TS Bùi Hạnh Nghi
Tinh Thần Nhân Bản trong Đoạn Trường Tân Thanh
Văn chương không
chỉ là một thú tiêu khiển mà còn có tác dụng đào luyện nhân tính và
kìm hãm thú tính trong con người. Nói cách khác bên cạnh sứ mạng
nghệ thuật, văn chương còn có một sứ mạng nhân bản. Có thể vì thế mà
cách đây ít lâu Đại Hội Văn Bút Quốc Tế tại Vienne đã lấy đề tài :
“Tương quan giữa văn chương và cuộc sống thực tế” làm trọng tâm thảo
luận cho các buổi sinh hoạt văn chương tại Đại Hội. Câu hỏi được đặt
ra là: "Văn chương có ảnh hưởng gì trên đời sống thực tế không và
nếu có thì ảnh hưởng như thế nào?" Tuy các diễn giả cũng như tham dự
viên đã đưa ra nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này, nhưng mọi
người đều đồng ý về sứ mạng nhân bản của văn chương.
Đoạn Trường Tân
Thanh của Nguyễn Du được truyền tụng trong mọi tầng lớp xã hội và
từng làm rung động con tim hàng triệu triệu người, từ trí thức đến
lao động, từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo, không phải chỉ vì đó là
một kiệt tác văn chương mà nhất là vì Đoạn Trường Tân Thanh đầy
tính chất nhân bản, chứa đựng tiếng nói trung thực của tình yêu được
giải phóng khỏi một số ràng buộc khắt khe lỗi thời của lễ giáo,
tiếng than ai oán của những người ngụp lặn trong đau khổ, tiếng phẫn
nộ căm hờn trước những bất công, tiếng kêu ca của lớp người bị áp
bức, tiếng nói của niềm ước vọng một đời sống bình yên hạnh phúc
được công lý và nhà cầm quyền bảo vệ che chở, một cuộc đời có phẩm
giá, không phải bó thân làm nô lệ, không bị hành hạ sỉ nhục đọa đày.
Nội dung truyện
Kiều là chuyện tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng được lồng trong khung
cảnh của những triết thuyết tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân và
rất nhiều tư tưởng Phật Giáo đặc biệt là thuyết nhân quả và giá trị
của nỗ lực tu thân. Trong khuôn khổ bài này tôi sẽ không bàn đến
những phạm trù triết học và tôn giáo cao siêu vừa kể. Chỉ xin tự
giới hạn vào việc trình bày những nét nhân bản trong quan niệm về
tình yêu đôi lứa, về tình người và lòng trắc ẩn đối với những người
xấu số cũng như qua lời phê phán về tệ đoan xã hội.
I- Nhân Bản Trong Quan Niệm Về Tình Yêu Lứa Đôi
1- Tình yêu khai
phóng và tự do luyến ái
Truyện Kiều thể
hiện chủ trương tự do luyến ái, vượt xa thời đại của tác giả, vẽ
lên hình ảnh một tình yêu khai phóng, giải phóng con người khỏi một
mớ ràng buộc hẹp hòi của lễ giáo.
Đường vào tình
yêu của Kim Trọng và Thúy Kiều được Nguyễn Du bài trí trong một
khung cảnh cực kỳ diễm lệ. Chàng đã đến với nàng trong cung cách của
một văn nhân thư thái nhàn hạ:
Trông chừng thấy
một văn nhân
Lỏng buông tay
khấu bước lần dặm băng.
(135-36)
Quanh chàng, tất
cả, từ âm thanh đến màu sắc, đều tạo thành một bầu khí thanh tao đẹp
đẽ:
Tuyết in sắc
ngựa câu dòn,
Cỏ pha màu áo
nhuộm non da trời.
...
Hài văn lần bước
dặm xanh,
Một vùng như thể
cây quỳnh cành giao.
(139-144)
Lai lịch quí
phái càng làm sán lạn thêm lớp hào quang bao phủ người chàng: Nào là
trâm anh, nào là phú hậu, nào là tài danh.
Rồi đến:
...Văn chương
nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo
tuyệt vời,
Vào trong phong
nhã ra ngoài hào hoa.
(150-52)
Kiều gặp một
người như Kim Trọng, mặc dầu nàng “e lệ nép vào dưới hoa”
trong một cung cách vừa đầy nữ tính vừa hợp gia phong, nàng đã cảm
nhận tiếng sét ái tình. Điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Còn Kim Trọng gặp được trang quốc sắc mà chàng đã nghe tiếng và
“trộm dấu thầm yêu” thì sự nảy nở của tình yêu ngay trong buổi đầu
gặp gỡ cũng chỉ là chuyện thường tình.
Người quốc sắc
kẻ thiên tài,
Tình trong như
đã mặt ngoài còn e.
Nhưng đối với
thời đại Nguyễn Du thì chuyện đó không phải là chuyện thường mà là
cả một cuộc cách mạng. Con tim đã thắng những ước lệ ngàn đời. Ngay
trong buổi đầu "mặt ngoài còn e", Nguyễn Du đã để hai người
sa vào mê hồn trận, bằng một câu thơ mà từ cách dùng chữ cho đến
tiết tấu và âm điệu đã xóa nhòa biên giới giữa thực và mộng:
Chập chờn cơn
tỉnh cơn mê
(165)
Nhưng rồi giờ từ
biệt cũng phải đến. Bao bồi hồi lưu luyến lúc chia tay đã thể hiện
lên dáng dấp của Kiều:
Bóng tà như dục
cơn buồn,
Khách đà lên
ngựa người còn nghé theo.
(162-63)
Để kết thúc đoạn
văn tường thuật đượm tình, Nguyễn Du đã đem tâm sự hai người lồng
vào cảnh vật, mượn giòng nước trong veo và bóng chiều thướt tha trên
cành liễu để diễn tả vẻ dịu dàng trong sáng hài hòa của tình yêu
chợt đến:
Dưới giòng nước
chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu
bóng chiều thướt tha.(169-70).
Hai câu thơ này
là một trong vô số ví dụ điển hình về nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn
Du: vừa tả chân một cách trung thực, vừa mượn cảnh vật để nói lên
tình cảm trong lòng người, vừa đem lòng người trải lên cảnh vật,
đồng thời lồng vào cảnh vật chiều sâu bất tận của tâm tư.
Bằng một lối tả
cảnh tương tự, Nguyễn Du mượn cảnh trăng sáng trong vườn lúc Kiều
trở về nhà, để lồng vào cảnh vật tâm trạng nàng sau buổi chiều gặp
gỡ.
Kiều từ trở gót
trướng hoa,
Mặt trời gác núi
chiêng đà thu không.
Gương nga chênh
chếch dòm song,
Vàng gieo đáy
nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lả
ngọn đông lân,
Giọt sương gieo
nặng cành xuân là đà.
(171-76).
Từ mấy câu thơ
tả cảnh trên đây tỏa ra một cảm giác say đắm nhẹ nhàng. Ngôn từ và
hình ảnh được xử dụng để gợi lên cử chỉ âu yếm, ôm ấp, vuốt ve, biểu
tượng cho niềm mơ ước đang chỗi dậy trong tiềm thức Kiều. Mặt trời,
vừng trăng, song cửa, ánh trăng, đáy nước, cây, sân, hải đường, giọt
sương, cành xuân, tất cả đều là vật vô tri, nhưng dưới ngòi bút
Nguyễn Du đã trở thành sống động để hòa nhịp với tình yêu trong lòng
Kiều. Những động tác gác (núi), dòm (song), gieo
(đáy nước), lồng (bóng sân), lả (ngọn đông lân),
gieo nặng (cành xuân) cọng với hai chữ là đà không những
linh động hóa vật vô tri mà còn gợi lên ấn tượng của sự trao gởi,
gần gụi, quấn quít, tượng trưng cho nỗi niềm thầm kín mong ước được
kết hợp, trộn lẫn, tan biến vào người yêu.
Nhưng trong
khung cảnh đượm tình đó, linh cảm về điều chẳng lành trong tương lai
đã khiến Kiều thốt lên:
Người đâu gặp gỡ
làm chi,
Trăm năm biết có
duyên gì hay không?
(181-82)
Một nỗi hoang
mang, một niềm lo lắng. Một câu hỏi, hỏi mình, hỏi trời, gói trọn
mối tình vừa nhen nhúm, yêu tha thiết, yêu đam mê, ước mong người
tình thành bạn trăm năm nhưng lại bị ám ảnh bởi niềm lo sợ, vì linh
cảm được bàn tay khe khắt của định mệnh đang rình rập ở một khúc
quanh nào đó.
Bên cạnh việc đề
cao tình yêu đôi lứa như là một giá trị tích cực của đời sống, tinh
thần nhân bản còn được thể hiện trong quan niệm về tình yêu khai
phóng. Điểm này được biểu lộ rõ rệt nhất qua hai lần Kiều sang thăm
Kim Trọng. Nhất là một lần vào lúc “khoảng vắng đêm trường”.
Một người con
gái vừa đến tuổi “cập kê”, thừa lúc cha mẹ vắng nhà, lẻn sang
tình tự với người yêu trong lúc đêm khuya, rồi nặng lời thề thốt
chuyện trăm năm, không màng gì đến truyền thống ngàn đời “Cha mẹ đặt
đâu con ngồi đó”
[1]. Nếu xét theo luân lý phổ thông cùng thời thì
quả là một hành vi táo bạo khó tha thứ, một cuộc cách mạng về quan
niệm luyến ái. Nguyễn Du đã đi trước thời đại của ông hằng thế kỷ,
giải phóng người phụ nữ khỏi những ràng buộc lễ giáo để chỉ nghe
theo tiếng gọi trung thực của lòng mình. Dĩ nhiên việc tạo dựng một
nhân vật tiểu thuyết lãng mạn theo tinh thần khai phóng đó đã bị phê
phán nghiêm khắc bởi một số thức giả cùng thời. “Đàn bà chớ kể Thúy
Vân Thúy Kiều”.
[2]
Nhưng tự do mà
không phóng túng, đam mê nồng nàn mà không buông thả, vừa nghe và
làm theo tiếng nói trung thực của lòng mình mà cũng vừa chế ngự được
lòng mình. Ngôn ngữ và cung cách của Kiều chứng tỏ đối với nàng
phóng khoáng trong tình yêu không có nghĩa là coi thường tất cả mọi
giáo điều luân lý. Trái lại tư tưởng và hành vi của Kiều rất đoan
chính, từ buổi chuyện trò đầu tiên trong dáng dấp e thẹn kẻ nhìn
rõ mặt người e cúi đầu (322), và ngần ngại ngần ngừ nàng mới
thưa rằng ... (331), Kiều đã nói ngay rằng tình duyên chỉ có thể
có trong vòng hôn nhân “lá thắm chỉ hồng” (333), và phải
được sự đồng ý của song thân. Khi Kim Trọng ngỏ ý xin Kiều đánh đàn
mà còn úp mở chưa dám nói thẳng, Kiều phân định rõ ràng ranh giới
giữa điều được và điều không được:
Đừng điều nguyệt
nọ hoa kia,
Ngoài ra ai lại
tiếc gì với ai.
(461-62)
Và ngay cả khi
đã cắt tóc thề nguyền với nhau, đang cảm thấy sóng tình dào dạt dâng
lên, khi mà con người dễ bị yếu lòng trước những quyến dũ ồ ạt của
hạnh phúc chính đáng:
Sóng tình dường
đã xiêu xiêu
Xem trong âu
yếm có chiều lả lơi,
(499-500),
nàng đã dịu dàng
sửa lưng Kim Trọng khi chàng sờm sỡ. Nàng đã nghiêm chỉnh từ khước
ước muốn của chàng, hẹn đến ngày tình duyên được hợp thức hóa. Điều
đặc biệt là những lý lẽ nàng viện ra không nặng về lễ giáo, mà đặt
trọng tâm vào ý muốn giữ sao cho tình yêu không phải là trò đùa nhục
dục mà phải thể hiện được lòng tương kính đối với nhau, tránh được
cảnh
Trong khi chắp
cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng
đã dành một bên, (515-16).[3]
Nên Kim Trọng đã
không bất mãn, không cho rằng Kiều đem luân lý ra dạy mình mà chỉ
còn biết tỏ lòng thán phục:
Thấy lời đoan
chính dễ nghe,
Chàng càng thêm
nể thêm vì mười phân.(523-24)
Hành động và
ngôn ngữ của Kiều đã kết hợp hài hòa tự do luyến ái tân thời và nền
nếp lễ giáo truyền thống.
Việc đề cao tinh
thần nhân bản trong tình yêu lãng mạn phóng khoáng còn được thể hiện
bằng lời lẽ diễn tả tình yêu nhất là nỗi nhớ nhung, một lối diễn tả
độc nhất vô nhị nếu so với các tác phẩm cùng thời, với những câu thơ
tình tuyệt tác.
Tả nỗi tương tư
của Kim Trọng sau buổi đầu gặp gỡ:
Sầu đong càng
lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại
một ngày dài ghê.
...
Bụi hồng lẽo đẽo
đi về chiêm bao.
Tuần trăng
khuyết đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt
lòng ngao ngán lòng.
...
Hương gây mùi
nhớ trà khan giọng tình.(247-256)
Sau này, lúc trở
lại tìm gặp song thân và hai em của Kiều, được biết Kiều đã nghìn
trùng xa cách, Kim Trọng tuy kết hôn với Thúy Vân theo lời Kiều dặn
dò, vẫn không sao khuây được lòng sầu nhớ. Chàng chỉ còn biết sống
với kỷ niệm, với nhớ nhung và nỗi nhớ nhung khiến chàng thấy điều mơ
tưởng còn hiện thực hơn thực tại:
Nỗi nàng nhớ đến
bao giờ,
Tuôn châu đòi
trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ
thư phòng,
Đốt trầm hương
giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ
tiếng tơ,
Trầm bay nhạt
khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên
nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng
vọng bóng xiêm mơ màng.
Bởi lòng tạc đá
ghi vàng,
Tưởng nàng nên
lại thấy nàng về đây.
(2847-56)
Sau nhiều năm
tháng hỏi han tìm kiếm khắp nơi, Kim Trọng đến sông Tiền Đường, nơi
Kiều đã trầm mình tự vận. Nhìn ra sông chàng lại “thấy” nàng:
Ngọn triều non
bạc trùng trùng,
Vời trông còn
tưởng cánh hồng lúc gieo.
(2969-70)
Bằng bút pháp tả
tình linh diệu Nguyễn Du tạo được bầu khí thích hợp với từng cảnh
ngộ, đưa độc giả vào thế giới hiện thực của tâm tưởng trong đó đường
ranh giữa ảo tưởng và thực tại bị xóa nhòa.
2.- Chữ trinh
Nguyễn Du đề cao
tình yêu phóng khoáng không màng gì đến phương châm “nam nữ thọ
thọ bất thân”, không khuyến khích thái độ dè dặt do lễ giáo ràng
buộc như trong Lục Vân Tiên “Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng
là phận gái ta là phận trai”. Nhưng tự do luyến ái trong Đoạn
Trường Tân Thanh không xem thường trinh tiết, không buông thả dục
tình. Trái lai nhiều lần đề cao “chữ trinh”. Điều làm ta ngạc nhiên
hơn cả là sau mười lăm năm lưu lạc giang hồ, Cành xuân đả bẻ cho
người chuyền tay (1262) mà Kiều vẫn còn nói được với Kim Trọng:
Chữ trinh còn
một chút này
(3161).
Theo nghĩa thông
thường của chữ trinh thì phải cho rằng một là còn nguyên hai là mất
hết chứ không thể “còn một chút này” được. Tức nhiên chữ trinh trong
truyện Kiều phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, bao gồm nhiều
yếu tố ngoài thể xác và quan trọng hơn thể xác. Giá trị của chữ
trinh phát xuất từ tình yêu.
Nếu chữ trinh
chỉ là một sự gượng gạo theo giáo điều luân lý hay là do lễ giáo
ràng buộc hoặc do ước lệ xã hội thì chưa hẳn chữ trinh đã "đáng giá
ngàn vàng".
Tuy vậy, khi nói
đến chữ trinh, trước hết là trinh theo nghĩa thông thường, như lời
nàng nói với chàng trong buổi đầu
Đạo tòng phu lấy
chữ trinh làm đầu
(506),
và trong ngày
tái hợp
Chữ trinh đáng
giá ngàn vàng
(3095).
Nguyễn Du tường
thuật bi kịch Kiều mất trinh khi thất thân với Mã Giám Sinh (mặc dầu
đã có chuyện gả bán tức là đã thành vợ chồng), lời lẽ tuy bóng bảy
văn hoa nhưng cũng vẽ ra quang cảnh hãi hùng ghê rợn và thương tâm
khỉ đười ươi hãm hiếp thần Vệ Nữ.
Tiếc thay một
đóa trà mi,
Con ong đã tỏ
đường đi lối về.
Một cơn mưa gió
nặng nề,
Thương gì đến
ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một
giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó
mặc nàng nằm trơ.
... Tuồng chi là
giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng
để ô danh má hồng.
(845-854)
Đến lúc ở lầu
xanh của Tú Bà, Kiều xem viễn tượng sẽ phải đem thân thể ngọc ngà
làm trò chơi nhục dục cho thiên hạ là điều vô cùng nhục nhã, chỉ có
cách lấy cái chết rửa nhục:
Thôi còn chi nữa
mà mong,
Đời người thôi
thế là xong một đời!
(855-856).
...
Đến điều sống
đục sao bằng thác trong
(1226).
Kiều nhiều lần
nói đến niềm hổ thẹn, thẹn với mình, thẹn với người nhưng tựu trung
tất cả hổ thẹn qui tụ vào hai điểm: thẹn vì lỗi ước như ta sẽ thấy
trong đoạn nói về sự trung tín và thẹn vì không còn trinh trắng, vì
không còn "hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương" (3094).
Kiều đã sa xuống
tận cùng vực thẳm nhục nhã khi nàng vì mắc mưu Sở Khanh tọa rập
với Tú Bà dụ dỗ nàng đi trốn bị Tú Bà bắt về hành hạ đã phải cam
đoan:
Tấm lòng trinh
bạch từ nay xin chừa
(1148).
Đau đớn thay,
mất trinh thể xác đã là tai họa tầy trời nhưng còn có thể bám vào
tấm lòng trinh bạch để giữ lại đôi chút phẩm giá cho mình, nhưng nay
tấm lòng trinh bạch cũng phải "xin chừa"!
Nỗi đau đớn tiếc
hận của Kiều vì mất trinh không phải do ám ảnh luân lý hay do quan
niệm hẹp hòi về thân xác người đàn bà, mà chỉ vì cảm thấy mình không
còn xứng đáng với người mình yêu và cái quí giá trong đời đúng ra
phải dành để dâng hiến cho người yêu thì đã bị người khác cưỡng
đoạt. Kiều tiếc rằng trước đây đã từ khước không trao thân cho Kim
Trọng, khiến người yêu bi thiệt thòi và rút cục chỉ còn niềm đau
trọn kiếp :
Biết thân đến
bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ
cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón
gió đông
Thiệt lòng khi ở
đau lòng khi đi.
(791-94)
Niềm tiếc hận
của Kiều không chỉ vì mất trinh thể xác, không chỉ vì bị đẩy xuống
bùn nhơ mà trước hết là vì đã phụ lòng Kim Trọng. Nếu mai sau còn
gặp lại, chẳng còn gi để dâng hiến cho người yêu mà chỉ còn đắng cay
bẽ bàng chua xót:
Trùng phùng còn
họa có khi,
Thân này thôi có
còn gì mà mong.
(795-96)
Niềm tiếc hận
này ám ảnh Kiều không bao giờ dứt, nhất là lúc ở lầu xanh nàng bị
dày vò bởi thân phận buôn hương bán phấn
Khi tỉnh rượu
lúc tàn canh,
Giật mình mình
lại thương mình xót xa
(1233-34).
Thay vì trao
thân cho người yêu thì chỉ còn lại ngậm ngùi :
Cành xuân đã bẻ
cho người chuyền tay.
(1262)
Dưới ngòi bút
Nguyễn Du và trong quan niệm của Kiều có một thứ trinh tiết còn quí
giá hơn trinh triết thông thường, đó là "tấm lòng trinh bạch" và
tình yêu chung thủy, mặc dầu đời nàng
Ong qua bướm lại
đã thừa xấu xa
(3098).
Dưới nhãn quan
tình yêu, với thái độ bao dung quân tử Kim Trọng đã giúp cho "chữ
trinh còn một chút này" của Kiều trở thành nguyên vẹn như xưa. Và
chàng đã nhận định rất xác đáng là sự hy sinh trinh tiết của Kiều
không phải là điều xấu xa mà là một hành động cao cả do lòng hiếu
thảo. Chàng đã mượn phương châm “ngộ biến tùng quyền” để tương đối
hóa đặc tính tuyệt đối thường được gán cho chữ trinh:
... Chữ trinh
kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có
khi thường,
Có quyền nào
phải một đường chấp kinh.
(3116-18)
... Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa.
(3123-24)
Chữ "tàn"
lặp lại hai lần chứng tỏ không phải Kim Trọng nhắm mắt nói bừa cho
vừa lòng Kiều mà đã công nhận rằng 15 năm giang hồ đã làm cho cuộc
đời Kiều trở nên tàn tạ, nhưng Kim Trọng cũng có một tầm mắt khoáng
đạt để thấy đạo hiếu của Kiều đã tẩy xóa sạch mọi vết nhơ.
... Như nàng lấy
hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục
được mình ấy vay?
Đề cao việc Kiều
“lấy hiếu làm trinh” là một sự đánh giá rất nhân bản về trinh tiết
và một quan niệm rất bao dung trong việc luận công định tội. Yếu tố
làm nên tội lỗi là tự mình làm điều sai trái không do một áp lực
nào. Kim Trọng không hề quên rằng Kiều đã bị áp lực nặng nề của hoàn
cảnh khắc nghiệt. Hơn thế, việc bán mình là do quyết định hy sinh
trinh tiết để chu toàn đạo hiếu, tròn chữ hiếu tức là trọn chữ
trinh, bình phương giữa hiếu và trinh đã được Nguyễn Du gói trọn
trong bốn chữ lấy hiếu làm trinh. Và bốn chữ này cũng là lý
do Kim Trọng viện dẫn để thuyết phục Kiều nối lại duyên xưa. Kiều
chiều lòng Kim Trọng đồng ý hợp hôn nhưng lúc động phòng thì nàng
khẩn khoản xin Kim Trọng miễn cho chuyện chăn gối, vì nàng xem ân ái
với nhau bây giờ và trong những năm tháng còn lại là
...... giở
nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa
là thù đấy thôi.
Người yêu ta xấu
với người,
Yêu nhau thì
lại bằng mười phụ nhau.
... Chữ trinh
còn một chút này,
Chẳng cầm cho
vững lại dày cho tan.
(3155-62)
Kim Trọng chẳng
những không nài ép, mà còn thông cảm và “muôn phần kính thêm”
(3174). Phản ứng của Kim Trọng giải thoát Kiều khỏi ngục tù của mặc
cảm dày xéo lòng nàng suốt mười mấy năm qua.
Nghe lời sửa áo cài trâm,
Khấu đầu lạy tạ
cao thâm ngàn trùng.
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử
khác lòng người ta.
Mấy lời tâm phúc
ruột rà,
Tương tri dường
ấy mới là tương tri!
Chở che đùm bọc
thiếu gì,
Trăm năm danh
tiết cũng vì đêm nay!
(3179-3186)
Nếu đối chiếu
với tâm lý thường tình thì quả Kim Trọng có một tấm lòng cao thượng
và quảng đại "khác lòng người ta"! Lời khen tặng của Kiều
phát xuất từ lòng cảm phục và tri ân vô biên, đồng thời cũng biểu
hiện niềm hạnh phúc chan chứa trong lòng nàng, vì Kim Trọng đã không
những đã hiểu được nàng, mà còn gột rửa dùm nàng mọi vết nhơ khiến
nàng hổ thẹn. Nàng phủ phục trước chàng như trước một đấng cao cả đã
cho nàng được tái sinh, từ cặn bã bùn nhơ trở về cuộc đời trinh
trắng. Lòng quân tử phi thường của Kim Trọng có phép nhiệm mầu "gạn
đục khơi trong". Đem đoạn thơ này đối chiếu với lời Kiều nói
trong đêm động phòng xin từ khước chuyện gối chăn, ta sẽ thấy được
hiệu quả của phép nhiệm mầu đó: Cái nhìn cao thượng và sâu sắc của
Kim Trọng về chữ trinh đã khiến cho lời lẽ bi quan của Kiều trước
đây khi nàng đồng hóa tình và thù, yêu và
xấu, yêu và phụ được thay thế bằng những cung bậc
của hạnh phúc, của hân hoan:
Mấy lời tâm phúc
ruột rà,
Tương tri dường
ấy mới là tương tri.
Chở che đùm bọc
thiếu gì,
Trăm năm danh
tiết cũng vì đêm nay.
Thoắt thôi tay
lại cầm tay,
Càng yêu vì nết
càng say vì tình.
Cao thượng trong
tình yêu, đó cũng là một khía cạnh của tính chất nhân bản trong cốt
cách Kim Trọng và đó cũng là tính chất cao quý nhất, đặc sắc nhất,
nổi bật hơn cả vẻ đẹp diện mạo hay là tư chất phong nhã hào hoa. Qua
nhân vật Kim Trọng Nguyễn Du đã diễn đạt một quan niệm rất mới, rất
nhân bản về luyến ái và về chữ trinh với lời phê phán rất công
bằng, rất xác đáng về Kiều mà Nguyễn Du đã nhờ Sư Tam Hợp tóm tắt
như sau:
Xét trong tội
nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái
khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm
trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động
hiếu tâm tới trời
...
Thửa công đức ấy
ai bằng?
Túc khiên đã rửa
lâng lâng sạch rồi!
(2681-84)
3- Trung tín
Trung tín cũng
là một đức tính cao trọng trong đạo làm người.
Ngay từ trong “buổi
mới lạ lùng” (349) Kiều khẳng định:
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung (352).
Và Kim Trọng phụ
họa:
Rằng: "Trăm
năm cũng từ đây" (355)
Đối với Kim-Kiều
yêu nhau không phải chuyện nhất thời, chuyện qua đường mà là chuyện
thề hứa trăm năm. Lời thề ở đây không phải chỉ đặt trên danh dự
thường tình mà còn có tính chất thiêng liêng, bởi có đất trời chứng
giám.
Những đoạn những
câu nói về lời thề của đôi bên nhất là của Kiều đầy dẫy trong Đoạn
Trường Tân Thanh chứng tỏ Nguyễn Du đề cao trung tín như là một
thành tố cốt yếu của đạo làm người.
Trọng lượng của
lời thề
Trong những lời
yêu thương Kim-Kiều trao cho nhau thì lời thề nguyền có một trọng
lượng đặc biệt. Ngay từ buổi đầu tiên, để đáp lại lời tỏ tình còn
ngập ngừng của Kim Trọng
Tiện đây xin một
hai điều
...(329),
Kiều đã đặt vấn
đề "lá thắm chỉ hồng" (333) và khi Kim Trọng hứa sẽ nhờ
người "mối manh" Kiều nói lên lời thề "đá vàng thủy chung"
(352). Lúc trao quà hứa hôn cho Kiều, Kim Trọng cũng gọi chúng là
“của tin” làm bằng cho chuyện thề hứa trăm năm.
... Của tin gọi
một chút này làm ghi.
(355-56).
Lúc Kiều mới
sang thăm Kim Trọng lần đầu hai người đã
"Góp lời phong
nguyệt, nặng nguyền non sông."
(396).
Đến lần thăm
viếng thứ hai lời thề nguyền được diễn ra như một lễ nghi tôn giáo
trong bầu không khí thiêng liêng có hương có nến:
Vội vàng làm lễ
rước vào,
Đài sen nối sáp
song đào thêm hương.
(445-446)
Trong khung cảnh
trang trọng đó lời thề không những được ghi lên giấy mực mà niềm son
sắt còn được nhấn mạnh bằng việc cắt tóc làm chứng cho lời thề:
Tiên thề cùng
thảo một chương,
Tóc mây một món
dao vàng chia đôi.
(447-448 )
Buổi lễ ước thề
được cử hành với sự chứng giám của thần linh được biểu tượng bởi “vầng
trăng vằng vặc giữa trời” (449). Hai câu
Đinh ninh
hai miệng một lời song song (450)
và
Trăm năm tạc một
chữ đồng đến xương
(452)
làm nổi bật
quyết tâm gắn bó trọn đời một cách mạnh mẽ phi thường.
Lời thề được
nhắc đi nhắc như một điệp khúc trong nhiều cảnh ngộ. Khi Kiều lo sợ
về tương lai vì nhớ lại lời thầy tướng tiên đoán đời nàng sẽ đầy tai
biến, Kim Trọng dùng lời thề để trấn an nàng:
Ví dù giải kiết
đến điều,
Thì đem vàng đá
mà liều với thân.
(421-422)
Khi
bất đắc dĩ tạm thời chia tay, Kim Trọng dặn dò:
Trăng thề còn đó
trơ trơ,
Dám xa xôi mặt
mà thưa thớt lòng.
(541-542)
Kiều đáp lời dặn
dò bằng cách nhắc lại lời thề và quả quyết thêm lần nữa:
Cùng nhau trót
đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc
dám dời lòng tơ.
(551-552)
...
Đã nguyền hai
chữ đồng tâm,
Trăm năm thề
chẳng ôm cầm thuyền ai.
(555-556)
Chuyện thề ước
cũng là trọng tâm của những lời Kiều dặn dò Thúy Vân:
Khi ngày quạt
ước khi đêm chén thề (708).
Đối với Kiều lời
thề làm cho tình trở thành “nghĩa” theo cách hiểu rất đẹp về danh từ
nghĩa của truyền thống. Tình có thể theo thời gian mà bớt nồng nàn,
bớt đam mê nhưng nghĩa thì càng ngày càng sâu càng nặng. Đáp lời
khuyên giải của thân sinh sau khi quyết định bán mình, Kiều chỉ nhắc
đến lời thề mà nàng xem như là nghĩa phải đền, phải trả.
Nhờ cha trả được
nghĩa chàng cho xuôi.
(774)
Nghĩa phải trả
đó là món nợ tình, chưa trả được kiếp này thì sẽ trả kiếp sau, sẵn
sàng làm “thân trâu ngựa”.
Tái sinh chưa
dứt hương thê
Lam thân trâu
ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả
cho ai,
Khối tình mang
xuống tuyền đài chưa tan.
(705-710)
Sau này lúc đã
xa nhau, mỗi lần Kiều nhớ đến Kim Trọng là nhớ đến lời thề. Lúc ở
lầu Ngưng Bích:
Tưởng người dưới
nguyệt chén đồng...
(1039)
Lúc ở lầu xanh:
Nhớ lời nguyện
ước ba sinh ...
(1259)
Lúc ở với Từ
Hải:
Tiếc thay chút
nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý
còn vương tơ lòng.
(2241-42)
Thề hứa cũng
chiếm một chỗ đứng quan trọng trong tư tưởng và ngôn ngữ Kim Trọng.
Lúc gặp lại gia đình Kiều và nghe kể hết sự tình, chàng kêu than
thống thiết và chua xót ngậm ngùi nhìn lại những món quà “của tin”
đã tặng Kiều ngày trước và những vật kỷ niệm mà lúc ra đi Kiều đã
nhờ Thúy Vân giữ hộ:
Thề xưa giở đến
kim hoàn,
Của xưa lại giở
đến đàn với hương.
(2807-08)
...
Cùng nhau thề
thốt đã nhiều,
Những điều vàng
đá phải điều nói không.
(2813-14)
Lòng nhớ nhung
và nhất là sự ràng buộc của lời thề đã là động cơ khiến chàng cương
quyết:
Bao nhiêu của
mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi gặp
mặt nàng mới thôi.
(2817-18)
Kim Trọng cũng
bi ray rứt vì lỗi ước, tuy cũng như Kiều sự bội ước của chàng chẳng
phải do tâm địa phản trắc mà do hoàn cảnh đẩy đưa:
Lời xưa đã lỗi
muôn vàn,
Mảnh hương còn
đó phím đàn còn đây.
(2933-34)
Trọng lượng của
lời thề trong Đoạn Trường Tân Thanh cho ta thấy Nguyễn Du đề cao
trung tín như là một thành tố cốt yếu của đạo làm người.
Ray rứt vì bội
ước
Lời thề càng
nặng bao nhiêu thì sự bội ước, dầu chỉ là do hoàn cảnh bó buộc ,
càng dằn vặt bấy nhiêu. Chuyện lỗi thề đã hành hạ Kiều trong suốt
thời gian lưu lạc giang hồ. Lúc cha già lâm nạn, nàng đành bán mình
chuộc cha vì không còn cách nào khác. Điều làm nàng đau khổ nhất và
khiến nàng bị ray rứt suốt đời không phải là sự thiệt thòi cho bản
thân vì đã hy sinh những gì cao quí nhất mà là sự lỗi thề với người
yêu. Sau khi mọi thủ tục bán mình đã tạm giải quyết xong, Kiều có
thì giờ để than thân trách phận. Nhưng lại không nghĩ đến phận mình
mà chỉ nghỉ đến chuyện lỗi thề:
Thề hoa chưa ráo
chén vàng,
Lỗi thề, thôi đã
phụ phàng với hoa!
(701-702)
Từ đó lỗi thề đã
trở thành nỗi ám ảnh triền miên. Nếu trước đây lời thề đã được "tạc
đến xương" thì sữ lỗi ước đã thích lên trán hai chữ "phản bội" không
thể cạo xóa được.
Kiều nhờ em thay
minh kết duyên với Kim Trọng cũng chỉ vì bị dằn vặt về chuyện “lỗi
thề” mà nàng muốn vớt vát lại phần nào:
Xót tình máu mủ
thay lời nước non.
(732).
Sự ray rứt vì
lỗi thề khiến Kiều kết thúc lời dặn dò Thúy Vân bằng hai câu
Ôi Kim Lang, hỡi
Kim Lang,
Thôi thôi! Thiếp
đã phụ chàng từ đây!
Nếu phê phán
đoạn văn này theo quan điểm hành văn thời nay thì chắc có người
cười là quá “cải lương”, nhưng thiết nghĩ phải đánh giá theo văn
phong thời đó và nếu đặt vào tình huống câu chuyện thi hai câu này
quả là một lời kêu than thống thiết đầy tuyệt vọng mà cũng rất tuyệt
vời.
Hổ thẹn vì lỗi
thề
Bội ước là nỗi
đau, bội ước cũng là niềm hổ thẹn. Biết hổ thẹn chứng tỏ người có
lương tri và biết liêm sỉ trước lời phê phán của lương tâm. Lương
tri và liêm sỉ là thành tố cao đẹp của nhân tính. Niềm hổ thẹn cũng
được Kiều viện dẫn để từ khước thèm muốn nhục dục của Kim Trọng sau
khi hai người làm lễ thề nguyền:
Gieo thoi trước
chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn
cùng chàng bởi ai.
(519-20)
Nhìn trăng nhớ
lại lời thề dưới trăng mà hổ thẹn.
Dặm khuya ngất
tạnh mù khơi
Thấy trăng mà
thẹn những lời non sông.
(915-16)
Và sau này tái
hợp, lúc Kim Trọng cùng cả nhà thuyết phục Kiều kết hôn với chàng,
lý do nàng đưa ra để từ chối là sự hổ thẹn với chính mình:
Nghĩ mình chẳng
hổ mình sao,
Dám đem trần cấu
dự vào bố kinh,
Đã hay chàng
nặng vì tình,
Trông hoa đèn
chẳng thẹn mình lắm ru!
(3103-06)
Kim Trọng thuyết
phục nàng rằng sự hổ thẹn của nàng là vô căn cứ vì nàng đã “lấy
hiếu làm trinh”, và vì đó:
Hoa tàn mà lại
thêm tươi,
Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa.
(3123-24)
Kiều đành miễn
cưỡng nhận lời kết hôn nhưng cương quyết không chăn gối như vợ
chồng. Lý do nàng viện ra cũng lại là hổ thẹn:
Riêng lòng đã
thẹn lắm thay
Cũng đà mặt dạn
mày dày khó coi.
(3149-50)
II- Tinh Thần Nhân Bản Trong Lãnh Vực Tình Người
1- Đạo hiếu
Lúc cha già lâm
nạn, Kiều sẵn sàng bán mình, nghĩa là sẵn sàng hy sinh trinh tiết,
hy sinh tương lai để cứu cha. Điều đó đã là giá rất đắt nàng phải
trả. Nhưng còn một sự hy sinh to lớn hơn và làm nàng đau khổ hơn gấp
bội, đó là sự phải từ khước tình yêu và chấp nhận bội ước với người
yêu. Điều chiếm hết tâm trí của nàng không phải là sự thiệt thòi cho
bản thân mà chỉ là sự xung khắc giữa hiếu và tình, giữa "ơn sinh
thành" và lời "thệ hải minh sơn". Và nàng đã không ngần ngại dành ưu
tiên cho đạo hiếu:
Duyên hội ngộ,
đức cù lao,
Bên tình bên
hiếu bên nào nặng hơn.
Để lời thệ hải
minh sơn,
Làm con, trước
phải đền ơn sinh thành.
(601-604)
Quyết định dứt
khoát do lòng Kiều tự phát chứ không do lời yêu cầu của song thân
hay lời khuyến cáo của bất cứ ai. Điểm đặc biệt và đáng quí trong
việc Kiều bán mình chuộc cha là quyết định của nàng cũng không phải
do giáo điều của truyền thống về đạo hiếu mà là một hành vi xuất
phát từ lòng thương yêu kính trọng. Không phải hành động một cách
máy móc mà làm với tất cả tấm lòng.
Trong một đời
sống bình thường không bão bùng giông tố, không đòi hỏi những hy
sinh phi thường thì việc chu toàn đạo hiếu, kính yêu phụng dưỡng cha
mẹ ông bà đã là hành vi đáng ca ngợi. Nhưng trong trường hợp của
Kiều muốn bảo toàn chữ hiếu phải hy sinh tình yêu và hy sinh cả
tương lai mình. Đã mất tất cả vì chữ hiếu mà không chút oán hận lại
còn lựa lời dịu dàng khuyên giải cha già, lúc ông vì tuyệt vọng mà
đâm đầu vào tường tự vận:
Thà rằng liều
một thân con,
Hoa dù rã cánh
lá còn xanh cây.
(677-678)
...
Cũng đừng tính
quẩn lo quanh,
Tan nhà là một
thiệt mình là hai.
(681-682)
Ngay cả những
lúc hoàn toàn tuyệt vọng, như sau cuộc ái ân cưỡng ép với Mã Giám
Sinh, Kiều muốn tự kết liễu cuộc đời nhưng đã không làm theo ý muốn
của mình chỉ vì sợ “lụy vào song thân”. (862)
Rồi trong suốt
mười lăm năm lưu lạc, Kiều đã ngày đêm khắc khoải vì nỗi nhớ nhung
dằng dặc đối với song thân, buồn tiếc vì không còn được ở bên cạnh
để phụng dưỡng hầu hạ. Lòng hiếu thảo của Kiều được Sư Tam Hợp ngợi
khen là đã ”động hiếu tâm đến trời”. (2684)
2- Từ tâm và
lòng trắc ẩn
Trong Đoạn
Trường Tân Thanh, từ tâm và lòng trắc ẩn được đề cao như một điểm
son trong đạo làm người. Ngay trong mấy câu mở đầu tác phẩm, Nguyễn
Du đã nói đến mối thương tâm:
Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du đau
lòng vì những bất hạnh của đồng loại trong “cõi người ta” và
đau lòng vì số kiếp nàng Kiều, tài sắc vẹn toàn và đầy lòng nhân ái
mà phải đón lấy một định mệnh vô cùng bi đát. Những danh từ “mệnh”,
“số”, kiếp, “phận” với nội dung thê thảm đầy dẫy trong toàn cuốn
truyện. Số mệnh không phải chỉ do lòng ghen ghét của “con Tạo” đối
với người tài hoa mà còn được xem là kết quả của cái nhân do mình
tạo nên:
Kiếp xưa đã vụng
đường tu,
Kiếp này chẳng
khỏi đền bù mới thôi.
(1195-96)
Có thể nói những
câu thơ hay nhất trong Đoạn Trường Tân Thanh là những câu Nguyễn Du
tả nỗi đau khổ của Kiều hay là để Kiều than thân trách phận, với một
lối sử dụng điệp ngữ, đối ngữ rất thần tình tạo nên những âm hưởng
não nuột, ai oán.
Khi thì than
khóc vì chuyện tình dang dở:
Nỗi riêng riêng
những bàn hoàn,
Dầu chong trắng
đĩa lệ tràn thấm khăn.
(711-12)
Khi thì bùi ngùi
vì đã lầm mưu Sở Khanh nên đành phải chấp nhận làm điếm:
Buồng riêng
riêng những sụt sùi,
Nghĩ thân mà lại
ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong
giá trắng ngần,
Đến phong trần
cũng phong trần như ai.
(1589-92)
Hoặc lời than
thở lúc ở lầu xanh, sau một thời gian áp dụng bài học của Tú Bà về
những "công phu" của "nghề chơi" (1201) với Vành
ngoài bảy chữ vành trong tám nghề (1210):
Những nghe nói
đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi
lạ lùng khắt khe.
Xót mình cửa các
buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy
những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn
mày dày,
Kiếp người đã
đến thế này thì thôi!
(1219-24)
...
Khi tỉnh rượu
lúc tàn canh,
Giật mình mình
lại thương mình xót xa.
Khi sao phong
gấm rủ là,
Giờ sao tan tác
như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió
dạn sương,
Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân?
(1233-38)
...
Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ...
... Vui là vui
gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn
mà với ai?
(1243-48)
Lòng nhân ái mà
Nguyễn Du đề cao như một đặc điểm ưu việt của tình người được thực
hiện bởi một số nhân vật trong Đoạn Trường Tân Thanh. Đứng hàng đầu
dĩ nhiên là Kiều. Một trong những nét nổi bật nhất của tâm tính Kiều
là khả năng thông cảm sâu sắc với người đau khổ, thậm chí lấy cái
đau của người khác làm cái đau của mình. Hai chị em Kiều cùng nghe
Vương Quan kể chuyện cuộc đời bất hạnh của Đạm Tiên, nhưng trong khi
Thúy Vân vô tình và dửng dưng thì Kiều sụt sùi nhỏ lệ và làm thơ tỏ
lòng thương xót người ca nhi bạc phận. Từ tâm của Kiều còn đi xa hơn
sự thông cảm và lòng thương xót. Nàng muốn gánh đau khổ thay cho
người khác nhất là những người nàng thương yêu. Nàng sẵn sàng hy
sinh, sẵn sàng chịu thiệt. Để cứu cha già lâm nạn, nàng hy sinh
tình yêu, duyên phận, tiết trinh, nghĩa là hy sinh tất cả những gì
quí giá nhất của một đời con gái.
Lòng nhân ái
cũng là một động cơ thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải về thần phục triều
đình: nàng không muốn kéo dài chiến tranh làm thiệt mạng sinh linh.
Nàng muốn chấm dứt cảnh đống xương Vô-định đã cao bằng đầu
(2494).
Từ Hải vì nghe
lời nàng mà bị hãm hại, nàng tự nhận tội “giết chồng” nhưng
sư Tam Hợp đánh giá việc làm của nàng là “công đức”, vì đã “hại
một người cứu muôn người” (2685).
Không riêng gi
Kiều, trong Đoạn Trường Tân Thanh còn một số nhân vật khác đầy lòng
trắc ẩn, sẵn sàng thông cảm thương xót và giúp đỡ ủi an những người
bạc phận. Điều đáng chú ý là những nhân vật nầy không thuộc giới
quyền quí giàu sang mà thuộc thành phần bình dân hoặc hạ lưu, như
lão già họ Chung, vì thương xót cảnh ngộ gia đình Kiều và cảm phục
lòng hiếu thảo của nàng đã giúp đỡ nàng trong việc cứu Vương Ông
khỏi vòng lao lý. Như Mã Kiều, mà cuộc đời làm gái điếm đã không hủy
diệt được từ tâm, động lòng thương xót Kiều khi thấy nàng mắc mưu Sở
Khanh và bị Tú Bà hành hung một cách tàn nhẫn. Mã Kiều đã can đảm
đứng ra bảo lãnh cho Kiều. Hoặc như mụ quản gia ở nhà mẹ Hoạn Thư,
tuy hoàn cảnh bắt phải làm tôi tớ ở chốn hang hùm, vẫn lén giúp đỡ
và chăm sóc cho Kiều, đồng thời dặn dò nàng đường đi nước bước để
khỏi mang họa vào thân. Vãi Giác Duyên tuy biết nàng Kiều đã trộm
chuông vàng khánh bạc của nhà Hoạn Thư, vẫn không lên án mà còn tỏ
lòng thương xót vì biết Kiều đã hành động trong cơn túng quẩn.
Những kẻ từ tâm
giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đã được nàng đền ơn xứng đáng. Bên
cạnh lòng trắc ẩn, sự biết ơn và việc đền ơn trả nghĩa là một trong
những điểm son của tình người được đề cao trong Đoạn Trường Tân
Thanh.
Lòng trắc ẩn của
Nguyễn Du đối với những thành phần bất hạnh trong xã hội không chỉ
được thể hiện qua truyện Kiều mà còn trải rộng trên những tác phẩm
khác. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có nhiều trang nhiều giòng nói lên
lòng thương xót sâu sắc trước cảnh thương tâm của những kẻ khốn
cùng. Trên đường đi sứ Tàu, Nguyễn Du đã chứng kiến và tả lại trong
một bản văn chữ Hán cảnh những thây người chết đói, cảnh mấy mẹ con
hành khất đầu đường xó chợ, mẹ chết bỏ lại đàn con nheo nhóc bơ vơ:
Mẹ chết đã đành
rồi,
Trông con càng
đứt ruột.
Nỗi lòng đau đớn
lạ thường.
Khiến mặt trời
cũng vì người mà vàng úa.
Trong bài Văn
Chiêu Hồn, Nguyễn Du dựng nên cả một thế giới bi thảm với từng đoàn
cô hồn thất thểu bơ vơ. Nỗi thống khổ của các cô hồn là biểu tượng
của những oan uổng, những bi thương uất ức chồng chất trong đời biết
bao nhiêu người trên dương thế.
Lòng nhân ái là
một trong những yếu tố cấu thành chữ tâm, mà ở phần kết truyện Kiều
Nguyễn Du đã tuyên dương như là đỉnh cao của tinh thần nhân bản.
III- Tinh Thần Nhân Bản Trong Lãnh Vực Xã Hội
Bài học nhân ái
trong Đoạn Trường Tân Thanh còn được nổi bật qua lời tố cáo và phê
phán tệ đoan xã hội cũng như cách mô tả cung cách và ngôn ngữ các
nhân vật phản diện.
1- Tệ đoan xã hội
Tuy cũng thuộc
về giới quan quyền nhưng có lẽ vì cuộc sống thăng trầm đã cho
Nguyễn Du có dịp gần gụi và thông cảm với những người xấu số nên ông
đã đứng hẳn về phía các nạn nhân, bênh vực quyền lợi chính đáng của
họ và nghiêm khắc phê phán lũ cường quyền hống hách tham ô.
Chỉ bằng cách
mô tả dáng dấp, điệu bộ, ngôn ngữ các nhân vật phản diện và vận dụng
kho tàng thành ngữ khẩu ngữ trong văn chương bình dân Nguyễn Du
cũng đã vẽ lên đậm nét sự đểu cáng gian xảo lọc lừa độc ác của lớp
người lòng lang dạ thú. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, giới thống trị
và bộ hạ của chúng là những tên sâu dân mọt nước, tàn bạo tham lam.
Lúc Vương ông bị vu vạ “tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây
(590)” mà quan quyền sở tại chẳng những đã không phân xử cho công
minh mà còn cho lũ sai nha vào nhà hành hung cướp bóc. Và phương thế
duy nhất để giải oan cho nạn nhân là phải “có ba trăm lạng”
để “lót đó luồn đây” (611-12).
Viên quan ngồi
xử việc Thúc Ông kiện Kiều ra tòa vì dan díu với Thúc Sinh được
Nguyễn Du điểm mặt bằng câu:
Trông lên mặt
sắt đen sì”
(1409)
bộc lộ tất cả
bầu khí hắc ám toát ra từ khuôn mặt sắt máu. Hồ Tôn Hiến, một viên “tổng
đốc trọng thần, kinh luân gồm tài" (2451-52) rút cục đã hiện
nguyên hình là một tên vô lại hèn nhát, phản phúc dâm ô. Nguyễn Du
bình luận về tính chất bỉ ổi trơ trẽn của họ Hồ lúc ép Kiều hầu rượu
đánh đàn bằng hai câu:
Nghe càng đắm,
ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vì tình
(2579-80).
Ngoài lớp quan
quyền đốn mạt, xã hội trong truyện Kiều còn đầy dẫy những thành phần
bất hảo độc ác thối tha mà Nguyễn Du đã mô tả tường tận với bút
pháp rất tinh tế. Chỉ xin đan cử vài ví dụ tiêu biểu.
Mã Giám Sinh tuy
cố tình qua mặt người đời bằng cái mã bề ngoài "mày râu nhẵn nhụi
áo quần bảnh bao" (628) nhưng khi vào nhà Kiều thì để lộ ngay
chân tướng hỗn xược thô bạo "ghế trên ngồi tót sỗ sàng"
(631).
Kiều đã nhận ra
mặt thật của tên "bợm già" (882) mà nàng đánh giá như sau:
Khác màu kẻ quí,
người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ
như hình con buôn.
(887-888)
Và như ta đã
thấy trong phần trên, con buôn này hành nghề buôn hương bán phấn,
với những tư tưởng và hành vi đê hèn bỉ ổi.
Đến nhân vật Tú
Bà cũng được Nguyễn Du tô rất đậm nét.
Thoạt trông nhờn
nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn
đẫy đà làm sao?
(923-24)
Lối tả chân của
Nguyễn Du không những làm hiện rõ trước mắt độc giả một mụ chủ điếm
phốp pháp màu da tái nhợt mà hai chữ ăn gì còn hàm chứa một
sự khinh bỉ ghê tởm. Khi ra đón Kiều, Tú Bà có dáng dấp của một tay
lão luyện ở chốn lầu xanh:
Trước xe lơi lả
han chào...
(925).
Lơi lả đã trở
thành bản tính thứ hai của mụ chủ điếm. Rồi đến ngôn ngữ của mụ mới
thật là kinh khủng. Khi nghe Kiều tiết lộ đã thất thân với Mã Giám
Sinh, mụ kêu la thất thanh vì cô điếm không còn trinh là một lỗ lã
to lớn:
Màu hồ đã mất đi
rồi,
Thôi thôi vốn
liếng đi đời nhà ma!
(969-70)
Rồi mụ quay sang
nhục mạ Kiều bằng những lời lẽ vừa đanh đá vừa sỗ sàng sống sượng
chỉ có thể phun ra từ miệng một mu điếm già. Tội nghiệp nàng Kiều
từ chốn khuê các
Êm đềm trướng rủ
màn che
(37)
đã chịu một trận
ái ân phũ phàng gần như cưỡng hiếp rồi bây giờ lại bị gán cho tội
dâm đãng bằng một lời chửi bới hết sức tục tằn.
Cớ sao chịu tốt
một bề?
Gái tơ mà đã
ngứa nghề sớm sao!
(975-76)
Một nhân vật
khác, cũng thuộc hạng người nham hiểm độc ác tàn nhẫn dầu không thô
bỉ hạ cấp, đã được Nguyễn Du phác họa rất tường tận, đó là Hoạn Thư,
vợ Thúc Sinh. Dưới ngòi bút Nguyễn Du Hoạn Thư hiện hình là một
người đàn bà mưu mô, thâm hiểm, cao tay ấn với một sách lược báo thù
rất quỉ quyệt. Nguyễn Du không mô tả dung mạo, dáng dấp cử chỉ của
Hoạn Thư mà chỉ chú trọng đến những nét đặc thù của ngôn ngữ, tính
tình và nhất là phản ứng tâm lý do ghen tương. Qua mấy vần thơ sau
đây độc giả như trực tiếp cảm nhận lửa ghen phừng phừng nung nấu
lòng người đàn bà có chồng phụ bạc;
Từ nghe vườn mới
thêm hoa,
Miệng người đã
lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập
càng nồng,
Trách người đen
bạc ra lòng trăng hoa.
(1535-38)
Trong đoạn thơ
kế tiếp, bằng bút pháp tân kỳ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du gạt được
tấm màn che kín tâm tư Hoạn Thư sang một bên để độc giả trực tiếp
nhìn thấy, nghe thấy nỗi bực tức, cơn giận dữ và những toan tính độc
ác của nàng:
Lo gì việc ấy mà
lo,
Kiến trong miệng
chén có bò đi đâu.
Làm cho nhìn
chẳng được nhau,
Làm cho đày đọa
cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông
thấy nhãn tiền,
Cho người thăm
ván bán thuyền biết tay!
(1547-1552)
Những thủ đoạn
tàn khốc quỉ quyệt của hai mẹ con Hoạn Thư được Nguyễn Du kể lại
rất tỉ mỉ, vừa đánh động mối thương tâm của độc giả trước vực thẳm
khổ đau nhục nhã của Kiều, vừa phê phán hành vi tàn nhẫn độc ác, dầu
độc ác là do lòng ghen tương như lời Hoạn Thư biện bạch sau này để
xin Kiều ân xá trong giờ đền ân báo oán:
Rằng tôi chút dạ
đàn bà,
Ghen tương thì
cũng người ta thường tình ...
... Chồng chung
chưa dễ ai chiều cho ai.
(2365-70)
Bút pháp tả
người của Nguyễn Du qua các nhân vật kể trên cũng như các nhân vật
phản diện khác tự nó đã là một lời phê phán rất bén nhạy và xác đáng
và có hiệu lực khơi động từ tâm đối với nạn nhân của lũ người độc
ác.
2- Anh hùng ca
Từ Hải hay là giấc mơ công lý và công bằng xã hội
Trong một xã hội đầy ải con người một cách bất công mà nạn nhân
không được pháp luật và công quyền che chở bảo vệ thì chì còn một
phương sách tự vệ duy nhất là tự mình thực hiện công lý cho mình,
nghĩa là tự mình, nếu có hoàn cảnh và sức lực, chiếm lại cho mình và
cho xã hội những gì đã bị cường quyền cưỡng đoạt. Từ Hải đã thực
hiện được điều đó một cách oai hùng.
Dưới mắt triều
đình chính thống, Từ Hải là một thành phần “phản loạn”. Nguyễn Du
không đứng về phía triều đình để phê phán và lên án mà đã công khai
ca tụng và đề cao nhân vật "phản loạn" đó bằng những nét oai hùng,
dung mạo và khí phách hơn người, hiện thân của niềm khao khát tự do
và công lý. Ngoài những danh từ được lặp đi lặp lại “anh hào”, “vẫy
vùng”, “anh hùng”, “trượng phu”, “phi thường”, để chỉ Từ Hải,
Nguyễn Du còn tạo nên một hình ảnh rạng ngời. Đặc biệt nhất là chí
lớn
Một tay gầy
dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể
Sở sông Ngô tung hoành. (2463-64)
... Nghênh ngang
một cõi biên thùy,
(2447)
Và hiên ngang:
Đội trời đạp đất ở đời (2171),
Câu thơ này là
một ví dụ cho thấy biệt tài của Nguyễn Du sử dựng những chữ rất
thông thường (ai mà chẳng “đội trời đạp đất”!) nhưng lồng vào một
văn cảnh nhất định tạo được bầu khí oai hùng nằm ngoài ngôn ngữ.
Ngoài ra niềm tự
hào cũng được diễn tả một cách hào hùng
Phong trần mài
một lưỡi gươm,
Những loài giá
áo túi cơm sá gì.
(2445-46)
Không thể kể hết
những cụm từ Nguyễn Du dùng để tả vẻ oai phong lẫm liệt và thanh thế
"chọc trời quấy nước" (2471) của chàng như "trướng hùm",
"ngất trời sát khí", "trúc chẻ ngói tan", "sấm ran",
"rạch đôi sơn hà", , "hùng cứ một phương". v. v.
Rồi đến cảnh
chết đứng của Từ Hải cũng hùng dũng, đầy vẻ thần thoại.
Khí thiêng khi
đã về thần,
Nhơn nhơn còn
đứng chôn chân giữa vòng.
Trơ như đá vững
như đồng,
Ai lay chẳng
chuyển ai rung chẳng dời.
(2519-22)
Bằng cách lý
tưởng hóa nhân vật Từ Hải, cho chàng vai trò chống lại cường quyền
để bảo vệ những đòi hỏi chính đáng của con người như tự do và công
lý, Nguyễn Du gián tiếp công kích những chế độ bất công, áp bức và
chà đạp con người. Từ Hải tạo cho Kiều cơ hội báo oán không phải
chỉ để làm vừa lòng nàng mà còn xem đó là cơ hội bảo toàn công lý,
trừng trị những kẻ gian tà và san bằng những bất công oan ức:
Giữa đường dẫu
thấy bất bằng mà tha.
(2430)
Dĩ nhiên nếu
nhìn theo quan điểm của triều đình chính thống thì việc công khai ca
tụng và lý tưởng hóa một người chủ trương
Triều đình riêng
một góc trời,
Gồm hai văn võ
rạch đôi sơn hà.
(2441-2442)
là điều tối kỵ,
mặc dầu chỉ là một nhân vật tiểu thuyết. Tương truyền lúc vua Tự Đức
đọc truyện Kiều đến đoạn ca tụng Từ Hải đã phê: “Nếu Nguyễn Du còn
sống thì phải nọc ra mà đánh mấy chục trượng”.
Nguyễn Du đã tạo thành một thiên anh hùng ca tuyệt vời để vinh danh
nhân vật Từ Hải và qua đó đã phác họa cho mình cùng những tầng lớp
bị áp bức chà đạp giấc mơ tự do và công bằng xã hội.
Kết luận
Trong phần kết
của truyện Kiều, Nguyễn Du gói ghém luân lý vào một chữ tâm. Ngoài
"hiếu tâm" và "từ tâm", chữ tâm trong Đoạn Trường Tân Thanh còn bao
gồm tình yêu chân thành và cao thượng, sự trung tín và lòng chung
thủy, lương tri và liêm sỉ, yêu điều thiện, ghét điều ác, nói tóm
lại chữ tâm trong Đoạn Trường Tân Thanh chứa đựng tất cả thành tố
của tinh thần nhân bản, đề cao những nét tích cực và vẻ đẹp của lòng
nhân ái và niềm khát vọng một cuộc sống xứng đáng với con người.
[1]
Thực tình lúc Kim Trọng tỏ tình lần đầu Kiều cũng có nói :
“Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”. Nhưng có thể đó
là một câu thuộc lòng nàng buột miệng nói ra lúc cường độ
cuả đam mê chưa lấn át tập tục và lễ giáo.
[2]
Cách mạng không những trong quan niệm luyến ái mà còn cả
trong cách đưa vẻ kiều diễm cuả thân thể đàn bà vào văn
chương: Nguyễn Du không ngần ngại tả cảnh Kiều tắm dưới mắt
chiêm ngưỡng của Thúc Sinh : Rõ màu trong ngọc trắng ngà/
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Không gợi dục theo
kiểu văn chương Erotik thời nay nhưng cũng đủ để độc giả
tượng tưởng được một tuyệt phẩm cuả tạo hóa. Nguyễn Du còn
cho thấy cảm xúc và phản ứng của Thúc Sinh: Anh chàng này
không phải chỉ là chúa sợ vợ mà còn sính thơ : Sinh càng
tỏ nét càng khen, / Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường
(1311-14).
[3]
Lời từ chối của Kiều kéo dài 22 câu thơ, khác hẳn với những
lời ngắn gọn nàng nói với chàng trước đây, chứng tỏ đối với
nàng vấn đề này quan trọng đặc biệt.
Tinh Thần Nhân
Bản
trong
Đoạn Trường Tân
Thanh
Văn chương không
chỉ là một thú tiêu khiển mà còn có tác dụng đào luyện nhân tính và
kìm hãm thú tính trong con người. Nói cách khác bên cạnh sứ mạng
nghệ thuật, văn chương còn có một sứ mạng nhân bản. Có thể vì thế mà
cách đây ít lâu Đại Hội Văn Bút Quốc Tế tại Vienne đã lấy đề tài :
“Tương quan giữa văn chương và cuộc sống thực tế” làm trọng tâm thảo
luận cho các buổi sinh hoạt văn chương tại Đại Hội. Câu hỏi được đặt
ra là: "Văn chương có ảnh hưởng gì trên đời sống thực tế không và
nếu có thì ảnh hưởng như thế nào?" Tuy các diễn giả cũng như tham dự
viên đã đưa ra nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này, nhưng mọi
người đều đồng ý về sứ mạng nhân bản của văn chương.
Đoạn Trường Tân
Thanh của Nguyễn Du được truyền tụng trong mọi tầng lớp xã hội và
từng làm rung động con tim hàng triệu triệu người, từ trí thức đến
lao động, từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo, không phải chỉ vì đó là
một kiệt tác văn chương mà nhất là vì Đoạn Trường Tân Thanh đầy
tính chất nhân bản, chứa đựng tiếng nói trung thực của tình yêu được
giải phóng khỏi một số ràng buộc khắt khe lỗi thời của lễ giáo,
tiếng than ai oán của những người ngụp lặn trong đau khổ, tiếng phẫn
nộ căm hờn trước những bất công, tiếng kêu ca của lớp người bị áp
bức, tiếng nói của niềm ước vọng một đời sống bình yên hạnh phúc
được công lý và nhà cầm quyền bảo vệ che chở, một cuộc đời có phẩm
giá, không phải bó thân làm nô lệ, không bị hành hạ sỉ nhục đọa đày.
Nội dung truyện
Kiều là chuyện tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng được lồng trong khung
cảnh của những triết thuyết tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân và
rất nhiều tư tưởng Phật Giáo đặc biệt là thuyết nhân quả và giá trị
của nỗ lực tu thân. Trong khuôn khổ bài này tôi sẽ không bàn đến
những phạm trù triết học và tôn giáo cao siêu vừa kể. Chỉ xin tự
giới hạn vào việc trình bày những nét nhân bản trong quan niệm về
tình yêu đôi lứa, về tình người và lòng trắc ẩn đối với những người
xấu số cũng như qua lời phê phán về tệ đoan xã hội.
I- Nhân Bản Trong Quan Niệm Về Tình Yêu Lứa Đôi
1- Tình yêu khai
phóng và tự do luyến ái
Truyện Kiều thể
hiện chủ trương tự do luyến ái, vượt xa thời đại của tác giả, vẽ
lên hình ảnh một tình yêu khai phóng, giải phóng con người khỏi một
mớ ràng buộc hẹp hòi của lễ giáo.
Đường vào tình
yêu của Kim Trọng và Thúy Kiều được Nguyễn Du bài trí trong một
khung cảnh cực kỳ diễm lệ. Chàng đã đến với nàng trong cung cách của
một văn nhân thư thái nhàn hạ:
Trông chừng thấy
một văn nhân
Lỏng buông tay
khấu bước lần dặm băng.
(135-36)
Quanh chàng, tất
cả, từ âm thanh đến màu sắc, đều tạo thành một bầu khí thanh tao đẹp
đẽ:
Tuyết in sắc
ngựa câu dòn,
Cỏ pha màu áo
nhuộm non da trời.
...
Hài văn lần bước
dặm xanh,
Một vùng như thể
cây quỳnh cành giao.
(139-144)
Lai lịch quí
phái càng làm sán lạn thêm lớp hào quang bao phủ người chàng: Nào là
trâm anh, nào là phú hậu, nào là tài danh.
Rồi đến:
...Văn chương
nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo
tuyệt vời,
Vào trong phong
nhã ra ngoài hào hoa.
(150-52)
Kiều gặp một
người như Kim Trọng, mặc dầu nàng “e lệ nép vào dưới hoa”
trong một cung cách vừa đầy nữ tính vừa hợp gia phong, nàng đã cảm
nhận tiếng sét ái tình. Điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Còn Kim Trọng gặp được trang quốc sắc mà chàng đã nghe tiếng và
“trộm dấu thầm yêu” thì sự nảy nở của tình yêu ngay trong buổi đầu
gặp gỡ cũng chỉ là chuyện thường tình.
Người quốc sắc
kẻ thiên tài,
Tình trong như
đã mặt ngoài còn e.
Nhưng đối với
thời đại Nguyễn Du thì chuyện đó không phải là chuyện thường mà là
cả một cuộc cách mạng. Con tim đã thắng những ước lệ ngàn đời. Ngay
trong buổi đầu "mặt ngoài còn e", Nguyễn Du đã để hai người
sa vào mê hồn trận, bằng một câu thơ mà từ cách dùng chữ cho đến
tiết tấu và âm điệu đã xóa nhòa biên giới giữa thực và mộng:
Chập chờn cơn
tỉnh cơn mê
(165)
Nhưng rồi giờ từ
biệt cũng phải đến. Bao bồi hồi lưu luyến lúc chia tay đã thể hiện
lên dáng dấp của Kiều:
Bóng tà như dục
cơn buồn,
Khách đà lên
ngựa người còn nghé theo.
(162-63)
Để kết thúc đoạn
văn tường thuật đượm tình, Nguyễn Du đã đem tâm sự hai người lồng
vào cảnh vật, mượn giòng nước trong veo và bóng chiều thướt tha trên
cành liễu để diễn tả vẻ dịu dàng trong sáng hài hòa của tình yêu
chợt đến:
Dưới giòng nước
chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu
bóng chiều thướt tha.(169-70).
Hai câu thơ này
là một trong vô số ví dụ điển hình về nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn
Du: vừa tả chân một cách trung thực, vừa mượn cảnh vật để nói lên
tình cảm trong lòng người, vừa đem lòng người trải lên cảnh vật,
đồng thời lồng vào cảnh vật chiều sâu bất tận của tâm tư.
Bằng một lối tả
cảnh tương tự, Nguyễn Du mượn cảnh trăng sáng trong vườn lúc Kiều
trở về nhà, để lồng vào cảnh vật tâm trạng nàng sau buổi chiều gặp
gỡ.
Kiều từ trở gót
trướng hoa,
Mặt trời gác núi
chiêng đà thu không.
Gương nga chênh
chếch dòm song,
Vàng gieo đáy
nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lả
ngọn đông lân,
Giọt sương gieo
nặng cành xuân là đà.
(171-76).
Từ mấy câu thơ
tả cảnh trên đây tỏa ra một cảm giác say đắm nhẹ nhàng. Ngôn từ và
hình ảnh được xử dụng để gợi lên cử chỉ âu yếm, ôm ấp, vuốt ve, biểu
tượng cho niềm mơ ước đang chỗi dậy trong tiềm thức Kiều. Mặt trời,
vừng trăng, song cửa, ánh trăng, đáy nước, cây, sân, hải đường, giọt
sương, cành xuân, tất cả đều là vật vô tri, nhưng dưới ngòi bút
Nguyễn Du đã trở thành sống động để hòa nhịp với tình yêu trong lòng
Kiều. Những động tác gác (núi), dòm (song), gieo
(đáy nước), lồng (bóng sân), lả (ngọn đông lân),
gieo nặng (cành xuân) cọng với hai chữ là đà không những
linh động hóa vật vô tri mà còn gợi lên ấn tượng của sự trao gởi,
gần gụi, quấn quít, tượng trưng cho nỗi niềm thầm kín mong ước được
kết hợp, trộn lẫn, tan biến vào người yêu.
Nhưng trong
khung cảnh đượm tình đó, linh cảm về điều chẳng lành trong tương lai
đã khiến Kiều thốt lên:
Người đâu gặp gỡ
làm chi,
Trăm năm biết có
duyên gì hay không?
(181-82)
Một nỗi hoang
mang, một niềm lo lắng. Một câu hỏi, hỏi mình, hỏi trời, gói trọn
mối tình vừa nhen nhúm, yêu tha thiết, yêu đam mê, ước mong người
tình thành bạn trăm năm nhưng lại bị ám ảnh bởi niềm lo sợ, vì linh
cảm được bàn tay khe khắt của định mệnh đang rình rập ở một khúc
quanh nào đó.
Bên cạnh việc đề
cao tình yêu đôi lứa như là một giá trị tích cực của đời sống, tinh
thần nhân bản còn được thể hiện trong quan niệm về tình yêu khai
phóng. Điểm này được biểu lộ rõ rệt nhất qua hai lần Kiều sang thăm
Kim Trọng. Nhất là một lần vào lúc “khoảng vắng đêm trường”.
Một người con
gái vừa đến tuổi “cập kê”, thừa lúc cha mẹ vắng nhà, lẻn sang
tình tự với người yêu trong lúc đêm khuya, rồi nặng lời thề thốt
chuyện trăm năm, không màng gì đến truyền thống ngàn đời “Cha mẹ đặt
đâu con ngồi đó”
[1]. Nếu xét theo luân lý phổ thông cùng thời thì
quả là một hành vi táo bạo khó tha thứ, một cuộc cách mạng về quan
niệm luyến ái. Nguyễn Du đã đi trước thời đại của ông hằng thế kỷ,
giải phóng người phụ nữ khỏi những ràng buộc lễ giáo để chỉ nghe
theo tiếng gọi trung thực của lòng mình. Dĩ nhiên việc tạo dựng một
nhân vật tiểu thuyết lãng mạn theo tinh thần khai phóng đó đã bị phê
phán nghiêm khắc bởi một số thức giả cùng thời. “Đàn bà chớ kể Thúy
Vân Thúy Kiều”.
[2]
Nhưng tự do mà
không phóng túng, đam mê nồng nàn mà không buông thả, vừa nghe và
làm theo tiếng nói trung thực của lòng mình mà cũng vừa chế ngự được
lòng mình. Ngôn ngữ và cung cách của Kiều chứng tỏ đối với nàng
phóng khoáng trong tình yêu không có nghĩa là coi thường tất cả mọi
giáo điều luân lý. Trái lại tư tưởng và hành vi của Kiều rất đoan
chính, từ buổi chuyện trò đầu tiên trong dáng dấp e thẹn kẻ nhìn
rõ mặt người e cúi đầu (322), và ngần ngại ngần ngừ nàng mới
thưa rằng ... (331), Kiều đã nói ngay rằng tình duyên chỉ có thể
có trong vòng hôn nhân “lá thắm chỉ hồng” (333), và phải
được sự đồng ý của song thân. Khi Kim Trọng ngỏ ý xin Kiều đánh đàn
mà còn úp mở chưa dám nói thẳng, Kiều phân định rõ ràng ranh giới
giữa điều được và điều không được:
Đừng điều nguyệt
nọ hoa kia,
Ngoài ra ai lại
tiếc gì với ai.
(461-62)
Và ngay cả khi
đã cắt tóc thề nguyền với nhau, đang cảm thấy sóng tình dào dạt dâng
lên, khi mà con người dễ bị yếu lòng trước những quyến dũ ồ ạt của
hạnh phúc chính đáng:
Sóng tình dường
đã xiêu xiêu
Xem trong âu
yếm có chiều lả lơi,
(499-500),
nàng đã dịu dàng
sửa lưng Kim Trọng khi chàng sờm sỡ. Nàng đã nghiêm chỉnh từ khước
ước muốn của chàng, hẹn đến ngày tình duyên được hợp thức hóa. Điều
đặc biệt là những lý lẽ nàng viện ra không nặng về lễ giáo, mà đặt
trọng tâm vào ý muốn giữ sao cho tình yêu không phải là trò đùa nhục
dục mà phải thể hiện được lòng tương kính đối với nhau, tránh được
cảnh
Trong khi chắp
cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng
đã dành một bên, (515-16).[3]
Nên Kim Trọng đã
không bất mãn, không cho rằng Kiều đem luân lý ra dạy mình mà chỉ
còn biết tỏ lòng thán phục:
Thấy lời đoan
chính dễ nghe,
Chàng càng thêm
nể thêm vì mười phân.(523-24)
Hành động và
ngôn ngữ của Kiều đã kết hợp hài hòa tự do luyến ái tân thời và nền
nếp lễ giáo truyền thống.
Việc đề cao tinh
thần nhân bản trong tình yêu lãng mạn phóng khoáng còn được thể hiện
bằng lời lẽ diễn tả tình yêu nhất là nỗi nhớ nhung, một lối diễn tả
độc nhất vô nhị nếu so với các tác phẩm cùng thời, với những câu thơ
tình tuyệt tác.
Tả nỗi tương tư
của Kim Trọng sau buổi đầu gặp gỡ:
Sầu đong càng
lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại
một ngày dài ghê.
...
Bụi hồng lẽo đẽo
đi về chiêm bao.
Tuần trăng
khuyết đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt
lòng ngao ngán lòng.
...
Hương gây mùi
nhớ trà khan giọng tình.(247-256)
Sau này, lúc trở
lại tìm gặp song thân và hai em của Kiều, được biết Kiều đã nghìn
trùng xa cách, Kim Trọng tuy kết hôn với Thúy Vân theo lời Kiều dặn
dò, vẫn không sao khuây được lòng sầu nhớ. Chàng chỉ còn biết sống
với kỷ niệm, với nhớ nhung và nỗi nhớ nhung khiến chàng thấy điều mơ
tưởng còn hiện thực hơn thực tại:
Nỗi nàng nhớ đến
bao giờ,
Tuôn châu đòi
trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ
thư phòng,
Đốt trầm hương
giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ
tiếng tơ,
Trầm bay nhạt
khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên
nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng
vọng bóng xiêm mơ màng.
Bởi lòng tạc đá
ghi vàng,
Tưởng nàng nên
lại thấy nàng về đây.
(2847-56)
Sau nhiều năm
tháng hỏi han tìm kiếm khắp nơi, Kim Trọng đến sông Tiền Đường, nơi
Kiều đã trầm mình tự vận. Nhìn ra sông chàng lại “thấy” nàng:
Ngọn triều non
bạc trùng trùng,
Vời trông còn
tưởng cánh hồng lúc gieo.
(2969-70)
Bằng bút pháp tả
tình linh diệu Nguyễn Du tạo được bầu khí thích hợp với từng cảnh
ngộ, đưa độc giả vào thế giới hiện thực của tâm tưởng trong đó đường
ranh giữa ảo tưởng và thực tại bị xóa nhòa.
2.- Chữ trinh
Nguyễn Du đề cao
tình yêu phóng khoáng không màng gì đến phương châm “nam nữ thọ
thọ bất thân”, không khuyến khích thái độ dè dặt do lễ giáo ràng
buộc như trong Lục Vân Tiên “Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng
là phận gái ta là phận trai”. Nhưng tự do luyến ái trong Đoạn
Trường Tân Thanh không xem thường trinh tiết, không buông thả dục
tình. Trái lai nhiều lần đề cao “chữ trinh”. Điều làm ta ngạc nhiên
hơn cả là sau mười lăm năm lưu lạc giang hồ, Cành xuân đả bẻ cho
người chuyền tay (1262) mà Kiều vẫn còn nói được với Kim Trọng:
Chữ trinh còn
một chút này
(3161).
Theo nghĩa thông
thường của chữ trinh thì phải cho rằng một là còn nguyên hai là mất
hết chứ không thể “còn một chút này” được. Tức nhiên chữ trinh trong
truyện Kiều phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, bao gồm nhiều
yếu tố ngoài thể xác và quan trọng hơn thể xác. Giá trị của chữ
trinh phát xuất từ tình yêu.
Nếu chữ trinh
chỉ là một sự gượng gạo theo giáo điều luân lý hay là do lễ giáo
ràng buộc hoặc do ước lệ xã hội thì chưa hẳn chữ trinh đã "đáng giá
ngàn vàng".
Tuy vậy, khi nói
đến chữ trinh, trước hết là trinh theo nghĩa thông thường, như lời
nàng nói với chàng trong buổi đầu
Đạo tòng phu lấy
chữ trinh làm đầu
(506),
và trong ngày
tái hợp
Chữ trinh đáng
giá ngàn vàng
(3095).
Nguyễn Du tường
thuật bi kịch Kiều mất trinh khi thất thân với Mã Giám Sinh (mặc dầu
đã có chuyện gả bán tức là đã thành vợ chồng), lời lẽ tuy bóng bảy
văn hoa nhưng cũng vẽ ra quang cảnh hãi hùng ghê rợn và thương tâm
khỉ đười ươi hãm hiếp thần Vệ Nữ.
Tiếc thay một
đóa trà mi,
Con ong đã tỏ
đường đi lối về.
Một cơn mưa gió
nặng nề,
Thương gì đến
ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một
giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó
mặc nàng nằm trơ.
... Tuồng chi là
giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng
để ô danh má hồng.
(845-854)
Đến lúc ở lầu
xanh của Tú Bà, Kiều xem viễn tượng sẽ phải đem thân thể ngọc ngà
làm trò chơi nhục dục cho thiên hạ là điều vô cùng nhục nhã, chỉ có
cách lấy cái chết rửa nhục:
Thôi còn chi nữa
mà mong,
Đời người thôi
thế là xong một đời!
(855-856).
...
Đến điều sống
đục sao bằng thác trong
(1226).
Kiều nhiều lần
nói đến niềm hổ thẹn, thẹn với mình, thẹn với người nhưng tựu trung
tất cả hổ thẹn qui tụ vào hai điểm: thẹn vì lỗi ước như ta sẽ thấy
trong đoạn nói về sự trung tín và thẹn vì không còn trinh trắng, vì
không còn "hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương" (3094).
Kiều đã sa xuống
tận cùng vực thẳm nhục nhã khi nàng vì mắc mưu Sở Khanh tọa rập
với Tú Bà dụ dỗ nàng đi trốn bị Tú Bà bắt về hành hạ đã phải cam
đoan:
Tấm lòng trinh
bạch từ nay xin chừa
(1148).
Đau đớn thay,
mất trinh thể xác đã là tai họa tầy trời nhưng còn có thể bám vào
tấm lòng trinh bạch để giữ lại đôi chút phẩm giá cho mình, nhưng nay
tấm lòng trinh bạch cũng phải "xin chừa"!
Nỗi đau đớn tiếc
hận của Kiều vì mất trinh không phải do ám ảnh luân lý hay do quan
niệm hẹp hòi về thân xác người đàn bà, mà chỉ vì cảm thấy mình không
còn xứng đáng với người mình yêu và cái quí giá trong đời đúng ra
phải dành để dâng hiến cho người yêu thì đã bị người khác cưỡng
đoạt. Kiều tiếc rằng trước đây đã từ khước không trao thân cho Kim
Trọng, khiến người yêu bi thiệt thòi và rút cục chỉ còn niềm đau
trọn kiếp :
Biết thân đến
bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ
cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón
gió đông
Thiệt lòng khi ở
đau lòng khi đi.
(791-94)
Niềm tiếc hận
của Kiều không chỉ vì mất trinh thể xác, không chỉ vì bị đẩy xuống
bùn nhơ mà trước hết là vì đã phụ lòng Kim Trọng. Nếu mai sau còn
gặp lại, chẳng còn gi để dâng hiến cho người yêu mà chỉ còn đắng cay
bẽ bàng chua xót:
Trùng phùng còn
họa có khi,
Thân này thôi có
còn gì mà mong.
(795-96)
Niềm tiếc hận
này ám ảnh Kiều không bao giờ dứt, nhất là lúc ở lầu xanh nàng bị
dày vò bởi thân phận buôn hương bán phấn
Khi tỉnh rượu
lúc tàn canh,
Giật mình mình
lại thương mình xót xa
(1233-34).
Thay vì trao
thân cho người yêu thì chỉ còn lại ngậm ngùi :
Cành xuân đã bẻ
cho người chuyền tay.
(1262)
Dưới ngòi bút
Nguyễn Du và trong quan niệm của Kiều có một thứ trinh tiết còn quí
giá hơn trinh triết thông thường, đó là "tấm lòng trinh bạch" và
tình yêu chung thủy, mặc dầu đời nàng
Ong qua bướm lại
đã thừa xấu xa
(3098).
Dưới nhãn quan
tình yêu, với thái độ bao dung quân tử Kim Trọng đã giúp cho "chữ
trinh còn một chút này" của Kiều trở thành nguyên vẹn như xưa. Và
chàng đã nhận định rất xác đáng là sự hy sinh trinh tiết của Kiều
không phải là điều xấu xa mà là một hành động cao cả do lòng hiếu
thảo. Chàng đã mượn phương châm “ngộ biến tùng quyền” để tương đối
hóa đặc tính tuyệt đối thường được gán cho chữ trinh:
... Chữ trinh
kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có
khi thường,
Có quyền nào
phải một đường chấp kinh.
(3116-18)
... Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa.
(3123-24)
Chữ "tàn"
lặp lại hai lần chứng tỏ không phải Kim Trọng nhắm mắt nói bừa cho
vừa lòng Kiều mà đã công nhận rằng 15 năm giang hồ đã làm cho cuộc
đời Kiều trở nên tàn tạ, nhưng Kim Trọng cũng có một tầm mắt khoáng
đạt để thấy đạo hiếu của Kiều đã tẩy xóa sạch mọi vết nhơ.
... Như nàng lấy
hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục
được mình ấy vay?
Đề cao việc Kiều
“lấy hiếu làm trinh” là một sự đánh giá rất nhân bản về trinh tiết
và một quan niệm rất bao dung trong việc luận công định tội. Yếu tố
làm nên tội lỗi là tự mình làm điều sai trái không do một áp lực
nào. Kim Trọng không hề quên rằng Kiều đã bị áp lực nặng nề của hoàn
cảnh khắc nghiệt. Hơn thế, việc bán mình là do quyết định hy sinh
trinh tiết để chu toàn đạo hiếu, tròn chữ hiếu tức là trọn chữ
trinh, bình phương giữa hiếu và trinh đã được Nguyễn Du gói trọn
trong bốn chữ lấy hiếu làm trinh. Và bốn chữ này cũng là lý
do Kim Trọng viện dẫn để thuyết phục Kiều nối lại duyên xưa. Kiều
chiều lòng Kim Trọng đồng ý hợp hôn nhưng lúc động phòng thì nàng
khẩn khoản xin Kim Trọng miễn cho chuyện chăn gối, vì nàng xem ân ái
với nhau bây giờ và trong những năm tháng còn lại là
...... giở
nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa
là thù đấy thôi.
Người yêu ta xấu
với người,
Yêu nhau thì
lại bằng mười phụ nhau.
... Chữ trinh
còn một chút này,
Chẳng cầm cho
vững lại dày cho tan.
(3155-62)
Kim Trọng chẳng
những không nài ép, mà còn thông cảm và “muôn phần kính thêm”
(3174). Phản ứng của Kim Trọng giải thoát Kiều khỏi ngục tù của mặc
cảm dày xéo lòng nàng suốt mười mấy năm qua.
Nghe lời sửa áo cài trâm,
Khấu đầu lạy tạ
cao thâm ngàn trùng.
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử
khác lòng người ta.
Mấy lời tâm phúc
ruột rà,
Tương tri dường
ấy mới là tương tri!
Chở che đùm bọc
thiếu gì,
Trăm năm danh
tiết cũng vì đêm nay!
(3179-3186)
Nếu đối chiếu
với tâm lý thường tình thì quả Kim Trọng có một tấm lòng cao thượng
và quảng đại "khác lòng người ta"! Lời khen tặng của Kiều
phát xuất từ lòng cảm phục và tri ân vô biên, đồng thời cũng biểu
hiện niềm hạnh phúc chan chứa trong lòng nàng, vì Kim Trọng đã không
những đã hiểu được nàng, mà còn gột rửa dùm nàng mọi vết nhơ khiến
nàng hổ thẹn. Nàng phủ phục trước chàng như trước một đấng cao cả đã
cho nàng được tái sinh, từ cặn bã bùn nhơ trở về cuộc đời trinh
trắng. Lòng quân tử phi thường của Kim Trọng có phép nhiệm mầu "gạn
đục khơi trong". Đem đoạn thơ này đối chiếu với lời Kiều nói
trong đêm động phòng xin từ khước chuyện gối chăn, ta sẽ thấy được
hiệu quả của phép nhiệm mầu đó: Cái nhìn cao thượng và sâu sắc của
Kim Trọng về chữ trinh đã khiến cho lời lẽ bi quan của Kiều trước
đây khi nàng đồng hóa tình và thù, yêu và
xấu, yêu và phụ được thay thế bằng những cung bậc
của hạnh phúc, của hân hoan:
Mấy lời tâm phúc
ruột rà,
Tương tri dường
ấy mới là tương tri.
Chở che đùm bọc
thiếu gì,
Trăm năm danh
tiết cũng vì đêm nay.
Thoắt thôi tay
lại cầm tay,
Càng yêu vì nết
càng say vì tình.
Cao thượng trong
tình yêu, đó cũng là một khía cạnh của tính chất nhân bản trong cốt
cách Kim Trọng và đó cũng là tính chất cao quý nhất, đặc sắc nhất,
nổi bật hơn cả vẻ đẹp diện mạo hay là tư chất phong nhã hào hoa. Qua
nhân vật Kim Trọng Nguyễn Du đã diễn đạt một quan niệm rất mới, rất
nhân bản về luyến ái và về chữ trinh với lời phê phán rất công
bằng, rất xác đáng về Kiều mà Nguyễn Du đã nhờ Sư Tam Hợp tóm tắt
như sau:
Xét trong tội
nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái
khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm
trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động
hiếu tâm tới trời
...
Thửa công đức ấy
ai bằng?
Túc khiên đã rửa
lâng lâng sạch rồi!
(2681-84)
3- Trung tín
Trung tín cũng
là một đức tính cao trọng trong đạo làm người.
Ngay từ trong “buổi
mới lạ lùng” (349) Kiều khẳng định:
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung (352).
Và Kim Trọng phụ
họa:
Rằng: "Trăm
năm cũng từ đây" (355)
Đối với Kim-Kiều
yêu nhau không phải chuyện nhất thời, chuyện qua đường mà là chuyện
thề hứa trăm năm. Lời thề ở đây không phải chỉ đặt trên danh dự
thường tình mà còn có tính chất thiêng liêng, bởi có đất trời chứng
giám.
Những đoạn những
câu nói về lời thề của đôi bên nhất là của Kiều đầy dẫy trong Đoạn
Trường Tân Thanh chứng tỏ Nguyễn Du đề cao trung tín như là một
thành tố cốt yếu của đạo làm người.
Trọng lượng của
lời thề
Trong những lời
yêu thương Kim-Kiều trao cho nhau thì lời thề nguyền có một trọng
lượng đặc biệt. Ngay từ buổi đầu tiên, để đáp lại lời tỏ tình còn
ngập ngừng của Kim Trọng
Tiện đây xin một
hai điều
...(329),
Kiều đã đặt vấn
đề "lá thắm chỉ hồng" (333) và khi Kim Trọng hứa sẽ nhờ
người "mối manh" Kiều nói lên lời thề "đá vàng thủy chung"
(352). Lúc trao quà hứa hôn cho Kiều, Kim Trọng cũng gọi chúng là
“của tin” làm bằng cho chuyện thề hứa trăm năm.
... Của tin gọi
một chút này làm ghi.
(355-56).
Lúc Kiều mới
sang thăm Kim Trọng lần đầu hai người đã
"Góp lời phong
nguyệt, nặng nguyền non sông."
(396).
Đến lần thăm
viếng thứ hai lời thề nguyền được diễn ra như một lễ nghi tôn giáo
trong bầu không khí thiêng liêng có hương có nến:
Vội vàng làm lễ
rước vào,
Đài sen nối sáp
song đào thêm hương.
(445-446)
Trong khung cảnh
trang trọng đó lời thề không những được ghi lên giấy mực mà niềm son
sắt còn được nhấn mạnh bằng việc cắt tóc làm chứng cho lời thề:
Tiên thề cùng
thảo một chương,
Tóc mây một món
dao vàng chia đôi.
(447-448 )
Buổi lễ ước thề
được cử hành với sự chứng giám của thần linh được biểu tượng bởi “vầng
trăng vằng vặc giữa trời” (449). Hai câu
Đinh ninh
hai miệng một lời song song (450)
và
Trăm năm tạc một
chữ đồng đến xương
(452)
làm nổi bật
quyết tâm gắn bó trọn đời một cách mạnh mẽ phi thường.
Lời thề được
nhắc đi nhắc như một điệp khúc trong nhiều cảnh ngộ. Khi Kiều lo sợ
về tương lai vì nhớ lại lời thầy tướng tiên đoán đời nàng sẽ đầy tai
biến, Kim Trọng dùng lời thề để trấn an nàng:
Ví dù giải kiết
đến điều,
Thì đem vàng đá
mà liều với thân.
(421-422)
Khi
bất đắc dĩ tạm thời chia tay, Kim Trọng dặn dò:
Trăng thề còn đó
trơ trơ,
Dám xa xôi mặt
mà thưa thớt lòng.
(541-542)
Kiều đáp lời dặn
dò bằng cách nhắc lại lời thề và quả quyết thêm lần nữa:
Cùng nhau trót
đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc
dám dời lòng tơ.
(551-552)
...
Đã nguyền hai
chữ đồng tâm,
Trăm năm thề
chẳng ôm cầm thuyền ai.
(555-556)
Chuyện thề ước
cũng là trọng tâm của những lời Kiều dặn dò Thúy Vân:
Khi ngày quạt
ước khi đêm chén thề (708).
Đối với Kiều lời
thề làm cho tình trở thành “nghĩa” theo cách hiểu rất đẹp về danh từ
nghĩa của truyền thống. Tình có thể theo thời gian mà bớt nồng nàn,
bớt đam mê nhưng nghĩa thì càng ngày càng sâu càng nặng. Đáp lời
khuyên giải của thân sinh sau khi quyết định bán mình, Kiều chỉ nhắc
đến lời thề mà nàng xem như là nghĩa phải đền, phải trả.
Nhờ cha trả được
nghĩa chàng cho xuôi.
(774)
Nghĩa phải trả
đó là món nợ tình, chưa trả được kiếp này thì sẽ trả kiếp sau, sẵn
sàng làm “thân trâu ngựa”.
Tái sinh chưa
dứt hương thê
Lam thân trâu
ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả
cho ai,
Khối tình mang
xuống tuyền đài chưa tan.
(705-710)
Sau này lúc đã
xa nhau, mỗi lần Kiều nhớ đến Kim Trọng là nhớ đến lời thề. Lúc ở
lầu Ngưng Bích:
Tưởng người dưới
nguyệt chén đồng...
(1039)
Lúc ở lầu xanh:
Nhớ lời nguyện
ước ba sinh ...
(1259)
Lúc ở với Từ
Hải:
Tiếc thay chút
nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý
còn vương tơ lòng.
(2241-42)
Thề hứa cũng
chiếm một chỗ đứng quan trọng trong tư tưởng và ngôn ngữ Kim Trọng.
Lúc gặp lại gia đình Kiều và nghe kể hết sự tình, chàng kêu than
thống thiết và chua xót ngậm ngùi nhìn lại những món quà “của tin”
đã tặng Kiều ngày trước và những vật kỷ niệm mà lúc ra đi Kiều đã
nhờ Thúy Vân giữ hộ:
Thề xưa giở đến
kim hoàn,
Của xưa lại giở
đến đàn với hương.
(2807-08)
...
Cùng nhau thề
thốt đã nhiều,
Những điều vàng
đá phải điều nói không.
(2813-14)
Lòng nhớ nhung
và nhất là sự ràng buộc của lời thề đã là động cơ khiến chàng cương
quyết:
Bao nhiêu của
mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi gặp
mặt nàng mới thôi.
(2817-18)
Kim Trọng cũng
bi ray rứt vì lỗi ước, tuy cũng như Kiều sự bội ước của chàng chẳng
phải do tâm địa phản trắc mà do hoàn cảnh đẩy đưa:
Lời xưa đã lỗi
muôn vàn,
Mảnh hương còn
đó phím đàn còn đây.
(2933-34)
Trọng lượng của
lời thề trong Đoạn Trường Tân Thanh cho ta thấy Nguyễn Du đề cao
trung tín như là một thành tố cốt yếu của đạo làm người.
Ray rứt vì bội
ước
Lời thề càng
nặng bao nhiêu thì sự bội ước, dầu chỉ là do hoàn cảnh bó buộc ,
càng dằn vặt bấy nhiêu. Chuyện lỗi thề đã hành hạ Kiều trong suốt
thời gian lưu lạc giang hồ. Lúc cha già lâm nạn, nàng đành bán mình
chuộc cha vì không còn cách nào khác. Điều làm nàng đau khổ nhất và
khiến nàng bị ray rứt suốt đời không phải là sự thiệt thòi cho bản
thân vì đã hy sinh những gì cao quí nhất mà là sự lỗi thề với người
yêu. Sau khi mọi thủ tục bán mình đã tạm giải quyết xong, Kiều có
thì giờ để than thân trách phận. Nhưng lại không nghĩ đến phận mình
mà chỉ nghỉ đến chuyện lỗi thề:
Thề hoa chưa ráo
chén vàng,
Lỗi thề, thôi đã
phụ phàng với hoa!
(701-702)
Từ đó lỗi thề đã
trở thành nỗi ám ảnh triền miên. Nếu trước đây lời thề đã được "tạc
đến xương" thì sữ lỗi ước đã thích lên trán hai chữ "phản bội" không
thể cạo xóa được.
Kiều nhờ em thay
minh kết duyên với Kim Trọng cũng chỉ vì bị dằn vặt về chuyện “lỗi
thề” mà nàng muốn vớt vát lại phần nào:
Xót tình máu mủ
thay lời nước non.
(732).
Sự ray rứt vì
lỗi thề khiến Kiều kết thúc lời dặn dò Thúy Vân bằng hai câu
Ôi Kim Lang, hỡi
Kim Lang,
Thôi thôi! Thiếp
đã phụ chàng từ đây!
Nếu phê phán
đoạn văn này theo quan điểm hành văn thời nay thì chắc có người
cười là quá “cải lương”, nhưng thiết nghĩ phải đánh giá theo văn
phong thời đó và nếu đặt vào tình huống câu chuyện thi hai câu này
quả là một lời kêu than thống thiết đầy tuyệt vọng mà cũng rất tuyệt
vời.
Hổ thẹn vì lỗi
thề
Bội ước là nỗi
đau, bội ước cũng là niềm hổ thẹn. Biết hổ thẹn chứng tỏ người có
lương tri và biết liêm sỉ trước lời phê phán của lương tâm. Lương
tri và liêm sỉ là thành tố cao đẹp của nhân tính. Niềm hổ thẹn cũng
được Kiều viện dẫn để từ khước thèm muốn nhục dục của Kim Trọng sau
khi hai người làm lễ thề nguyền:
Gieo thoi trước
chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn
cùng chàng bởi ai.
(519-20)
Nhìn trăng nhớ
lại lời thề dưới trăng mà hổ thẹn.
Dặm khuya ngất
tạnh mù khơi
Thấy trăng mà
thẹn những lời non sông.
(915-16)
Và sau này tái
hợp, lúc Kim Trọng cùng cả nhà thuyết phục Kiều kết hôn với chàng,
lý do nàng đưa ra để từ chối là sự hổ thẹn với chính mình:
Nghĩ mình chẳng
hổ mình sao,
Dám đem trần cấu
dự vào bố kinh,
Đã hay chàng
nặng vì tình,
Trông hoa đèn
chẳng thẹn mình lắm ru!
(3103-06)
Kim Trọng thuyết
phục nàng rằng sự hổ thẹn của nàng là vô căn cứ vì nàng đã “lấy
hiếu làm trinh”, và vì đó:
Hoa tàn mà lại
thêm tươi,
Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa.
(3123-24)
Kiều đành miễn
cưỡng nhận lời kết hôn nhưng cương quyết không chăn gối như vợ
chồng. Lý do nàng viện ra cũng lại là hổ thẹn:
Riêng lòng đã
thẹn lắm thay
Cũng đà mặt dạn
mày dày khó coi.
(3149-50)
II- Tinh Thần Nhân Bản Trong Lãnh Vực Tình Người
1- Đạo hiếu
Lúc cha già lâm
nạn, Kiều sẵn sàng bán mình, nghĩa là sẵn sàng hy sinh trinh tiết,
hy sinh tương lai để cứu cha. Điều đó đã là giá rất đắt nàng phải
trả. Nhưng còn một sự hy sinh to lớn hơn và làm nàng đau khổ hơn gấp
bội, đó là sự phải từ khước tình yêu và chấp nhận bội ước với người
yêu. Điều chiếm hết tâm trí của nàng không phải là sự thiệt thòi cho
bản thân mà chỉ là sự xung khắc giữa hiếu và tình, giữa "ơn sinh
thành" và lời "thệ hải minh sơn". Và nàng đã không ngần ngại dành ưu
tiên cho đạo hiếu:
Duyên hội ngộ,
đức cù lao,
Bên tình bên
hiếu bên nào nặng hơn.
Để lời thệ hải
minh sơn,
Làm con, trước
phải đền ơn sinh thành.
(601-604)
Quyết định dứt
khoát do lòng Kiều tự phát chứ không do lời yêu cầu của song thân
hay lời khuyến cáo của bất cứ ai. Điểm đặc biệt và đáng quí trong
việc Kiều bán mình chuộc cha là quyết định của nàng cũng không phải
do giáo điều của truyền thống về đạo hiếu mà là một hành vi xuất
phát từ lòng thương yêu kính trọng. Không phải hành động một cách
máy móc mà làm với tất cả tấm lòng.
Trong một đời
sống bình thường không bão bùng giông tố, không đòi hỏi những hy
sinh phi thường thì việc chu toàn đạo hiếu, kính yêu phụng dưỡng cha
mẹ ông bà đã là hành vi đáng ca ngợi. Nhưng trong trường hợp của
Kiều muốn bảo toàn chữ hiếu phải hy sinh tình yêu và hy sinh cả
tương lai mình. Đã mất tất cả vì chữ hiếu mà không chút oán hận lại
còn lựa lời dịu dàng khuyên giải cha già, lúc ông vì tuyệt vọng mà
đâm đầu vào tường tự vận:
Thà rằng liều
một thân con,
Hoa dù rã cánh
lá còn xanh cây.
(677-678)
...
Cũng đừng tính
quẩn lo quanh,
Tan nhà là một
thiệt mình là hai.
(681-682)
Ngay cả những
lúc hoàn toàn tuyệt vọng, như sau cuộc ái ân cưỡng ép với Mã Giám
Sinh, Kiều muốn tự kết liễu cuộc đời nhưng đã không làm theo ý muốn
của mình chỉ vì sợ “lụy vào song thân”. (862)
Rồi trong suốt
mười lăm năm lưu lạc, Kiều đã ngày đêm khắc khoải vì nỗi nhớ nhung
dằng dặc đối với song thân, buồn tiếc vì không còn được ở bên cạnh
để phụng dưỡng hầu hạ. Lòng hiếu thảo của Kiều được Sư Tam Hợp ngợi
khen là đã ”động hiếu tâm đến trời”. (2684)
2- Từ tâm và
lòng trắc ẩn
Trong Đoạn
Trường Tân Thanh, từ tâm và lòng trắc ẩn được đề cao như một điểm
son trong đạo làm người. Ngay trong mấy câu mở đầu tác phẩm, Nguyễn
Du đã nói đến mối thương tâm:
Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du đau
lòng vì những bất hạnh của đồng loại trong “cõi người ta” và
đau lòng vì số kiếp nàng Kiều, tài sắc vẹn toàn và đầy lòng nhân ái
mà phải đón lấy một định mệnh vô cùng bi đát. Những danh từ “mệnh”,
“số”, kiếp, “phận” với nội dung thê thảm đầy dẫy trong toàn cuốn
truyện. Số mệnh không phải chỉ do lòng ghen ghét của “con Tạo” đối
với người tài hoa mà còn được xem là kết quả của cái nhân do mình
tạo nên:
Kiếp xưa đã vụng
đường tu,
Kiếp này chẳng
khỏi đền bù mới thôi.
(1195-96)
Có thể nói những
câu thơ hay nhất trong Đoạn Trường Tân Thanh là những câu Nguyễn Du
tả nỗi đau khổ của Kiều hay là để Kiều than thân trách phận, với một
lối sử dụng điệp ngữ, đối ngữ rất thần tình tạo nên những âm hưởng
não nuột, ai oán.
Khi thì than
khóc vì chuyện tình dang dở:
Nỗi riêng riêng
những bàn hoàn,
Dầu chong trắng
đĩa lệ tràn thấm khăn.
(711-12)
Khi thì bùi ngùi
vì đã lầm mưu Sở Khanh nên đành phải chấp nhận làm điếm:
Buồng riêng
riêng những sụt sùi,
Nghĩ thân mà lại
ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong
giá trắng ngần,
Đến phong trần
cũng phong trần như ai.
(1589-92)
Hoặc lời than
thở lúc ở lầu xanh, sau một thời gian áp dụng bài học của Tú Bà về
những "công phu" của "nghề chơi" (1201) với Vành
ngoài bảy chữ vành trong tám nghề (1210):
Những nghe nói
đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi
lạ lùng khắt khe.
Xót mình cửa các
buồng khuê,
Vỡ lòng học lấy
những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn
mày dày,
Kiếp người đã
đến thế này thì thôi!
(1219-24)
...
Khi tỉnh rượu
lúc tàn canh,
Giật mình mình
lại thương mình xót xa.
Khi sao phong
gấm rủ là,
Giờ sao tan tác
như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió
dạn sương,
Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân?
(1233-38)
...
Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ...
... Vui là vui
gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn
mà với ai?
(1243-48)
Lòng nhân ái mà
Nguyễn Du đề cao như một đặc điểm ưu việt của tình người được thực
hiện bởi một số nhân vật trong Đoạn Trường Tân Thanh. Đứng hàng đầu
dĩ nhiên là Kiều. Một trong những nét nổi bật nhất của tâm tính Kiều
là khả năng thông cảm sâu sắc với người đau khổ, thậm chí lấy cái
đau của người khác làm cái đau của mình. Hai chị em Kiều cùng nghe
Vương Quan kể chuyện cuộc đời bất hạnh của Đạm Tiên, nhưng trong khi
Thúy Vân vô tình và dửng dưng thì Kiều sụt sùi nhỏ lệ và làm thơ tỏ
lòng thương xót người ca nhi bạc phận. Từ tâm của Kiều còn đi xa hơn
sự thông cảm và lòng thương xót. Nàng muốn gánh đau khổ thay cho
người khác nhất là những người nàng thương yêu. Nàng sẵn sàng hy
sinh, sẵn sàng chịu thiệt. Để cứu cha già lâm nạn, nàng hy sinh
tình yêu, duyên phận, tiết trinh, nghĩa là hy sinh tất cả những gì
quí giá nhất của một đời con gái.
Lòng nhân ái
cũng là một động cơ thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải về thần phục triều
đình: nàng không muốn kéo dài chiến tranh làm thiệt mạng sinh linh.
Nàng muốn chấm dứt cảnh đống xương Vô-định đã cao bằng đầu
(2494).
Từ Hải vì nghe
lời nàng mà bị hãm hại, nàng tự nhận tội “giết chồng” nhưng
sư Tam Hợp đánh giá việc làm của nàng là “công đức”, vì đã “hại
một người cứu muôn người” (2685).
Không riêng gi
Kiều, trong Đoạn Trường Tân Thanh còn một số nhân vật khác đầy lòng
trắc ẩn, sẵn sàng thông cảm thương xót và giúp đỡ ủi an những người
bạc phận. Điều đáng chú ý là những nhân vật nầy không thuộc giới
quyền quí giàu sang mà thuộc thành phần bình dân hoặc hạ lưu, như
lão già họ Chung, vì thương xót cảnh ngộ gia đình Kiều và cảm phục
lòng hiếu thảo của nàng đã giúp đỡ nàng trong việc cứu Vương Ông
khỏi vòng lao lý. Như Mã Kiều, mà cuộc đời làm gái điếm đã không hủy
diệt được từ tâm, động lòng thương xót Kiều khi thấy nàng mắc mưu Sở
Khanh và bị Tú Bà hành hung một cách tàn nhẫn. Mã Kiều đã can đảm
đứng ra bảo lãnh cho Kiều. Hoặc như mụ quản gia ở nhà mẹ Hoạn Thư,
tuy hoàn cảnh bắt phải làm tôi tớ ở chốn hang hùm, vẫn lén giúp đỡ
và chăm sóc cho Kiều, đồng thời dặn dò nàng đường đi nước bước để
khỏi mang họa vào thân. Vãi Giác Duyên tuy biết nàng Kiều đã trộm
chuông vàng khánh bạc của nhà Hoạn Thư, vẫn không lên án mà còn tỏ
lòng thương xót vì biết Kiều đã hành động trong cơn túng quẩn.
Những kẻ từ tâm
giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đã được nàng đền ơn xứng đáng. Bên
cạnh lòng trắc ẩn, sự biết ơn và việc đền ơn trả nghĩa là một trong
những điểm son của tình người được đề cao trong Đoạn Trường Tân
Thanh.
Lòng trắc ẩn của
Nguyễn Du đối với những thành phần bất hạnh trong xã hội không chỉ
được thể hiện qua truyện Kiều mà còn trải rộng trên những tác phẩm
khác. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có nhiều trang nhiều giòng nói lên
lòng thương xót sâu sắc trước cảnh thương tâm của những kẻ khốn
cùng. Trên đường đi sứ Tàu, Nguyễn Du đã chứng kiến và tả lại trong
một bản văn chữ Hán cảnh những thây người chết đói, cảnh mấy mẹ con
hành khất đầu đường xó chợ, mẹ chết bỏ lại đàn con nheo nhóc bơ vơ:
Mẹ chết đã đành
rồi,
Trông con càng
đứt ruột.
Nỗi lòng đau đớn
lạ thường.
Khiến mặt trời
cũng vì người mà vàng úa.
Trong bài Văn
Chiêu Hồn, Nguyễn Du dựng nên cả một thế giới bi thảm với từng đoàn
cô hồn thất thểu bơ vơ. Nỗi thống khổ của các cô hồn là biểu tượng
của những oan uổng, những bi thương uất ức chồng chất trong đời biết
bao nhiêu người trên dương thế.
Lòng nhân ái là
một trong những yếu tố cấu thành chữ tâm, mà ở phần kết truyện Kiều
Nguyễn Du đã tuyên dương như là đỉnh cao của tinh thần nhân bản.
III- Tinh Thần Nhân Bản Trong Lãnh Vực Xã Hội
Bài học nhân ái
trong Đoạn Trường Tân Thanh còn được nổi bật qua lời tố cáo và phê
phán tệ đoan xã hội cũng như cách mô tả cung cách và ngôn ngữ các
nhân vật phản diện.
1- Tệ đoan xã hội
Tuy cũng thuộc
về giới quan quyền nhưng có lẽ vì cuộc sống thăng trầm đã cho
Nguyễn Du có dịp gần gụi và thông cảm với những người xấu số nên ông
đã đứng hẳn về phía các nạn nhân, bênh vực quyền lợi chính đáng của
họ và nghiêm khắc phê phán lũ cường quyền hống hách tham ô.
Chỉ bằng cách
mô tả dáng dấp, điệu bộ, ngôn ngữ các nhân vật phản diện và vận dụng
kho tàng thành ngữ khẩu ngữ trong văn chương bình dân Nguyễn Du
cũng đã vẽ lên đậm nét sự đểu cáng gian xảo lọc lừa độc ác của lớp
người lòng lang dạ thú. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, giới thống trị
và bộ hạ của chúng là những tên sâu dân mọt nước, tàn bạo tham lam.
Lúc Vương ông bị vu vạ “tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây
(590)” mà quan quyền sở tại chẳng những đã không phân xử cho công
minh mà còn cho lũ sai nha vào nhà hành hung cướp bóc. Và phương thế
duy nhất để giải oan cho nạn nhân là phải “có ba trăm lạng”
để “lót đó luồn đây” (611-12).
Viên quan ngồi
xử việc Thúc Ông kiện Kiều ra tòa vì dan díu với Thúc Sinh được
Nguyễn Du điểm mặt bằng câu:
Trông lên mặt
sắt đen sì”
(1409)
bộc lộ tất cả
bầu khí hắc ám toát ra từ khuôn mặt sắt máu. Hồ Tôn Hiến, một viên “tổng
đốc trọng thần, kinh luân gồm tài" (2451-52) rút cục đã hiện
nguyên hình là một tên vô lại hèn nhát, phản phúc dâm ô. Nguyễn Du
bình luận về tính chất bỉ ổi trơ trẽn của họ Hồ lúc ép Kiều hầu rượu
đánh đàn bằng hai câu:
Nghe càng đắm,
ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vì tình
(2579-80).
Ngoài lớp quan
quyền đốn mạt, xã hội trong truyện Kiều còn đầy dẫy những thành phần
bất hảo độc ác thối tha mà Nguyễn Du đã mô tả tường tận với bút
pháp rất tinh tế. Chỉ xin đan cử vài ví dụ tiêu biểu.
Mã Giám Sinh tuy
cố tình qua mặt người đời bằng cái mã bề ngoài "mày râu nhẵn nhụi
áo quần bảnh bao" (628) nhưng khi vào nhà Kiều thì để lộ ngay
chân tướng hỗn xược thô bạo "ghế trên ngồi tót sỗ sàng"
(631).
Kiều đã nhận ra
mặt thật của tên "bợm già" (882) mà nàng đánh giá như sau:
Khác màu kẻ quí,
người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ
như hình con buôn.
(887-888)
Và như ta đã
thấy trong phần trên, con buôn này hành nghề buôn hương bán phấn,
với những tư tưởng và hành vi đê hèn bỉ ổi.
Đến nhân vật Tú
Bà cũng được Nguyễn Du tô rất đậm nét.
Thoạt trông nhờn
nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn
đẫy đà làm sao?
(923-24)
Lối tả chân của
Nguyễn Du không những làm hiện rõ trước mắt độc giả một mụ chủ điếm
phốp pháp màu da tái nhợt mà hai chữ ăn gì còn hàm chứa một
sự khinh bỉ ghê tởm. Khi ra đón Kiều, Tú Bà có dáng dấp của một tay
lão luyện ở chốn lầu xanh:
Trước xe lơi lả
han chào...
(925).
Lơi lả đã trở
thành bản tính thứ hai của mụ chủ điếm. Rồi đến ngôn ngữ của mụ mới
thật là kinh khủng. Khi nghe Kiều tiết lộ đã thất thân với Mã Giám
Sinh, mụ kêu la thất thanh vì cô điếm không còn trinh là một lỗ lã
to lớn:
Màu hồ đã mất đi
rồi,
Thôi thôi vốn
liếng đi đời nhà ma!
(969-70)
Rồi mụ quay sang
nhục mạ Kiều bằng những lời lẽ vừa đanh đá vừa sỗ sàng sống sượng
chỉ có thể phun ra từ miệng một mu điếm già. Tội nghiệp nàng Kiều
từ chốn khuê các
Êm đềm trướng rủ
màn che
(37)
đã chịu một trận
ái ân phũ phàng gần như cưỡng hiếp rồi bây giờ lại bị gán cho tội
dâm đãng bằng một lời chửi bới hết sức tục tằn.
Cớ sao chịu tốt
một bề?
Gái tơ mà đã
ngứa nghề sớm sao!
(975-76)
Một nhân vật
khác, cũng thuộc hạng người nham hiểm độc ác tàn nhẫn dầu không thô
bỉ hạ cấp, đã được Nguyễn Du phác họa rất tường tận, đó là Hoạn Thư,
vợ Thúc Sinh. Dưới ngòi bút Nguyễn Du Hoạn Thư hiện hình là một
người đàn bà mưu mô, thâm hiểm, cao tay ấn với một sách lược báo thù
rất quỉ quyệt. Nguyễn Du không mô tả dung mạo, dáng dấp cử chỉ của
Hoạn Thư mà chỉ chú trọng đến những nét đặc thù của ngôn ngữ, tính
tình và nhất là phản ứng tâm lý do ghen tương. Qua mấy vần thơ sau
đây độc giả như trực tiếp cảm nhận lửa ghen phừng phừng nung nấu
lòng người đàn bà có chồng phụ bạc;
Từ nghe vườn mới
thêm hoa,
Miệng người đã
lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập
càng nồng,
Trách người đen
bạc ra lòng trăng hoa.
(1535-38)
Trong đoạn thơ
kế tiếp, bằng bút pháp tân kỳ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du gạt được
tấm màn che kín tâm tư Hoạn Thư sang một bên để độc giả trực tiếp
nhìn thấy, nghe thấy nỗi bực tức, cơn giận dữ và những toan tính độc
ác của nàng:
Lo gì việc ấy mà
lo,
Kiến trong miệng
chén có bò đi đâu.
Làm cho nhìn
chẳng được nhau,
Làm cho đày đọa
cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông
thấy nhãn tiền,
Cho người thăm
ván bán thuyền biết tay!
(1547-1552)
Những thủ đoạn
tàn khốc quỉ quyệt của hai mẹ con Hoạn Thư được Nguyễn Du kể lại
rất tỉ mỉ, vừa đánh động mối thương tâm của độc giả trước vực thẳm
khổ đau nhục nhã của Kiều, vừa phê phán hành vi tàn nhẫn độc ác, dầu
độc ác là do lòng ghen tương như lời Hoạn Thư biện bạch sau này để
xin Kiều ân xá trong giờ đền ân báo oán:
Rằng tôi chút dạ
đàn bà,
Ghen tương thì
cũng người ta thường tình ...
... Chồng chung
chưa dễ ai chiều cho ai.
(2365-70)
Bút pháp tả
người của Nguyễn Du qua các nhân vật kể trên cũng như các nhân vật
phản diện khác tự nó đã là một lời phê phán rất bén nhạy và xác đáng
và có hiệu lực khơi động từ tâm đối với nạn nhân của lũ người độc
ác.
2- Anh hùng ca
Từ Hải hay là giấc mơ công lý và công bằng xã hội
Trong một xã hội đầy ải con người một cách bất công mà nạn nhân
không được pháp luật và công quyền che chở bảo vệ thì chì còn một
phương sách tự vệ duy nhất là tự mình thực hiện công lý cho mình,
nghĩa là tự mình, nếu có hoàn cảnh và sức lực, chiếm lại cho mình và
cho xã hội những gì đã bị cường quyền cưỡng đoạt. Từ Hải đã thực
hiện được điều đó một cách oai hùng.
Dưới mắt triều
đình chính thống, Từ Hải là một thành phần “phản loạn”. Nguyễn Du
không đứng về phía triều đình để phê phán và lên án mà đã công khai
ca tụng và đề cao nhân vật "phản loạn" đó bằng những nét oai hùng,
dung mạo và khí phách hơn người, hiện thân của niềm khao khát tự do
và công lý. Ngoài những danh từ được lặp đi lặp lại “anh hào”, “vẫy
vùng”, “anh hùng”, “trượng phu”, “phi thường”, để chỉ Từ Hải,
Nguyễn Du còn tạo nên một hình ảnh rạng ngời. Đặc biệt nhất là chí
lớn
Một tay gầy
dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể
Sở sông Ngô tung hoành. (2463-64)
... Nghênh ngang
một cõi biên thùy,
(2447)
Và hiên ngang:
Đội trời đạp đất ở đời (2171),
Câu thơ này là
một ví dụ cho thấy biệt tài của Nguyễn Du sử dựng những chữ rất
thông thường (ai mà chẳng “đội trời đạp đất”!) nhưng lồng vào một
văn cảnh nhất định tạo được bầu khí oai hùng nằm ngoài ngôn ngữ.
Ngoài ra niềm tự
hào cũng được diễn tả một cách hào hùng
Phong trần mài
một lưỡi gươm,
Những loài giá
áo túi cơm sá gì.
(2445-46)
Không thể kể hết
những cụm từ Nguyễn Du dùng để tả vẻ oai phong lẫm liệt và thanh thế
"chọc trời quấy nước" (2471) của chàng như "trướng hùm",
"ngất trời sát khí", "trúc chẻ ngói tan", "sấm ran",
"rạch đôi sơn hà", , "hùng cứ một phương". v. v.
Rồi đến cảnh
chết đứng của Từ Hải cũng hùng dũng, đầy vẻ thần thoại.
Khí thiêng khi
đã về thần,
Nhơn nhơn còn
đứng chôn chân giữa vòng.
Trơ như đá vững
như đồng,
Ai lay chẳng
chuyển ai rung chẳng dời.
(2519-22)
Bằng cách lý
tưởng hóa nhân vật Từ Hải, cho chàng vai trò chống lại cường quyền
để bảo vệ những đòi hỏi chính đáng của con người như tự do và công
lý, Nguyễn Du gián tiếp công kích những chế độ bất công, áp bức và
chà đạp con người. Từ Hải tạo cho Kiều cơ hội báo oán không phải
chỉ để làm vừa lòng nàng mà còn xem đó là cơ hội bảo toàn công lý,
trừng trị những kẻ gian tà và san bằng những bất công oan ức:
Giữa đường dẫu
thấy bất bằng mà tha.
(2430)
Dĩ nhiên nếu
nhìn theo quan điểm của triều đình chính thống thì việc công khai ca
tụng và lý tưởng hóa một người chủ trương
Triều đình riêng
một góc trời,
Gồm hai văn võ
rạch đôi sơn hà.
(2441-2442)
là điều tối kỵ,
mặc dầu chỉ là một nhân vật tiểu thuyết. Tương truyền lúc vua Tự Đức
đọc truyện Kiều đến đoạn ca tụng Từ Hải đã phê: “Nếu Nguyễn Du còn
sống thì phải nọc ra mà đánh mấy chục trượng”.
Nguyễn Du đã tạo thành một thiên anh hùng ca tuyệt vời để vinh danh
nhân vật Từ Hải và qua đó đã phác họa cho mình cùng những tầng lớp
bị áp bức chà đạp giấc mơ tự do và công bằng xã hội.
Kết luận
Trong phần kết
của truyện Kiều, Nguyễn Du gói ghém luân lý vào một chữ tâm. Ngoài
"hiếu tâm" và "từ tâm", chữ tâm trong Đoạn Trường Tân Thanh còn bao
gồm tình yêu chân thành và cao thượng, sự trung tín và lòng chung
thủy, lương tri và liêm sỉ, yêu điều thiện, ghét điều ác, nói tóm
lại chữ tâm trong Đoạn Trường Tân Thanh chứa đựng tất cả thành tố
của tinh thần nhân bản, đề cao những nét tích cực và vẻ đẹp của lòng
nhân ái và niềm khát vọng một cuộc sống xứng đáng với con người.
[1]
Thực tình lúc Kim Trọng tỏ tình lần đầu Kiều cũng có nói :
“Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”. Nhưng có thể đó
là một câu thuộc lòng nàng buột miệng nói ra lúc cường độ
cuả đam mê chưa lấn át tập tục và lễ giáo.
[2]
Cách mạng không những trong quan niệm luyến ái mà còn cả
trong cách đưa vẻ kiều diễm cuả thân thể đàn bà vào văn
chương: Nguyễn Du không ngần ngại tả cảnh Kiều tắm dưới mắt
chiêm ngưỡng của Thúc Sinh : Rõ màu trong ngọc trắng ngà/
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Không gợi dục theo
kiểu văn chương Erotik thời nay nhưng cũng đủ để độc giả
tượng tưởng được một tuyệt phẩm cuả tạo hóa. Nguyễn Du còn
cho thấy cảm xúc và phản ứng của Thúc Sinh: Anh chàng này
không phải chỉ là chúa sợ vợ mà còn sính thơ : Sinh càng
tỏ nét càng khen, / Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường
(1311-14).
[3]
Lời từ chối của Kiều kéo dài 22 câu thơ, khác hẳn với những
lời ngắn gọn nàng nói với chàng trước đây, chứng tỏ đối với
nàng vấn đề này quan trọng đặc biệt.