linh vũ trụ. Chính vì con người thường bị tước đoạt hầu hết nhân phẩm, nhân cách, bị tước quyền làm người và chỉ được coi như phương tiện sản xuất cho nên giáo dục nhân bản nhằm giúp học sinh, sinh viên ý thức về mình và về Con Người với sự cao trọng trân quý.
3. Khai phóng
: Giáo dục Việt Nam phải mang tính khai phóng. Một đàng
ta giữ gìn bản sắc dân tộc, đàng khác ta biết mở
rộng tầm nhìn để hiểu biết về thế giới bên ngoài.
Sự
tiến bộ về
khoa học thuần túy, nhận thức mới về khoa học nhân
văn, nhất là sự bùng nổ của tin học tòan cầu đã
đóng góp phần quan trọng trong biến chuyển giáo dục.
Thông tin tòan cầu, giúp con người hiểu biết nhiều lãnh
vực mà trước đây chỉ có một số nhỏ có cơ hội học
hỏi và ngày nay nhờ tòan cầu hóa mà dân trí cao hơn và
xã hội cũng phát triển mau lẹ hơn. Tòan cầu hóa giúp
con người có nhãn quan mới, tư tưởng mới về mọi lãnh
vực khoa học, xã hội, kể cả ý niệm tự do dân chủ.
Mặt khác, tòan cầu hóa cũng đem lại sự đồng dạng
văn hóa : đó là văn hóa tiêu thụ, văn hóa vật
chất, và văn hóa cá nhân. Từ đó bản sắc dân tộc bị
xói mòn và đe dọa, kể cả ngôn ngữ khi mà Anh văn ngày
càng phổ biến. Sau hết, trên con đường khai phóng, có
một yếu tố rất quan trọng là sự đón nhận sự đóng
góp của những tinh hoa của người Việt đang sinh sống ở
hải ngoại.
4. Đại
chúng : Tính cách đặc thù
của nền giáo dục mang tính đại chúng không gì khác hơn
là cung cấp cơ hội giáo dục đồng đều cho mọi tầng
lớp xã hội, đặc biệt là những người kém may mắn.
Nền giáo dục phục vụ ưu tiên cho một tầng lớp xã
hội nào đó hiển nhiên là thiếu tính chất đại chúng.
Giáo dục đại chúng hướng vào thành phần căn bản và
lớn lao nhất của xã hội là lớp người bình dân, họ
thường là những người không có tiếng nói, bị áp bức
ở mọi thời đại và trong mọi chế độ. Hình như một
nhà Marxit Việt Nam có nói, đại chúng hóa chống mọi
chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông
đảo quần chúng hoặc xa lìa đông đảo quần chúng. Ngày
nay, trong thực tế, nền giáo dục Việt Nam ở nông thôn
thuộc vùng sâu và vùng xa, đang
là đông đảo quần chúng chịu
thiệt thòi và bất công nhất, mất hẳn tính cách Đại
chúng. Hơn nữa, trong khi đề cập tới giáo dục đại
chúng, người ta không thể không lưu tâm đến ý niệm
dân chủ, tự do, công bằng và nhân ái trong giáo dục.
5. Đa
văn hóa : Việt Nam là một quốc
gia có tới 52 sắc tộc mà sắc tộc nào cũng có những
nét đặc thù của văn hóa, dầu rằng đa số là sắc dân
Việt. Trái với chủ trương đồng hóa, giáo dục
đa văn hóa tôn trọng sự khác biệt đồng thời duy trì
ngôn ngữ, giá trị, thái độ, niềm tin, văn hóa của
những nhóm sắc tộc như những động lực tích cực
trong xã hội Việt Nam. Giáo dục đa văn hóa chấp nhận
phương cách mà con người truyền đạt và quan hệ với
những người khác, nhìn nhận sự khác biệt của học
sinh và phát triển khả năng, giá trị và thái độ của
mỗi em tuỳ theo nếp sống văn hóa riêng biệt và suy nghĩ
riêng của mỗi em. Trong giáo dục đa văn hóa người ta
không đánh giá cao thấp của một nền văn hóa mà là
nhìn nhận sự khác biệt. Cái nhìn về đa văn hóa không
phải chỉ áp dụng cho những nhóm sắc tộc trong nước
mà rộng hơn, đó còn là cái nhìn về các nền văn hóa
khác, nó giúp ta biết tự trọng mà không mặc cảm.
II. Giáo Dục Giá Trị Đạo
Đức.
Một vấn đề đặt ra là
có nên giáo dục đạo đức trong học đường hay không,
nếu không có lẽ là vì người ta nhân danh sự tự do tư
tưởng mà nếu có thì vì sao và đâu là những chuẩn mực
đạo đức.
Chúng tôi thiển nghĩ rằng
xã hội nào cũng cần đề cao giá trị đạo đức vì nó
là cốt lõi, là căn bản của xã hội; nó duy trì cho cuộc
sống cộng đồng được hài hòa, thăng tiến và hướng
thượng. Chuẩn mực của đạo đức không thể đóng
khung trong một số ý thức hệ mà là những điểm phổ
quát, được nhiều thành viên trong cộng đồng chấp
nhận. Trái với pháp luật có tính cách cưỡng chế, giá
trị đạo đức là những tấm gương, những gợi ý giúp
con người thăng tiến mà cũng là phương cách giúp cho xã
hội bảo tồn và phát huy văn minh tiến bộ đích thực.
Trong mấy chục năm qua các trường học
tại Việt Nam người ta dạy, hay nhắc tới, một thứ đạo
đức gọi là “Đạo đức Cách Mạng”, một thứ đạo
đức sặc mùi đấu tranh và đóng khung trong ý thức hệ
Cộng Sản chủ nghĩa.
Đối với xã hội Việt
Nam, cuộc sống đạo đức được coi như đang xuống giốc
: tham nhũng, lường gạt, mãi dâm, ma tuý, vô luân, sa đọa,
học giả bằng thật v.v. Tại học đường, học sinh,
sinh viên thiếu hẳn những đức tính căn bản để trở
nên người công dân tốt. Ngay trong phạm vi học tập,
tính tự trọng, tự lập, kỹ năng giải quyết vấn đề,
óc tự lập, sáng tạo v.v.. đều thiếu vắng. Nguyên nhân
chính là căn bệnh xã hội chồng chất từ thời Pháp
thuộc được “tài bồi” gấp bội từ 1945 đến nay.
Kiến nghị của Nhóm Nghiên cứu Cải cách Giáo dục, Hà
Nội, Việt Nam ghi :”Dân trí thấp, biểu
hịên trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư
tưởng, ý thức... Đạo đức bị xói mòn, thói gian
dối, thiếu trung thực đang tác động
nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội.” 2
Thiết nghĩ, xã hội nói
chung và học đường nói riêng cần học hỏi và thực
hành một số giá trị đạo đức tiêu biểu. Ta hãy thử
coi xem các xã hội khác giải quyết vấn đề đạo đức
tại học đường như thế nào và đâu là những điểm
then chốt.
Chúng tôi xin thu thập một
vài kinh nghiệm sau đây để cùng suy tư về vấn đề
giáo dục đạo đức. Chúng tôi cũng không dám khai triển
từng tiêu đề mà chỉ ghi ra những danh mục như là một
gợi ý, bởi vì nếu khai triển cho có ngọn nguồn thì
cần tới cả cuốn sách.
Tại Âu Châu, Gaston Berger
trong: Education dans un monde en accélération3
đã đề cập tới 6 đức tính chủ yếu (vertus cardinals)
mà nhà giáo dục cần huấn luyện cho con em, đó là : đức
trầm tĩnh (le calme), óc tưởng tượng ( l’imagination), sự
hăng say (l’enthousiasme), tinh thần tập thể (l’esprit
d’équipe), lòng dũng cảm (le courage) và ý thức về phẩm
giá con người ( le sens de l’humain).
Trong khi đó,
tại Hoa Kỳ, Wayne Dosick4
nêu ra “10 giá trị đạo đức” mà học đường và
phụ huynh cần dậy bảo con cái, đó là : sự kính trọng
(respect), lương thiện (honesty), tính công bằng (fairness),
trách nhiệm (responsibility), lòng trắc ẩn (compassion), lòng
biết ơn (gratitude), tình thân hữu (friendship), hòa bình
(peace), sự chgín chắn (maturity) và niềm tin (faith).
Trở về Đông phương và
Việt Nam, ta cũng bắt gặp những giá trị đạo đức độc
đáo như : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu, đễ, công
bình, bác ái, từ bi, hỷ xả v.v…
Ngoài luật pháp xã hội và
luật lệ học đường, gương sáng của người lớn và
người thầy tạo cho con em thói quen đạo đức nhuần
nhuyễn đến mức “tự động”, thấm sâu vào huyết
quản, lúc đó học đường và xã hội mới được coi là
tiến bộ.
Chỉ nhìn đại đa số người
dân Hoa Kỳ tôn trọng luật lệ giao thông ra sao, giáo chức
Hoa Kỳ đến trường, ra khỏi trường đúng giờ, không
đem về nhà một cây viết chì và đại đa số học sinh,
sinh viên có tinh thần tự giác, tự trọng, không gian lận,
không đi trên cỏ, luôn luôn xếp hàng, tôn trọng ưu
tiên, thứ tự, không chen lấn, không mánh mung, biết tôn
trọng của công v.v…ta mới thấy thế nào là giá trị
đạo đức như thấm vào huyết quản. Nói như vậy không
có nghĩa là xã hội Hoa Kỳ không có những vấn đề tiêu
cực, sa đoạ, lường gạt và bạo lực v.v… Đó là mặt
trái của xã hội, ở đâu cũng có. Vấn đề là cá biệt
hay phổ quát.
-
Tổ Chức Giáo Dục.
A. Giáo dục nước ngoài
Muốn đề ra đôi điều về
tổ chức giáo dục Việt Nam trong tương lai, thiết tưởng
nên nhìn vài đặc điểm giáo dục của vài quốc gia, từ
đó ta rút ra được một bài học cụ thể. Tổ chức
giáo dục trên thế giới rất đa dạng, muốn làm một
cuộc nghiên cứu, cần tới thời gian, và thiết lập
những biểu đồ so sánh v.v. Ở đây chúng tôi chỉ tóm
lược một vài nét tượng trưng :
1. Giáo dục Thụy Sỹ
: Giống như nước Mỹ, Thụy Sĩ trong cách tổ chức chính
trị và hành chánh, là một Liên bang ( Confédération ), bao
gồm nhiều Bang khác nhau, ngoài 2 lãnh vực ngoại giao quốc
tế và quốc phòng, mỗi Bang đều độc lập. Riêng trong
địa hạt giáo dục, mỗi Bang đều có những chương
trình và những cơ cấu tổ chức đặc thù, tùy vào điều
kiện kinh tế của mình.
Tiểu học từ 6 tuổi và
Trung học từ lớp 6 đến 12 : Bắt buộc và hoàn toàn
miễn phí cho mọi trẻ em và thanh thiếu niên. Riêng trẻ
chậm phát triển, có lớp đặc biệt bắt buộc và miễn
phí. Thêm vào đó, trẻ chậm phát triển, từ khi vào
trường đã có thể hưởng một số tiền được gọi là
an sinh xã hội để trang trải mọi chi phí di chuyển và
trị liệu đặc biệt ngoài học đường.
Các Đại học quan trọng và
danh tiếng hoàn vũ của Thụy sĩ là : Genève thuộc
Bang Genève, Lausanne của Vaud, Fribourg, Bern, và Zurich.
Bang Vaud có Lausanne là thủ
phủ, có một Đại học quan trọng có đủ mọi phân
khoa : Thần học, Văn chương, Khoa học kỹ thuật,
Nghệ thuật, Sinh ngữ, Y khoa, và Thương mãi. Để vào đại
học, sinh viên phải đậu bằng tốt nghiệp bao gồm hai
loại tú tài Bang và Liên bang. Với tú tài Liên bang, sinh
viên có thể đến học trong một đại học của Bang
khác. Thụy Sĩ sử dụng 4 ngôn ngữ chính thức :
Pháp, Đức, Ý và Romanche ( giữa tiếng Ý và tiếng
Latinh, có pha trộn một số từ Đức). Học sinh từ trung
học đã học 2 sinh ngữ : một sinh ngữ đang được
sử dụng trong Bang và một sinh ngữ khác trong 4 sinh ngữ
của Thụy Sĩ. Tại đại học, sinh viên phải lưu loát 2
sinh ngữ. Hiện tại đang có dự án chọn tiếng Anh làm
một sinh ngữ thứ ba. Nhưng quốc hội Liên bang chưa muốn
đem vào nghị trình.
2. Giáo dục Canada : Giáo dục Canada thuộc trách nhiệm của mỗi Tỉnh, do đó tổ chức giáo dục ở mỗi Tỉnh đều khác nhau. Giáo dục từ Mầm non (Nursery School or Head Start), Tiểu học đến hết lớp 12 đều miễn phí và mọi con em đều bị cưỡng bách giáo dục đến 16 tuổi. Khoảng 1/10 người Canada không học hết bậc trung học; có khoảng 1/7 có bằng cấp đại học và đây là một tiến bộ vì thị trường lao động đòi hỏi công nhân phải có bằng trung học hoặc đại học.
Canada chi khoảng 7% ngân sách dành cho giáo dục. Can thiệp của chính quyền Liên bang vào hệ thống giáo dục là vấn đề song ngữ Anh văn và Pháp văn, đặc biệt Tỉnh Quebec bắt buộc học sinh phải học Pháp văn. Canada có hệ thống giáo dục Đại học 3 năm lấy bằng Cử nhân (Bachelor’s degree) hoặc 4 năm lấy Honours Bachelor’s degree, tuy nhiên cũng có những ngoại lệ. Học phí Đại học cao hay thấp tùy theo tiền tài trợ của chính quyền địa phương.
Canada có cơ sở giáo dục tư thục bậc tiểu học và trung học, thường là những trường nổi tiếng. Cho đến nay chưa có trường Đại học tư thục, mãi tới năm 2006 mới có Đại học Sea to Sky ở Tỉnh British Columbia.
3. Giáo dục Đức : Hệ
thống giáo dục Đức được cải tổ toàn diện từ năm
1990, tuy nhiên giáo dục ở khu vực đông Đức còn nhiều
dị biệt.
Giáo dục tiểu học, ngoài
hệ thống công lập, có 5 hệ thống tư thục thuộc :
Waldorfschule, Montessorischule, Freie Alternativschule, Lutheran và
Công giáo. Giáo chức có cùng trình độ,
nhưng phụ huynh phải trả
thêm phụ phí nếu muốn cho con học trường tư.
Sau bậc Tiểu học 4 năm,
học sinh có thể chọn một trong 4 hệ thống Trung học :
(1) học 9 năm Gymnastium theo chương trình phổ thông;
(2) học 2 năm hướng nghiệp rồi học 6 năm Realschule
ngành kỹ thuật; (3) hoặc sau 2 năm hướng nghiệp học 5
năm Hauptschule ngành huấn nghệ. Cách khác là (4) học
Gesamtschule tức là chương trình phổ thong hỗn hợp
từ lớp 5 theo hệ thống đông Đức cũ. Tuy vậy, những
hệ thống ở bậc Trung học nói trên rất phức tạp,
thay đổi theo từng Tiểu bang.
Đại học Đức khá độc
đáo, có những lọai trường sinh viên chọn chương trình
học cho riêng mình và giáo sư chọn môn giảng dậy cũng
như nghiên cứu riêng, không giống như các nơi khác, có
một chương trình duy nhất mà sinh viên và giáo sư phải
theo. Vì vậy không có các lớp nhất định để sinh viên
cùng theo học và cùng tốt nghiệp. Sinh viên thường thay
đổi trường Đai học tùy theo sở thích và uy tín của
trường. Nhiều khi sinh viên theo học 2 hay 3 đại học
khác nhau về một môn học. Sự di chuyển này khác hẳn
với hầu hết các đại học trên thế giới. Cũng vì vậy
sinh viên thường ra trường trễ hơn so với hệ thống
bình thường.
4.
Giáo dục Nhật Bản
: Giáo dục được đánh giá cao tại Nhật Bản. Có 3 con
đường để học sinh Nhật học tập : trường công lập,
trường tư thục theo chương trình của chính phủ và một
loại tư thục không theo chương trình bình thường. Nước
Nhật chỉ cưỡng bách giáo dục đến hết bậc Trung học
cấp 1 nhưng 90% học sinh theo học hết bậc Trung học và
khoảng 2.5 triệu sinh viên theo học Đại học. Ở bậc
trung học, cấp 1 từ lớp 7 đến lớp 9 và cấp 2 từ lớp
10 đến lớp 12.
Giáo
dục Trung học ở Nhật có khuynh hướng chuẩn bị vào
Đại học. Những học sinh không có ý định vào Đại
học thường theo học chuyên ngành sau cấp 1 Trung học.
Nhật
Bản có Luật cải tổ giáo dục vào năm 1998, tiếp theo
là việc cải tổ chương trình vào năm 2002. Nước Nhật
rất nổi tiếng về giáo dục và văn hóa đại chúng nhờ
cuộc cải cách kỹ nghệ. Có tới trên 80% nam giới và
khoảng 70% nữ giới biết đọc biết viết và toán học
nhờ 14,000 trường học Bình dân tổ chức tự nguyện và
miễn phí.
Trái
với trường học tại Hoa Kỳ có nhiều môn học đặc
biệt và một đội ngũ quản trị đông đảo, trường
học Nhật Bản chỉ chú tâm vào những môn căn bản và
việc quản trị trường chỉ có một hiệu trưởng và
một giám học.
Học sinh tiểu học Nhật
học môn khoa hoc xã hội và khoa học thiên nhiên chung với
nhau. Bắt đầu từ lớp 3 đến hết Trung học, về ngành
nhân văn, có những môn riêng về công dân, địa lý, lịch
sử Nhật Bản và lịch sử thế giới, xã hội học và
kinh tế chính trị. Nhiều người Nhật tin rằng trường
học không những chỉ dậy những kỹ năng học vấn mà
phải giảng dậy cả nhân cách nữa, giống như quan niệm
xưa của Việt Nam là “tiên học lễ hậu học văn”.
Tóm lại học sinh Nhật đuợc học nhiều về môn giáo
dục luân lý, toán, khoa học, khoa học kỹ thuật, khoa học
nhân văn, Nhật ngữ và văn chương, ngoại ngữ, âm nhạc,
và thể dục.
Vì
có đông đảo thí sinh nên Đại học Nhật Bản phải tổ
chức kỳ thi nhập học. Vì các hãng xưởng có khuynh
hướng tuyển chuyên viên theo danh tiếng của từng trường
Trung và Đại học nên sự ganh đua của sinh viên khi chọn
trường cũng trở nên gay go hơn. Sinh viên Nhật mỗi năm
học 6 tuần nhiều hơn sinh viên Mỹ.
5. Giáo dục Hoa Kỳ :
Giáo dục Hoa Kỳ áp dụng hệ thống tản quyền từ ngân
sách đến chương trình và vì vậy việc hoạch định
dành cho các Ủy Ban Giáo Dục địa phương. Tiêu chuẩn
giáo dục được ấn định bởi mỗi Tiểu bang. Chính
quyền Liên bang, qua Bộ Giáo dục, chỉ cung cấp ngân
khoản và chỉ kiểm soát những chương trình có liên quan
tới việc cấp ngân khoản mà thôi. Việc chứng nhận uy
tín của trường học được thực hiện bởi những Tổ
chức tự nguyện từng miền thuộc những định chế giáo
dục khác nhau.Tại Hoa Kỳ, việc cưỡng bách giáo dục
đến lớp 12. Phụ huynh có thể gởi con em theo học trường
công hay trường tư tùy ý. Chương trình học không nhất
thiết chặt chẽ và đồng nhất như nhiều quốc gia.
Ngoài các lớp Mầm non, có
Mẫu giáo và bậc Tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 hay
lớp 6. Trung học cấp 1 thường từ lớp 6 đến lớp 8,
hay từ lớp 7 đến lớp 9 tuỳ theo Học khu. Trung học cấp
2 khởi sự từ lớp 9 hay 10 đến lớp 12.
Các môn học để tốt
nghiệp Trung học gồm có : Khoa học (sinh vật học, hóa
học và vật lý học), Toán học ( đại số học, hình
học, lượng giác học và calculus), Anh văn, Khoa học xã
hội ( lịch sử trong nước và thế giới, tổ chức chính
quyền, kinh tế học, và Thể dục ( mỗi ngày một tiết).
Có nhiều Tiểu bang thêm môn Hướng dẫn sức khỏe. Ở
cấp Trung học, có nhiều môn nhiệm ý để học sinh tùy
sở thích lựa chọn như : Nghệ thuật tạo hình (điêu
khắc, hội họa, chụp ảnh), Nghệ thuật trình diễn
(kịch nghệ, hòa nhạc, vũ, ca nhạc), Xưởng thợ ( mộc,
hàn, sửa xe), Vi tính ( word processing, programming), Thể thao
( túc cầu, dã cầu, bơi lội, thể dục, thủy cầu, tract
and field ). Tại Hoa Kỳ, giáo sư Trung học mỗi môn dạy ở
nguyên trong lớp của mình và học sinh phải di chuyển
theo từng tiết, khác với Việt Nam, giáo sư di chuyển đến
lớp cố định của học sinh.
Muốn vào Đại học phải
trải qua kỳ thi SAT và ACT để căn cứ vào điểm thi
trường sẽ chấp nhận hay không tùy theo trường và tùy
theo ngành. Phần đông khi vào các Đại học phổ thông
không phài qua kỳ thi nhập học. Đại học Hoa Kỳ có
loại 2 năm, có loại 4 năm. Tốt nghiệp 2 năm có bằng AA
hay AS, 4 năm có bằng BA hay BS. Hậu Đại học có bằng MA
hay MS, sau đó là Ph.D. Muốn theo học Hậu Đại học phải
qua kỳ thi GRE (tổng quát), LSAT (ngành luật), GMAT (ngành
thương mại), và MCAT ( y khoa).
Hầu hết giáo chức Tiểu
học và Trung học có bằng Cử nhân Anh văn hay Giáo dục.
Song song với bằng cử nhân phải học thêm các môn sư
phạm. Nếu muốn dậy Tiểu học, phải học các môn tổng
quát (all subjects), nếu muốn dậy Trung học, phải học
chuyên ngành (single subject). Ngoài các môn học bắt buộc,
phải trải qua kỳ thi bằng hành nghề. Giáo chức ngành
Đại học phải có MA, MS hay Ph.D.
Phương pháp giáo dục Hoa Kỳ
thiên về tinh thần dân chủ, tự do, sáng tạo và thực
dụng.
B. Vài đề nghị về tổ
chức giáo dục Việt Nam
Mỗi quốc gia có một hoàn
cảnh nhân văn và địa lý khác nhau, mặt khác còn tùy
thuộc vào hiện trạng giáo dục, phương tiện và nhân
lực, cho nên tổ chức giáo dục của một quốc gia này
cho dù có nhiều ưu điểm cũng không nhất thiết áp dụng
cho quốc gia khác mà vấn đề là sự lựa chọn.
1. Giáo dục chính quy
: Về mặt tổ chức, vì Việt Nam là một quốc gia tương
đối nhỏ bé, lại trải qua một cuộc phân ly, quan điểm
khác biệt trong một thời gian dài, thiết nghĩ tổ chức
giáo dục cần tập trung và đồng nhất. Sự tản quyền
nếu có sẽ ở giai đoạn sau này, chừng 10, 15 năm.
Về cơ cấu, có lẽ cũng
không ra ngoài thông lệ và phổ thông, tức là ngoài các
lớp Mầm non, qua bậc Tiểu học 5 năm, Trung học cấp 1,
bốn năm và Trung học cấp 2, ba năm. Tại bậc Đại học,
nên có loại 2 năm, 4 năm sao cho phù hợp với nhu cầu của
đất nước và hoàn cảnh của sinh viên, và những năm
hậu Đại học tùy theo ngành.
Về giáo dục Đại học
thiết nghĩ cần có những Đại học thực dụng và cần
thiết cho nhu cầu phát triển xứ sở theo tầm nhìn và
nhu cầu quốc gia hơn là đào tạo những người thiếu
khả năng, sau khi tốt nghiệp không biết làm gì, không
kiếm ra việc. Tới cuối năm 2004, Việt Nam có khoảng 70
trường Đại học đủ loại, chia ra 39 trường ở miền
Bắc (35 công lập và 4 dân lập), 8 trường ở miền Trung
(7 công lập và 1 dân lập), và 23 trường ở miền Nam (
20 công lập và 3 dân lập). Nhìn chung số lượng thì
nhiều nhưng phẩm chất được coi là yếu kém. Muốn cải
tổ giáo dục Đại học, thiết tưởng cần một tầm
nhìn sâu rộng, rút kinh nghiệm của các nước tân tiến,
nhất là các nước Á châu, nghiên cứu từng trường mới
giải được bài toán đại học Việt Nam, mà nhiều nhà
giáo dục ở trong nước gọi là Trung học cấp 4.
2. Giáo dục chuyên nghiệp
: Một khía cạnh khá cấp thiết đối với hoàn cảnh
Việt Nam là thiếu thợ chuyên môn và chuyên viên trung
cấp. Vì vậy, việc giáo dục tráng niên và chuyên nghiệp
phải được coi là quan trọng. Ngay từ Trung học cấp 2,
ngoài một hệ phổ thông để chuẩn bị vào Đại học,
nên có mấy ngành Trung học cấp 2 chuyên nghiệp để đào
tạo chuyên viên sơ cấp cho thị trường nhân lực. Điều
này phải phù hợp với kế hoạch kinh kế và nhân dụng
toàn quốc.
Ở Việt Nam đang có một
trào lưu trọng bằng cấp; người ta phải bon chen bằng
đủ mọi mánh lới để đạt mảnh bằng. Khi lãnh được
mảnh bằng rồi, ngoài việc bon chen trở thành cán bộ
nhà nước trong một bộ máy công quyền khổng lồ vô
hiệu năng, người ta không biết làm sao kiếm ra việc để
nuôi sống mình và góp phần vào sự hưng thịnh quốc gia
vì “lỡ thầy lỡ thợ”. Ở đâu cũng vậy, thị trường
công việc không có chỗ cho những người kém tay nghề và
học vấn kém là hậu quả thất nghiệp.
Vì vậy, giáo dục trung cấp
và cao đẳng chuyên nghiệp 2 năm cần được lưu tâm và
phải có một chương trình học thực dụng, đáp ứng
đúng nhu cầu thiết thực của các hãng xưởng, đặc
biệt là ngành điện tử, cần tới những chuyên viên
trung cấp. Theo kinh nghiệm của các nước tiền tiến như
Nhật Bản và Hoa Kỳ, những chuyên viên trung cấp này,
trong khi làm việc có thể tiến lên hàng kỹ sư qua kinh
nghiệm không cần qua bằng cấp.
3. Giáo dục đại chúng
: là giáo dục thành phần đông đảo nhất trong xã hội
ở tuổi trưởng thành và đã đi làm : phụ nữ, thanh
niên, cao niên, công nhân, nông dân, công tư chức v.v…mỗi
giới có nhu cầu học vấn riêng biệt.
Trước hết, giáo dục đại
chúng nhằm thanh toán nạn mù chữ, rồi đến việc nâng
cao trình độ học vấn về văn hóa tổng quát và kiến
thức chuyên môn; mục tiêu khác là giúp những người học
dở dang có cơ hội tiếp tục học thêm để thâu đạt
những văn bằng cao hơn. Trong hoàn cảnh Việt Nam, giáo
dục công dân trong việc giáo dục đại chúng cũng trở
nên cần thiết vì trong nhiều năm người dân chỉ biết
đến “tuyên truyền”, “cuộc đời hai mặt” hơn là
cách sống và hành xử của người công dân chân chính.
4. Giáo dục tư thục
: Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, ngân sách
quốc gia không được dồi dào, vì vậy chính quyền cần
tới sự tiếp tay của các tổ chức tôn giáo và tư nhân
trong lãnh vực giáo dục. Việc khuyến khích tư nhân chia
sẻ gánh nặng giáo dục với chính quyền là điều cần
thiết, đặc biệt là các lớp Mầm non và Đại học. Dù
muốn hay không trong quá khứ tư thục đã đóng góp nhiều
cho công cuộc giáo dục chung của xứ sở. Chính quyền
cần có biện pháp nâng đỡ trường tư bằng cả tinh
thần lẫn vật chất đồng thời chính quyền cũng cần
kiểm soát tư thục để bảo vệ phẩm chất cho học
sinh, sinh viên tránh khuynh hướng thương mại hóa giáo
dục.
IV. Chương Trình Giáo
Dục.
Chương trình giáo dục phải
thể hiện đường hướng dân tộc, nhân bản, khai phóng,
đại chúng và đa văn hóa và chính sách của quốc gia.
Việc soạn thảo chương trình giáo dục đòi hỏi thời
gian và nỗ lực tập thể. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu
ra môt số gợi ý như là những tiêu chuẩn của chương
trình:
A. Chương trình:
Một cách tổng quát, giáo
dục lấy con người làm cứu cánh, lấy đạo đức làm
chỉ tiêu và việc giáo dục, nói theo John Dewey, nhằm vào
tòan diện đứa trẻ, nói cách khác là nền giáo dục chủ
yếu nhắm vào đứa trẻ ( child-centered education) với một
số chủ điểm5
:
-
Mọi con em đều được học hỏi đầy đủ và lưu tâm đặc biệt đến các thành phần yếu kém, khuyết tật.
-
Các em xứng đáng được hưởng nền giáo dục đồng đều về chất lượng, không phải chỉ là số lượng.
-
Chất lượng của nền giáo dục mà phụ huynh mong ước cho con em mình là nền giáo dục tốt nhất.
-
Nền giáo dục tốt nhất là sự chuẩn bị để giảng dậy trong môi trường sống và nhà trường được lượng giá về phẩm chất trong việc chuẩn bị và thực hành.
-
Ba điều nền giáo dục cần chuẩn bị cho học sinh, sinh viên là : một kế sinh nhai xứng hợp, một công dân tốt, và một đời sống tốt đẹp.
-
Nguyên nhân chủ yếu của việc học tập đúng đắn là họat động của chính trí óc người học, đôi khi nhờ sự giúp đỡ của người thầy, hành xử như là nguyên nhân cộng tác và thứ yếu.
-
Ba lọai giảng dậy cần có ở học đường là : giảng dậy giáo khoa về môn học, huấn luyện kỹ năng học hỏi, và dùng phương pháp vấn đáp trong cuộc tranh luận hội thảo.
-
Kết qủa của ba lọai giảng dậy kể trên phải là : thu nhận kiến thức được hệ thống hóa, đào tạo thói quen của kỹ năng trong việc dùng ngôn ngữ và tóan học, và tăng trưởng hiểu biết về những ý tưởng và phát biểu của trí tuệ.
-
Thâu đạt kết quả của mỗi học sinh, sinh viên phải được lượng giá về khả năng học hỏi của họ.
-
Hiệu trưởng và giáo chức tự mình phải tích cực cam kết liên tục học hỏi.
Bàn về môn học, có thể
nêu ra một vài tiêu chí đặc biệt :
-
Về khoa học nhân văn nói chung, tôn trọng kiến thức quốc tế và đề cao dân tộc tính.
-
Về khoa học lịch sử, tôn trọng tính khách quan và vô tư, loại bỏ thứ lịch sử tuyên truyền và sử gia cung đình.
-
Về văn chương, đánh giá cao mọi khuynh hướng văn học nghệ thuật trên khắp nước. Nhà văn, nhà thơ cũng như tác phẩm phải thể hiện đích thực chân tài và giá trị nghệ thuật được đại chúng thẩm định.
-
Đề cao toán học vì tóan học là cửa ngõ bước vào khoa học và lý luận.
-
Về khoa học thực nghiệp phải bắt kịp những tiến bộ của xã hội về mọi phương diện.
-
Về kỹ thuật điện tử và tin học phải theo sát phát minh và tiến bộ “đi hia bẩy dặm”của thời đại.
-
Về ngọai ngữ, phải chọn lựa những ngôn ngữ thông dụng và áp dụng phương pháp giảng dậy và học hỏi linh động, thực tiễn để sử dụng nhuần nhuyễn cả ba khía cạnh viết, nghe và nói.
-
Cần đề cao giáo dục thể chất và giáo dục sức khỏe.
Sau đây là một số quan
điểm liên quan tới bậc Đại học :
-
Giáo dục về giá trị đạo đức, giáo dục con người và giáo dục công dân phải được đặt lên hàng đầu với những ý niệm căn bản như : dân tộc, nhân bản, khai phóng, khoa học, công bằng, nhân ái, dân chủ, tự do v.v..
-
Nguyên tắc tự trị Đại học phải được tôn trọng gồm có : quản tri, bổ nhiệm nhân sự, tuyển sinh, cấp phát văn bằng.
-
Giáo dục Đại học phải xây dựng lại từ gốc bằng chủ trương hiện đại hóa, phù hợp với văn hóa dân tộc và tiến bộ của thế giới, đồng thời giữ vai trò chủ đạo trong việc phát triển đất nước.
-
Cần phải thay đổi tư duy giáo dục cách trung thực và sáng tạo; thay đổi nội dung chương trình sao cho thực tiễn, nhẹ nhàng mà hữu hiệu, phương pháp sao cho linh động, tránh từ chương, phát triển cá tính và tinh thần tự học, thực học, chú tâm vào việc nghiên cứu và sáng chế, và tổ chức hợp lý, gọn gàng, dân chủ, đọan tuyệt với lề lối quan liêu đảng đòan.
-
Nội dung các môn học và chương trình chuyên ngành, các trường Đại học nên chú tâm vào xu thế tòan cầu và thực trạng đất nước. Ngòai các môn nhân văn, tóan học, khoa học, ngọai ngữ, đặc biệt chú tâm đến các môn kinh tế, thương mại, internet, công nghệ thông tin, điện tử, nghiên cứu khoa học và giáo dục thể chất.
-
Phải cải tổ tòan diện việc thi cử sao cho hữu hiệu trong đó có việc áp dụng hệ thống tín chỉ, kiểm tra theo từng cá nguyệt hay học kỳ, thay vì chỉ có kỳ thi tốt nghiệp.
-
Phải có chương trình đào tạo hậu đại học theo tiêu chuẩn quốc tế, với tinh thần tự trọng, đề cao phẩm chất, và chống gian dối.
-
Đại học sư phạm giữ vai trò chủ yếu trong giáo dục vì là nơi đạo tạo những nhà giáo dục trên ba phương diện : giáo dục đạo đức nghề nghiệp, giáo dục chuyên ngành và kỹ năng sư phạm. Trường Sư phạm phải là một trung tâm nghiên cứu giáo dục.
-
Vấn đề nhân sự trong giáo dục là điểm then chốt : làm sao có một đội ngũ có khả năng và nhiệt tâm, làm sao mời gọi được sự cộng tác của các nhà giáo dục ở trong nước và ngòai nước kể cả người ngọai quốc, làm sao có một chính sách đãi ngộ giáo chức để họ yên tâm chăm lo cho giáo dục.
B. Sách giáo khoa :
Sách giáo khoa phải được
sọan thảo theo sát chương trình do những nhóm tư nhân
đảm trách; tư nhân được sọan thảo tự do. Cùng một
cấp lớp và cùng một môn học có thể có nhiều nhóm
sọan thảo khác nhau. Sách sử dụng được tuyển lựa
bởi một cơ quan trung ương hoặc các cơ quan địa
phương. Sách giáo khoa Đại học do Đại học quyết định.
C. Học cụ :
Trường học phải được
cung cấp học cụ, đặc biệt là máy computer để cho bài
học được thực tiễn và linh động.
D. Một trường hợp điển
hình:
Để có một thí dụ cụ
thể, xin nêu ra vài điểm liên quan đến Luật giáo dục
năm 1994 của Hoa Kỳ với những mục tiêu cụ thể cho năm
2000:
-
Mọi con em sẵn sàng học tập khi tới trường (Ready to Learn)
-
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học sẽ tăng lên ít nhất 90% (High School Completion)
-
Mọi học sinh học hết lớp 4, 8, và 12 phải chứng tỏ khả năng về những môn học bao gồm Anh văn, toán, khoa học, ngoại ngữ, công dân giáo dục và chính quyền, kinh tế, nghệ thuật, sử ký và địa lý, và mỗi trường tại Hoa Kỳ phải bảo đảm rằng mọi học sinh học hỏi biết dùng trí óc tốt, để các em chuẩn bị thành những công dân có trách nhiệm, học hỏi cao hơn, và nghề nghiệp có năng xuất trong nền kinh tế hiện đại của quốc gia. (Student Achievement and Citizenship)
-
Học sinh sẽ dẫn đầu thế giới về sự thành đạt môn toán và khoa học. (Mathematics and Science)
-
Mọi tráng niên đều biết đọc biết viết, có sự hiểu biết và khả năng cần thiết để tranh đua trong nền kinh tế toàn cầu và hành xử quyền và bổn phận công dân. (Adult Literacy and Lifelong Learning)
-
Mỗi trường học sẽ tránh khỏi nạn nghiện hút, bạo lực, súng đạn và rượu chè, đồng thời được cung ứng một môi trường kỷ luật dẫn tới việc học hành tốt. (Safe, Disciplined, and Alcohol, and Drug-Free Schools)
-
Cơ cấu giảng dậy của quốc gia tiếp cận với những chương trình để tăng tiến liên tục những kỹ năng chuyên nghiệp và tạo cơ hội để thủ đắc sự hiểu biết và kỹ năng cần thiết hầu giảng dậy và chuẩn bị cho mọi học sinh hướng về thế kỷ tới. (Teacher Education and Professional Development)
-
Mọi trường học sẽ cổ võ sự phối hợp để tăng gia sự dấn thân và tham dự của phụ huynh trong việc khích lệ sự thăng tiến xã hội, suy tư và học hành của con em. (Parental Participation).
-
Vấn Đề Nhân Sự và Việc Giảng Dậy
-
Giáo chức.
Trong việc giáo dục, vấn
đề nhân sự là yếu tố quyết định sự hữu hiệu và
thành đạt của con em. Vấn đề nhân sự hiện nay là một
vấn để phức tạp, trước hết là vì giáo chức không
đuợc huấn luyện đồng đều theo một tiêu chuẩn nhất
định. Nếu có nhiều giáo chức có khả năng nhờ học
hỏi đến nơi đến chốn ở trong nước hay ngòai nước
và có công trau dồi nghề nghiệp và nghiên cứu thì cũng
có giáo chức chưa có đầy đủ kiến thức theo tiêu
chuẩn tối thiếu nhưng đã được giảng dậy và điều
hành giáo dục các cấp, nhờ “mánh mung”, học giả
bằng thật, nhờ thành tích “cách mạng” thành tích
“đòan, đảng”, nhờ “học tại chức”, nhờ có bằng
“hữu nghị” v.v..
Trên đây chỉ mới đề cập
tới vấn đề học vấn. Trong ngành giáo dục còn một
vấn đề nữa là đạo đức chức nghiệp. Người thầy
cho dù có tài mà thiếu lương tâm chức nghiệp, thiếu
đạo đức người thầy, không thể làm giáo dục được.
Ở Việt Nam từ thời xa xưa, mọi ngành nghề khác đều
được gọi là nghề, chỉ có ngành giáo dục được coi
là sứ mệnh, “sứ mệnh giáo dục”, sứ mệnh dẫn dắt
con em, nó là một thiên chức thiêng liêng, đáng quý
trọng. Môt người thầy, tự thâm tâm, gian dối với
chính mình, dậy một đàng, làm một nẻo, không tin chính
những điều mình truyền đạt cho con em, làm sao có thể
xứng đáng đứng trên bục giảng dậy. Đó là chưa kể
tới người thầy dậy học sinh, sinh viên dò xét, tố khổ
cha mẹ, canh chừng những người thầy khác.
Người thầy còn là tấm
gương cho học sinh, sinh viên noi theo. Một người thầy
lợi dụng học sinh bằng mánh lới dậy thêm, quà cắp
mới cho điểm tốt, thậm chí nghiện hút, bê tha v.v. làm
sao có thể đào tạo được lớp công dân tốt cho mai
hậu.
Trong công tác cải cách giáo
dục, vấn đề “gạn đục, khơi trong” phải dược đặt
lên hàng ưu tiên. Nếu không có cách gì để tái kiểm
nhận văn bằng thì một số giải pháp phải được đặt
ra : Trước hết là thiết lập chứng chỉ hành nghề.
Giáo chức mọi cấp phải thi bằng hành nghề theo một
văn kiện lập quy chi tiết. Sau khi có chứng chỉ hành
nghề mới được tái bổ dụng. Để khuyến khích việc
học hỏi liên tục, mỗi 5 năm chẳng hạn phải thi lại
bằng hành nghề. Tới một thời gian nào đó, chẳng hạn
sau 10 năm mới được cấp bằng hành nghề vĩnh viễn.
Việc kiểm sóat giảng dậy
phải thực hiện hàng năm. Người thầy được tự do
thiết lập giáo án, không bị bó buộc cứng nhắc và vô
hồn như hiện nay.
-
Học sinh sinh viên :
Chúng tôi xin miễn bàn về
nhân sự trong việc quản trị và học tập; chỉ xin nêu
ra một điểm là nên có tổ chức Hiệu đòan trong ý
hướng đòan ngũ hóa học sinh trong mục đích huấn luyện
thanh thiếu niên thành những công dân tốt, chỉ với mục
tiêu giáo dục. Tại đại học, nếu có việc đòan ngũ
thì vấn đề tự trị của sinh viên cần phải đặt ra
vì sinh viên đã trưởng thành. Trong trường học, không
thể có một đảng phải nào được phép đòan ngũ hóa
học sinh, sinh viên nhất là tổ chức đó lại có mục
đích chỉ huy và khống chế giáo dục từ tư tưởng đến
lãnh đạo, còn tạo nên một giai cấp bất bình đẳng
trong học đường.
Một khi giải tán cơ chế
đẳng, đòan trong học đường người ta hy vọng cắt bỏ
một cơ chế rườm rà vô ích, giảm thiếu ít nhất từ
7% đến 10% ngân sách giáo dục để dùng vào những việc
cần yếu hơn trong giáo dục.
V. Thay Lời Kết Luận.
Trong khi kết thúc bài này,
chúng tôi không thể không nghĩ tới bể học mênh mông và
tương lai đất nước vì chính sách giáo dục ngày hôm
nay có ảnh hưởng tới ít nhất hai thế hệ kế tiếp.
Chúng tôi nghĩ tới một xã hội đang đổi thay nhanh chóng
làm cho con người phải ứng phó với những đổi thay đó,
kể cả những nghề nghiệp sẽ biến mất đi và những
nghề nghiệp mới gia nhập thị trường. Xã hội càng
tiến nhanh, giáo dục dậm chân tại chỗ thì khỏang cách
tụt hậu ngày càng rộng lớn. Sau hết cải cách giáo dục
gợi lại vài suy tư về hạnh phúc của con người và
thân phận làm người.
1. Cải cách giáo dục là
một nhu cầu thiết yếu của quốc gia.
Theo ý kiến của nhiều tầng
lớp và khuynh hướng xã hội khác nhau, cải đổi, ngay cả
cách mạng giáo dục là giải pháp cấp bách cho con bệnh
trầm kha của xã hội Việt Nam. Nguyên cớ chính là một
quan niệm lỗi thời về giáo dục, dựa vào một chủ
thuyết ngọai lai, phủ nhận dân tộc tính và một bộ
máy đảng trong cơ cấu giáo dục. Khi đề ra một vài gợi
ý về tương lai giáo dục, chúng tôi chưa biết việc cải
cách sẽ sẩy ra ở thời điểm nào và bằng cách nào.
Nếu việc cải cách sẩy ra sớm được ngày nào thì vạn
phúc cho dân tộc ngày đó. Hơn nữa cuộc cải tổ sẽ
sẩy ra cách nào, do chính nhà cầm quyền đương thời
nhận chân được tầm quan trọng và giá trị của việc
đổi mới “cởi trói” cho giáo dục, trả giáo dục về
cho giáo dục thuần túy. Có thể sự đổi thay giáo dục
sẩy ra trong một cuộc đổi thay chính trị từ từ hay
đột biến. Tất cả còn là những ẩn số.
Riêng trong hoàn cảnh Việt
Nam, do một biến cố sẩy ra từ năm 1975, nay đã có hàng
ngàn vạn chuyên viên đủ mọi ngành ở khắp năm châu
bốn bể, trực tiếp tham dự vào mọi lãnh vực xã hội,
đã chứng nghiệm về sự tiến bộ của xã hội họ đang
sinh sống, hẳn sẽ giúp vào sự tiến bộ của Việt Nam
khi hoàn cảnh cho phép. Trong lãnh vực giáo dục ở các
quốc gia tân tiến, những người Việt tham gia vào ngành
giáo dục từ tiểu học, trung học đến đại học là
một con số rất đáng nể trọng. Ở bậc đại học
chẳng hạn, người ta thấy có nhiều giáo sự Việt nổi
tiếng, nhiều khoa trưởng, viện trưởng sánh vai với
người địa phương. Tại Trung Tâm NASA chẳng hạn, ngay
từ thập niên 60 và nhất là hiện nay, ta đã thấy có sự
hiện diện của những nhà khoa học và những chuyên viên
Việt Nam lỗi lạc. Làm sao tạo cơ hội cho những chuyên
viện Việt ở khắp nơi góp phần vào tương lai giáo dục
Việt Nam.
2. Tương lai xã hội lòai
người là khả năng tư duy.
Bước vào thế kỷ 21, thế
giới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Cuộc sống,
xã hội và nền kinh tế đã trở nên đa dạng và phức
tạp hơn.
Kiến thức khoa học và kỹ
thuật thay đổi không phải hàng năm mà là hàng ngày. Năm
năm trước, một con “chip” điện tử đã có thể vận
hành 4 tỷ lần trong một giây (4 billionths of the second),
ngày nay nó có thể vận hành tới 200 tỷ tỷ lần (200
trillionths). Bấm một nút máy điện tóan, trong một vài
giây, E-Mail đã chuyển dữ kiện, có khi là cả cuốn sách
ngàn trang, từ nơi này sang nơi khác, cách xa ngàn dặm. Cả
một bộ Bách khoa tự điển 30 cuốn đuợc lưu trữ trong
một “fiber” bằng sợi tóc. Kỹ thuật vệ tinh đã giúp
cho hàng tỷ người trên khắp hành tinh có thể biết được
những biến cố trên hòan cầu vừa sẩy ra trong ít phút;
người ta dù ở cách xa ngàn dặm, có thể theo dõi một
trận thể thao quốc tế hay cuộc bầu cử Giáo Hòang Công
giáo. Máy truyền hình của một gia đình có thể coi tới
100 tầng số, mai này có thể lên tới 500 tầng số. Qua
mạng lưới điện tóan người ta chỉ cần ngồi ở nhà
tham khảo mọi lọai tài liệu lưu trữ ở những thư viện
lớn, những đại học, những cơ sở truyền thông, và
nhiều nguồn tài liệu khác tỷ dụ như Google. Điện
thọai cầm tay, máy “fax”, “voice mail”, là những nhu
cầu chóng mặt trong lãnh vực truyền thông. Nên nhớ
rằng, tất cả những gì sẩy ra trong cuộc cách mạng
điện tử chỉ mới được coi là bắt đầu.
Tất cả những điều đó
có ý nghĩa gì cho chúng ta và con cháu chúng ta? Đâu là
tương lai giáo dục phù hợp với một xã hội đổi thay
với một tốc độ chóng mặt ? Trong một thế giới đổi
thay như vậy, liệu những tuyên truyền, khẩu hiệu, áp
chế sẽ giúp gì vào sự thăng tiến con người trong thế
kỷ 21 ? Giải pháp phải chăng là một phương pháp giảng
dậy và học hỏi tuyệt hảo, một sự suy nghĩ phân tích,
suy nghĩ sáng tạo, sự tự tin và khôn ngoan trong giáo dục.
Một tấm gương suy tư và sáng tạo đã đem đến kết
quả cho cá nhân và thay đổi bộ mặt thế giới là Bill
Gates về Microsoft rất đáng cho mọi người quan tâm.
3. Phải chăng cần có một
quan niệm rõ rệt về hạnh phúc của con người?
Suy tư sâu xa về yếu tính
của giáo dục, một vấn đề căn bản khác được đặt
ra, phải chăng đó là cần tới một quan niệm rõ rệt về
hạnh phúc đích thực của con người, về những điều
kiện sinh sống xứng đáng của con người. Cuộc khủng
hỏang xã hội trầm trọng do nền văn minh cơ khí, điện
tử và tin học gây nên tại nhiều quốc gia ngày nay cùng
những công trình nghiên cứu của ngành môi sinh học, hâm
nóng địa cầu, cạn dần tài nguyên v.v… đã giúp chúng
ta thấy được những mối tương giao thiết yếu giữa
con người với đồng lọai và vũ trụ chung quanh. Những
tiện nghi và phương tiện kỹ thuật với cơ cấu tổ
chức xã hội văn minh thực sự đã đem đến cho con người
một sự thỏai mái, đã giải thóat con người được
phần nào ra khỏi sự nặng nhọc của sức cần lao, đã
giúp con người làm chủ được sự sản xuất của mình
và tạo đựơc đôi chút bảo đảm an tòan cho bản thân.
Nhưng các điều kiện sinh sống đó cũng là mối đe dọa
thường xuyên đưa con người đến lệ thuộc vật chất
và hủy diệt tình nghĩa con người trong xã hội.
Xã hội Việt Nam trong những
năm cởi trói về mặt kinh tế thị trường, lại tạo
nên nỗi bất công xã hội ngày càng trầm trọng mà lớp
người nghèo, kém may mắn, cả thế kỷ qua, vẫn là “con
sãi chùa cả ngày quét lá đa” kéo theo những tệ nạn
xã hội ngày thêm trầm trọng. Hố cách biệt quá rõ rệt
giữa thành thị và nông thôn là chốn nghèo khổ, thiếu
thốn và áp bức càng gia tăng. Vấn đề là làm sao thực
hiện được giấc mơ công bằng xã hội và giải phóng
con người.
Một nền giáo dục dân tộc,
nhân bản, khai phóng, đại chúng và đa nguyên có đáp ứng
cho tương lai dân tộc hay không. Những điều cốt lõi đó
nằm trong trách nhiệm của các nhà giáo dục như là một
thách đố của thời đại.
Tài
Liệu Tham Khảo :
-
Đại
Học Quốc Gia Hà Nội Web,
144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội.
-
Giáo
Dục và Thời Đại Web,
Cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
-
Hướng
Về Giáo Dục,
trang Web chính thức của Nhóm Nghiên Cứu Cải Cách Giáo
Dục, Hà Nội.
-
Talawas
Forum Web,
Tổng Biên Tập : Phạm Thị Hoài.
-
Thanh
Niên Online,
Diễn Đàn của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, 248
Cống Quỳnh, Quận 1, Saigon
-
Tuổi
Trẻ Online,
Cơ Quan của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, 60A
Hoàng Văn Thụ, Phường 9, Quận Phú Nhuận, Saigon.
-
Việt
Nam Net,
(VNN.VN) Công ty phần mềm và truyền thông VASC. Cơ quan chủ
quản : Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam.
-
Việt
Nam News Network
(VNN), 15568 Brookhurst St., # 247, Westminster, CA 92683, USA.
-
Vụ
Đại Học Web.
-
Education
by country on Intelipedia Web.
-
BBC
-
RFA
-
RFI
-
VOA
- Tư liệu
- Colin
Rose & Malcom J. Nicholl,
“Accélérated Learning for the 21st
Century,
Delacorte Press, 1997
- Dương
Thiệu Tống,
“Văn hóa giáo dục Việt Nam”, NXB Trẻ, 2000
- Jeanne
Gough, “Education
Source Book”, Ommigraphics, Inc., Detroit, MI, 48226, 1997
- Kim
Định, “Nhân
Chủ”, Thanh Niên Quốc Gia xuất bản,
- Marvin
Cetron & Margaret Gayle
“Educational Renaissance”, St. Martin’s Press, New York, 1991
- Mortimer
J. Adler,
“Reforming Education”, Geraldine Van Doren, Collier Books, New
York, 1990
- Nguyễn
Sỹ Tế, “Tiểu
luận văn hóa và giáo dục” Trúc Lâm, 2000
- Thái
Dịch Lý Đông A,
“Huyết Hoa”, Nhóm nghiên cứu văn hóa dân tộc Việt,
1986
- Thomas
Sowell, “Inside
Américan Education”, The Free Press, New York, 1993
- Trần
Hồng Châu, “Dăm
ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật”, Văn Nghệ, 2001
- Xuân
Diệu, “Suy nghĩ
về bản sắc văn hóa dân tộc” NXB Chính Trị Quốc Gia,
1994
- Wayne
Dosick, “Golden
Rules”, Harpe San Francisco, 1995
1
Nguyễn Sỹ Tế, “Tiểu luận văn hóa và giáo dục”
Trúc Lâm 2000, USA
2
Kiến Nghị của 23 trí
thức trong Nhóm Nghiên Cứu Giáo Dục, Hà Nội, tháng 9
năm 2004
3
trích lại từ Kim Định, “Nhân Chủ”, Thanh Niên Quốc
Gia, trang 149, 150
4
Wayne Dosick, “Golden Rules”, Harpe San Francisco, 1995