Phan Bội Châu theo cộng sản ?
|
Phạm Hồng-Lam
Augsburg, ngày 14.09.08
|
Trong cuốn Tự Phán[1]
Phan Bội Châu cho hay, sau khi ra khỏi tù ở Trung-hoa
(1913-1917), ông cải tổ Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc
Dân Đảng, và đã khởi thảo ra Cương lĩnh cho đảng mới này. Cương
lĩnh gồm hai tài liệu, một bản Chương trình (Việt Nam Quốc Dân
Đảng chương trình) và một bản Đảng cương (Việt Nam Quốc Dân
Đảng đảng cương). Ông cũng cho biết thêm: Ba tháng sau khi
soạn xong tài liệu, Nguyễn Ái Quốc từ Mạc-tư-khoa tới tìm gặp ông ở
Quảng Đông và nhiều lần yêu cầu ông sửa đổi nội dung; nhưng ông
đã không sửa và giao hai bản văn cho Hồ Tùng Mậu tìm cách mang về
nước; chuyện Mậu có đưa được các tài liệu đó về trong nước không, và
bản Chương trình sau đó có bị sửa đổi thế nào không, ông không biết
[2].
Bản Đảng cương trình bày tổ chức nội bộ đảng, “dựa
theo khuôn mẫu của Quốc Dân Đảng Trung-hoa có châm chước thêm bớt
cho đúng với tình hình nước ta
[3]”,
nội dung được sơ tóm trong Tự Phán. Về mặt tư tưởng,
tài liệu này không có gì đáng nói.
Còn bản Chương trình có nội dung
ra sao mà Nguyễn Ái Quốc phải nhiều lần yêu cầu thay đổi? Có phải
bản văn này đã là nguyên cớ kết thúc cuộc đời cách mạng của Phan Bội
Châu không? Hồ Tùng Mậu có mang nó về nước không? hay đã trao cho ai?
Nhiều câu hỏi chưa có được câu trả lời rõ ràng.
Chương trình
là tài liệu quan trọng, phản ảnh một chuyển biến tư tưởng mới và lớn
của họ Phan. Nhưng lạ là cho tới nay, chưa thấy học giả Việt nào đề
cập tới bản văn đó. Cũng chưa thấy nó xuất hiện trong bất cứ một tác
phẩm việt ngữ nào. Tại sao?
Tôi may mắn có được nội dung của bản Chương trình.
Cuối thập niên 80 thế kỉ trước, khi đi tìm tài liệu trong các thư
viện Đức, tôi gặp được cuốn sách của Jörgen Unselt, Vietnam: Die
Nationalistische und Marxistische Ideologie Im Spätwerk Von Phan Bội
Châu [1867-1940] (Vietnam: Í Thức Hệ Quốc Gia Và Cộng Sản
Trong Tác Phẩm Về Sau Của Phan Bội Châu [1867-1940] ), Franz
Steiner Verlag, Wiesbaden 1980.
Đây là một luận án tiến sĩ, một tài liệu ngoại ngữ hoạ
hiếm, và có lẽ cũng là tài liệu duy nhất ở Đức, nghiên cứu tư tưởng
và con người cách mạng Phan Bội Châu. Tác giả đã bỏ ra nhiều năm tìm
kiếm tài liệu ở các thư khố ở Pháp và Việt Nam (Đà-lạt, Sài-gòn),
tìm gặp phỏng vấn một số nhân vật liên quan, và đặc biệt đã ở lại
Việt Nam 2 năm (1970-72) học tiếng hầu hoàn thành đề tài tiến sĩ
(1978, đại học Heidelberg) của mình.
„Tác phẩm về sau“ tác giả đề cập ở đây chính là
bản Chương trình của VNQDĐ do họ Phan soạn tại Trung-hoa
trong khoảng từ tháng 7.1924 tới tháng 5.1925 và đã giao cho Hồ Tùng
Mậu mang về nước. J. Unselt không tìm đâu ra được nguyên bản bản
thảo, mà chỉ tham khảo nó qua bản dịch Pháp ngữ của phòng nhì Pháp,
và ông đã dịch lại gần như toàn bộ bản văn Pháp ngữ trong luận án
của mình.
Sau khi đã chuyển những đoạn nội dung Chương trình
ra Việt ngữ và đã viết một bài khá dài tính để giới thiệu với độc
giả, thì tình cờ tôi được linh mục Trương Bá Cần cho hay, trong nước
giáo sư Chương Thâu đang gom góp văn liệu để hoàn thành một Phan
Bội Châu Toàn Tập, và ông xin tôi một bản chụp cuốn sách của
Unselt, bảo là để cho người bạn Chương Thâu của ông. Đó là vào những
năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trước. Sau đó, tôi có mua được từ Úc
Phan Bội Châu Toàn Tập, gồm 10 tập, 4800 trang, nhà xuất bản
Thuận Hoá, 1990. Toàn Tập còn thiếu nhiều, và dĩ nhiên cũng
không có hai bản văn Cương lĩnh VNQDĐ. Bài tôi viết xong để đó, cứ
nghĩ sẽ dần dà hoàn chỉnh khi có được thêm tài liệu mới. Thấm thoắt
mới đó mà đã trên dưới 17 năm rồi!
Nay tôi muốn giới thiệu với quý độc giả phần cuối của
bài viết, phần tìm hiểu việc Phan Bội Châu theo “cộng sản”.
Phan Bội Châu đến với chủ nghĩa cộng sản
Trong Chương trình, họ Phan đề nghị, sau khi
giải phóng đất nước khỏi tay thực dân và phong kiến, VNQDĐ của ông
sẽ thiết lập một „Tân Việt Nam“ dựa trên một hiến pháp mới với các
hệ thống thuế công bằng, kinh tế hữu hiệu và một chính sách giáo dục
cộng đồng. Và cuối cùng, sẽ đưa đất nước vào giai đoạn thực hiện các
„nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa“.
Như vậy có nghĩa là họ Phan tin vào chủ thuyết cộng
sản. Nhưng chủ nghĩa cộng sản của ông có nội dung như thế nào, và
ông đã đi đến chủ nghĩa đó lúc nào, bằng cách nào?
Phan Bội Châu biết đến chủ nghĩa cọng sản sau khi đọc
được (năm 1920) cuốn Nga-la-tư Chân Tướng Điều Tra Kí của một
tác giả Nhật nói về biến cố tháng 10 Nga
[4].
Đó cũng là lúc Phan đã biết được (ít ra đọc được trên
sách báo Tàu) những biến động chính trị xẩy ra ở Bắc-kinh và một số
thành phố lớn khác. Lúc thế chiến I tới hồi kết thúc, các nước thắng
trận họp nhau ở Versailles (1918) gần Paris để giải quyết chuyện tồn
đọng. Tàu lúc đó hi vọng các nước sẽ tháo gỡ các bất công cho mình.
Nhưng khi Anh, Hoa-kì, Pháp đồng í cho Nhật tiếp tục giữ thuộc địa
và quyền lợi ở Tàu thì từ Đại học Bắc-kinh sinh viên dấy lên biểu
tình chống quân phiệt Nhật, chống đế quốc phương tây, chống tay sai
thân Nhật trong chính quyền. Biểu tình chống đối lan rộng ra các đại
học. Suốt một năm dài, sản phẩm hàng hoá của Nhật bị dân Tàu tẩy
chay. Sử gọi đó là „Phong trào mồng 4 tháng 5 năm 1919”.
Phong trào nhiễm màu quốc gia chủ nghĩa, được khơi dậy do nhóm giáo
sư Đại học Bắc-kinh.
Cuối 1920, qua giới thiệu của Thái Nguyên Bồi, viện
trưởng Đại học Bắc-kinh, Phan tìm gặp hai đại diện cộng đảng Nga
đang có mặt ở Bắc-kinh để biết thêm về „chân lí cộng sản“.
Nhưng ông đã không biết thêm gì về chủ nghĩa từ hai nhân vật này;
nội dung câu chuyện chỉ xoay quanh mấy điều kiện nhận du học sinh.
Đại diện Nga cho biết sẵn sàng nhận nuôi ăn học cho sinh viên Việt
với điều kiện sau đó phải theo cộng sản và tuyên truyền cho chủ
nghĩa này. Quan hệ cắt đứt từ đó, vì Phan sớm nhận ra „sự xảo
quyệt của người Nga“
[5].
Không trực tiếp tìm hiểu được chủ nghĩa cộng sản với
người Nga, Phan tìm đọc qua sách báo (Tàu). Và không lâu sau đó, ông
đã diễn tả nỗi phấn kích của mình về Cộng sản, đặc biệt về biến cố
tháng 10 ở Nga, qua những dòng thơ sau:
Gió giận thổi tan tành đế quốc,
Lửa thù thiêu đứt khoá cường quyền.
Cuộc Âu Á nhào xáo biết bao phen.
Mà cơ hội phen này thêm mới, mới,
Cờ cách mạng Viễn đông bay phất phới,
Sóng nhân quyền hoàn hải dậy đùng đùng.
Nga-la-tư vừa dựng nước Lao công,
Toàn thế giới bóng cờ hồng lấp loá.
Hoa với Việt xưa nay huynh cập đệ,
Quyết dắt (được) nhau hộ vệ Á đông mình.
Nền thực dân e đến lúc tan tành,
Vườn nhân đạo thênh thang trời bể trông (trống?),
Khắp thế giới biết bao người lao động,
Người như ta ai cũng biểu đồng tình.
Trận chiến tranh giai cấp đã rành rành,
Duy vô sản đấu tranh cùng hữu sản.
Rằng cừu địch chỉ mấy nhà tư bản,
Còn lao công ai cũng tán thành ta.
Nếu anh em chiếm đắc nhân hoà,
Thời địa lợi thiên thì là của sẵn (…)
Đó là 20 câu đầu của bài Mừng Cơ Hội, tất cả 51
câu, đăng trong Chủng Diệt Dự Ngôn. Cũng trong Chủng Diệt
Dự Ngôn Phan cho hay: “Gần mấy năm nay, (nổi lên ở Tàu) phong
trào cách mạng từ bắc qua nam nào là phản đối tư bản gia, nào là
phấn đấu với đế quốc chủ nghĩa …”
[6]. “Phong
trào cách mạng“ đề cập ở đây chính là các biến cố của Phong
trào mùng 4 tháng 5 mà Phan chủ yếu đã đọc được qua sách báo. Sở
dĩ Phong trào này có hơi hướm cọng sản, là vì nó do các giáo sư đại
học Bắc-kinh dấy động, mà trong số các trí thức đó có Li Ta Chao,
quản lí thư viện đại học và là người đầu tiên, năng nỗ nhất theo chù
nghĩa cộng sản. Cộng sản ở Tàu lúc này cũng chỉ là trên sách báo,
luẩn quẩn trong một nhóm nhỏ trí thức, chứ thực tế chưa có nhiều
người. Trong đại hội thành lập Đảng Cộng
Sản Trung-hoa do Li Ta Chao triệu tập tại Thượng-hải
(01.07.1921) chỉ có 13 đại biểu tham dự.
J. Unselt cho rằng, Phan chịu ảnh hưởng tư tưởng của
Li trong giai đoạn đầu tiếp cận chủ nghĩa cộng sản, bởi vì lí thuyết
gia năng nỗ và nổi tiếng nhất về chủ nghĩa cộng sản ở Tàu lúc đó
không ai ngoài Li. Nhưng trong tập Xã Hội Chủ Nghĩa viết về
sau trong thời gian bị quản thúc tại Huế (1925-1940), Phan cho hay
muốn hiểu chủ nghĩa này một cách chính thống thì nên tìm hiểu thẳng
từ Marx và Tôn Trung Sơn; ông coi Tôn là một thứ Mạnh-tử của Marx
[7].
Trong văn liệu hiện có của Phan, không thấy ông đề cập tới Lí Ta
Chao chỗ nào cả. Có thể Phan đã đọc Li và không đồng quan điểm với
Li. Mà cũng có thể vì nhu cầu thực tế: phần vì thấy mình gần gũi với
tư tưởng của Tôn Trung Sơn hơn (đặc biệt thuyết Tam dân ngũ quyền),
phần vì muốn có sự giúp đỡ của ông này, nên Phan đã dồn tâm trí vào
nhân vật này. Tôn lúc đó vừa là một nhà lí thuyết cách mạng nổi
tiếng, vừa là một chính trị gia có quyền và là người thành lập
Đồng Minh Hội và Trung-hoa Quốc Dân Đảng. Sách Xã Hội
Chủ Nghĩa cho thấy Phan nắm khá vững nội dung lí thuyết chủ
nghĩa. Trong sách, ông dành ra một tiết (tiết 14) trình bày học
thuyết xã hội chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn; học thuyết này chủ trương
chính quyền phải được tiếp tục hiện hữu sau khi cách mạng thành công,
chứ không bàn đến giai đoạn vô chính phủ như các lí thuyết gia xã
hội chủ nghĩa không tưởng chủ trương.
Không hiểu Phan chịu ảnh hưởng của Li tới mức nào. Tuy
nhiên, vì là một khuôn mặt tinh thần lớn của giai đoạn đó, nên ta
cũng cần biết đôi chút về Li và cảnh huống chính trị của Tàu lúc đó.
Li Ta Chao và phong trào cộng sản Tàu
Li Ta Chao (1889-1927) sang Nhật năm 1913 theo học môn
chính trị. Tại đây ông có dịp tìm hiểu rất sớm chủ nghĩa cộng sản.
Ông là một trí thức viết khoẻ, viết hay và đầy tình tự dân tộc. Các
bài viết luận về triết lí cũng như hô hào chính trị đã cuốn hút các
tầng lớp dân Tàu. Về mặt đấu tranh chính trị, có thể so sánh vai trò
và uy tín của ông đối với trí thức Tàu tương đương với vai trò và uy
tín của Phan Bội Châu đối với dân Việt.
Năm 1918, Li cho đăng Cuộc Chiến Thắng Của
Bôn-xê-vích, một bài viết quan trọng trình bày nhận thức và niềm
tin của mình vào sự tất thắng của chủ nghĩa mác-lê. Ông cho rằng thế
giới ngày nay đang chuyển thành một thế giới lao động, và cuộc đấu
tranh giai cấp (mà lực lượng quyết định sẽ là nông dân và công nhân)
là tất yếu, đó là động lực quyết định sự phát triển kinh tế. Theo
ông, tin vào sự phát triển kinh tế mà không tin vào đấu tranh giai
cấp, là nói láo. Tóm lại, Li xác tín hoàn toàn vào những định đề của
chủ nghĩa mác-lê.
Cùng năm 1918, Li được mời về làm quản thủ thư viện
Đại học Bắc-kinh. Tại đây, ông gây phong trào quảng bá chủ nghĩa
cộng sản nơi tầng lớp trí thức sinh viên bằng cách lập các học hội:
„Học hội lí thuyết xã hội chủ nghĩa“ (12.1919), „Hội học
lí thuyết Mác“ (03.1920). Mao Trạch Đông, lúc đó là nhân viên
thư viện, là một trong những hội viên nhiệt tâm của „Hội học lí
thuyết Mác“ và hội này là tiền thân của Đảng Cộng Sản
Trung-hoa.
Li và các trí thức ở đại học Bắc-kinh đã nhen nhúm lên
Phong trào mùng 4 tháng 5. Vì thế, qua Phong trào tư
tưởng cộng sản đã được quảng bá và lan rộng, tạo đà cho Li thành lập
đảng cộng sản vào năm 1921. Một sự kiện khiến trí thức tàu lúc đó
càng có cảm tình với cách mạng vô sản là ngay sau khi thế chiến kết
thúc, Nga đã nhanh nhẩu tự nguyện từ bỏ mọi đặc quyền thuộc địa của
mình ở Tàu.
Sau khi lập đảng, Li bắt tay với Tôn
[8]
(1922). Hai đảng Cộng Sản (ĐCS) và Quốc Dân (QDĐ) từ hợp tác
đi tới thống hợp. Đại hội QDĐ (01.1924) đưa thêm vào cương lĩnh ba
điểm: Liên minh với Nga, hợp tác với Cộng sản và yểm trợ khối công
nông. Cuộc hôn nhân đẻ ra định chế „quân uỷ“ (chỉ huy lực lượng quân
sự) và trường quân sự Hoàng-phố. Nga điều Borodine sang làm cố vấn
cho Tôn. Tôn quen với ông này hồi còn tị nạn (trốn Thanh triều) ở
Hoa-kì. Borodine giúp QDĐ tổ chức lại mọi mặt theo khuôn mẫu Đảng
Cộng sản Nga. Đối lại, Tôn gởi Tưởng Giới Thạch sang Moskau 3
tháng học cách quản trị cộng sản. Hồ Chí Minh, dưới lốt thông dịch
viên, được lệnh theo đoàn của Borodine sang làm nhiệm vụ quốc tế đặt
đầu cầu cộng sản ở Đông dương.
Cuộc hôn nhân quốc cộng cũng là khởi đầu của sự thảm
bại của phía quốc gia. Trên lí thuyết, từng cá nhân đảng viên cộng
sản phải gia nhập vào QDĐ, nhưng vẫn được phép tiếp tục giữ thẻ đảng
cộng sản. Thực tế thì đấy là cơ hội để cộng sản khuynh loát, bởi vì
họ tổ chức chặt chẽ hơn, mục tiêu của họ hoàn toàn không đi đôi với
QDĐ và nhất là cơ cấu cộng sản đã không tự giải thể theo quy ước, mà
trái lại họ vẫn âm thầm bành trướng để rồi như mầm ung thư đưa QDĐ
vào bế tắc.
“Cộng sản” Phan Bội Châu
Phong trào 04.05.1919
ở Tàu giúp Phan nhận rõ hơn bản chất thực dân của Nhật. Bản chất
nguy hiểm này cũng là một trong những lí do trước đó khiến Phan viết
Pháp Việt Đề Huề Luận Văn vào năm 1918
[9].
Cũng từ bối cảnh 04.05.1919 (chống Nhật, chống ”đế quốc” Anh, Pháp,
Hoa-kì...) mà Phan nặng tình hơn với chủ nghĩa cộng sản. Sự nặng
tình này càng tất nhiên hơn khi ông chứng kiến cuộc hôn nhân giữa
QDĐ và đảng cộng sản Tàu.
Phan Bội Châu ngả theo cộng sản. Thế tại sao Đảng
Cộng sản Việt-nam trong bao năm đã không khai thác được quan
điểm này của nhà đại cách mạng để tuyên truyền?
Phải chăng hình tượng của ông quá lớn, phải đánh đổ đi
thì Hồ Chí Minh mới có chỗ đứng?
Phải chăng vì ông đã bị họ kết án là kẻ thoả hiệp đầu
hàng thực dân, khi ông viết Pháp Việt Đề Huề Luận Văn? Việt
cộng coi bản văn này là bản án tử cho ông. Nhưng theo Phan:
“Khi hai dân tộc vì một lẽ nào đó xui khiến mà phải
sống bên nhau trên một miếng đất, thì chỉ có hai cách cư xử với nhau:
hoặc bên này tiêu diệt bên kia; hoặc hai bên hợp tác với nhau để
chung sống. Cách thứ hai là cách tốt (…)Điều đó tôi đã từng nói và
từng viết trong “Pháp Việt đề huề”.
Sự hợp tác Pháp Việt phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa
hai dân tộc. Không có bình đẳng thì không có hợp tác
[10]…
Do thế, “đề huề trong í tôi và đề huề trong í họ (Pháp) xa nhau
như trời với vực
[11]”Lại
nữa, Phan cũng cho hay, sở dĩ phải thay đổi lập trường, là vì dân
trí và dân khí của dân Việt như thế thì làm sao mà thắng Pháp mau
được. Qua tài liệu „Pháp Việt đề huề luận văn“ ta thấy Phan
giờ đây ngã hẳn theo chủ trương, mà mười hai năm trước Phan Chu
Trinh đã thúc giục ông đi theo. Chu Trinh muốn „đề huề“ để dùng Pháp
diệt phong kiến, duy tân xã hội, mở mang dân trí hầu chuẩn bị đất
gieo trồng Dân chủ. Bội Châu giờ đây cũng mang những í nghĩ như vậy,
nhưng lí do có thể nói quan trọng nhất khiến ông thay đổi chủ trương
là cái viễn kiến về một cuộc thế chiến thứ hai giữa Nhật và các nước
phương Tây, trong đó chắc chắn Nhật sẽ thắng Pháp ở Đông dương và
Việt-nam sẽ rơi vào ách thống trị còn tàn bạo hơn của Nhật.
Hay phải chăng người cộng sản việt nam đã chẳng khai
thác được Phan, vì cái cộng sản của ông không đúng với bài bản của
họ?
Trong Chương trình, Phan đề cập tới “nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa”, “nguyên lí xã hội chủ nghĩa”, và
muốn sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng đất nước theo „nguyên
tắc cộng sản chủ nghĩa“. Theo Phan, hai í niệm “xã hội chủ nghiã”
và “cộng sản chủ nghĩa” cũng là một.
Xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa được Phan hiểu
như thế nào?
“Chủ nghĩa xã hội là một chủ nghĩa muốn cho tất cả
loài người ai ai cũng được tự do và hạnh phúc. Mục đích của chủ
nghĩa xã hội tóm tắt chỉ có bấy nhiêu mà thôi (…)
Giải thích chật lại một chút, thời bao nhiêu cơ
quan sinh sản đều nhóm góp lại làm của chung; những cái gì loài
người cần phải nhờ cậy nó cho đời sống được sung sướng vui vẻ đều
bình quân san sẻ ra cho nhau. Không có một người nào bạo mạnh mà
ngồi không, lại không có một người nào cướp bóc lợi ích của kẻ khác.
Đó là xã hội chủ nghĩa
[12]”.
Một cách cụ thể, ‘nguyên tắc cộng sản’ của Phan gồm
hai nhiệm vụ:
- Về kinh tế:
Nâng cao đời sống và phúc lợi cho mọi người. Với nông
dân, nhà nước mua - chứ không tịch thu
[13] - đất đai rồi chia đều
cho họ. Với công nhân, nhà nước bảo đảm hạnh phúc xã hội của họ bằng
cách ấn định giờ làm việc phù hợp, ấn định đồng lương tối thiểu và
lương phải đi đôi với việc làm, huấn nghệ, phát triển các loại công
việc lao động tập thể, mở các viện chăm sóc người hết tuổi lao động
hoặc tật bệnh…
- Về xã hội chính trị:
Đưa mọi dân mọi nước tiến tới „đồng nhân“, „đại đồng“.
Đây là hai í niệm thuần tuý đông phương, được Khổng-tử triển khai
trong Kinh Dịch (quẻ Đồng nhân) và sách Lễ Kí, thiên
Lệ vận (nói về Đại đồng). Đồng nhân, có thể nói, thuộc lãnh vực quốc
gia: Mọi người trong một quốc gia coi nhau như anh chị em, đau cái
đau chung, chia sẻ niềm vui, nỗi cực của nhau. Xét rộng ra là Đại
đồng: Mọi dân tộc đối xử với nhau như anh em; ở thời đại đồng, biên
giới quốc gia, chủng tộc, tôn giáo không còn nữa.
Phan dành cả một tiết sau hết của Xã Hội Chủ Nghĩa
khai triển một đoạn trong thiên Lệ Vấn sách Lễ Kí để vẽ lên
bức tranh đại đồng, mà cũng là bức tranh thời kì cuối cùng của xã
hội chủ nghĩa. Theo đó:
Khi đạo lí to lớn đã lưu hành khắp thế giới rồi,
thì cả thiên hạ là một; những người đạo đức nhất, tài giỏi nhất được
cử ra uỷ thác các công việc lớn; người già trở thành cha mẹ chung,
được chăm sóc chung; trẻ con là con chung, được nuôi nấng cho tới
trưởng thành; người cường tráng đều có công ăn việc làm; người tật
bệnh, côi quả đều được chăm sóc; trai có phận, gái có chồng; của cải
không ai giữ riêng, mà đem ra phân phối dùng chung cho mọi người;
người có sức làm theo sức, hưởng theo nhu cầu; trộm cướp như vậy
không còn đất đứng; lúc đó nhà nhà không cần cửa đóng then cài; cả
thế giới là một nhà
[14].
Đó là tất cả „chủ nghĩa cộng sản“ của Phan. Trở đi trở
lại cũng chẳng gì ngoài những suy tư đông phương. Mục tiêu “đại đồng”
chính là thiên đàng cộng sản. Tiêu đích như vậy đã có. Thế còn
phương tiện? Làm sao để đi tới đó? Đây là điểm khác biệt bản lề giữa
Phan (và Tôn Trung Sơn) với các môn đồ chính thống của Marx.
Người cộng sản chân chính sử dụng hai phương tiện
Chuyên chính vô sản và Đấu tranh giai cấp để đi tới bến.
Hai phương tiện này chẳng thấy xuất hiện đâu cả trong Chương
trình và các văn liệu khác của Phan, mặc dù về mặt lí thuyết,
Phan hiểu rất rõ hai nội dung vô cùng quan trọng này của chủ thuyết,
như hai câu trong bài Mừng Cơ Hội cho thấy phần nào:
Cuộc đấu tranh giai cấp đã rành rành
Duy vô sản đấu tranh cùng hữu sản.
Tác giả J. Unselt
[15]
cho rằng, nhờ Phan suốt đời quanh quẩn ở các nước Á đông, nên dòng
suy tư vẫn không vượt ra ngoài khuôn khổ đông phương; vì Phan không
tiếp cận được với những mâu thuẫn gay gắt của xã hội âu mĩ nên đã
không dứt khoát hơn với chủ nghĩa cộng sản như Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản của ông.
Phần đầu của lí luận có thể có lí, phần hai không hẳn.
Li Ta Chao chưa sang Âu châu mà lại là người xác tín hơn ai hết vào
đấu tranh giai cấp; Tôn Trung Sơn, trái lại, sống ở Âu Mĩ, có cơ hội
nếm mùi hậu quả của chế độ tư bản âu châu, thì lại bác bỏ chuyện đấu
tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Tôn thiết tha với chủ nghĩa
xã hội, nhưng càng đi sâu vào, ông càng nhận ra những hạn chế và
khuyết điểm, lại càng nghi ngờ hiệu lực của nó. Tôn là người hiểu rõ
hoàn cảnh xã hội của các nước Âu Mĩ và của Tàu; cái hiểu của ông sâu
rộng, nên ông biết nhận định và chắt lọc những gì phù hợp.
Phan cũng đồng một quan điểm về xã hội chủ nghĩa như
Tôn. Ông cổ xuý mục tiêu đại đồng cao cả của chủ nghĩa, nhưng về mặt
thực hành, ông bác bỏ đấu tranh giai cấp, là vì, như ông phát biểu
sau này với phóng viên báo L’ Effort (1938):
„ Hô hào giai cấp đấu tranh ở xứ này là một việc cực
ngu! Những người thức thời không bao giờ làm như thế. Thế nào là „tư
bản“? một người có 5, 10 mẫu ruộng, một anh chủ tiệm may mà gọi là
tư bản ư? Cứ xem bản tổng kê ở các nước khác, thì đã có người An-nam
nào đáng gọi là một nhà tư bản chưa? Tôi đã nói ở nước này chưa có
sự phân biệt rõ ràng của hai giai cấp tư bản và lao động: Người
An-nam chúng ta đều là hạng người mất quyền, hạng người mất nước cả.
Cùng một tai nạn, đã không chung sức để tuỳ theo cảnh ngộ mà lần hồi
thu phục lại những quyền đã mất, để gầy dựng lại nền tảng quốc gia,
lại còn đi kiếm cách tương tàn tương phấn, làm giảm mất lực lượng
tranh đấu, thật là một điều thất sách!
[16]“
Còn vô sản chuyên chính? Phan hiểu nó trước hết là chuyện
xẩy ra ở cấp vĩ mô, giữa các dân tộc trên thế giới. Đó là việc „liên
hiệp cả thảy lao động các nước, mà không phải chỉ là một nước nào“(…),“liên
hiệp cả toàn thế giới lại (…), dắt díu cả thảy giai cấp mình, tiến
lên chiếm lấy địa vị giai cấp tư bản
[17]“, nghĩa là không
có chuyện „lao công chuyên chính“ trong một quốc gia.
Giữa hai nhà cách mạng, Tôn và Phan, có điểm đồng về mặt
nhận thức xã hội chủ nghĩa. Cả hai cùng thích cái chủ trương giải
phóng dân nghèo và tạo công bình xã hội, cùng tin rằng thế giới sẽ
nhờ thực thi „tam dân“ mà đi tới „đại đồng“ (mà cả hai cũng gọi là
cộng sản). Nhưng điểm dị giữa hai người: Tôn xuất thân từ giới
trưởng giả, mang trong mình lí tưởng dân chủ trưởng giả, và tổ chức
cách mạng của ông cũng chỉ chú trọng tới tầng lớp trí thức, trưởng
giả (VNQDĐ do Nguyễn Thái Học thành lập sau này ở Việt Nam cũng nặng
đường hướng như họ Tôn); Phan trái lại là một nho sĩ xuất thân từ
thôn dân, sống nơi thôn quê, nên cảm với nông dân. Thành ra lí tưởng
đấu tranh của ông luôn hướng về đại khối quần chúng bình dân.
Cuối năm 1920, trong khi Phan thất vọng về „sự xảo
quyệt của người Nga“ ở Bắc-kinh, thì cũng chính lúc đó trong đại
hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp ở Tours Nguyễn Tất Thành dơ
tay tuyên thệ nguyện suốt đời làm tôi cho quốc tế vô sản. Đứng trước
một chủ thuyết tưởng rằng có thể mang lại một giải đáp cho đất nước,
việc quyết định chọn lựa của Phan và Thành đã nói lên cái tâm và cái
trí của mỗi người. (Dĩ nhiên không thể so sánh quân tử họ Phan với
tiểu nhân Tất Thành được - kẻ đã mang bao nhiêu tai họa và chết chóc
tới cho đất nước và dân tộc). Chọn lựa của Phan nói lên cái trí cao
rộng với đầy í thức và cái tâm bao dung thương dân tộc. Khác hẳn với
sự chọn lựa nhắm mắt và giáo điều của những Nguyễn Tất Thành, Li Ta
Chao, Mao Trạch Đông, Kim Nhật-thành, Pôn-pốt…
Và như thế giờ đây, hi vọng chúng ta đã có câu trả lời
cho những thắc mắc nêu lên đầu bài, đặc biệt là lí do tại sao ông
Nguyễn Ái Quốc … đã nhiều lần nhắc tôi thay đổi“.
[1] Phan Bội Châu, Tự
Phán. Hồi kí vận động cách mạng của cụ Phan Bội Châu.
Nhân chủ học xã, USA 1987. Trang 217, 218.
[2] PBC, đã dẫn, trang 218
[3] PBC, đã dẫn, trang 218
[4] PBC, đã dẫn, trang 203
tt.
[5] PBC, đã dẫn, trang
206.
[6] Jörgen Unselt, Die
Nationalistische und Marxistische Ideologie im Spätwerk von
Phan Boi Chau, Wiesbaden 1980, ghi chú , 385, 386.
[7] Xã Hội Chủ Nghĩa,
Toàn Tập, Tập 4, trang 144 t
[8] Lúc đầu Đảng Cộng sản
Trung-hoa không chịu thống hợp vào QDĐ. Nhưng đại diện đệ
tam quốc tế là Maring ra lệnh phải thống hợp. Lí do Nga hi
sinh đàn em mới ra đời, là vì họ cần liên minh với Tàu để
cản Nhật. Họ chấp nhận đi với Tôn sau khi bế tắc trong các
cuộc nói chuyện với giới quân phiệt Tàu cầm quyền.
[9] Phải Thi Hành Chủ
Nghĩa Pháp Việt Đề Huề, Toàn Tập, Tập 4, trang
365 t
[10] Trả lời phỏng vấn
báo Annam về „Pháp - Việt đề huề“, Toàn Tập, Tập
4, trang 31.
[11] Phan Bội Châu, Tự
Phán, sđd, trang 203.
[12] Xã Hội Chủ Nghĩa,
trong PBC Toàn Tập, Tập 4, trang 134.
[13] „Chủ nghĩa xã hội
là một chủ nghĩa rất hợp nhân đạo, tất phải có một cách xử
trí cho cực kì công bằng, nếu bách đoạt tiền tài của nhà
giàu mà san sẻ ra cho nhà đói, thế thời ra làm rối loạn xã
hội, mà không phải là cải lương xã hội“ Chủ Nghĩa Xã
Hội, đã dẫn, trang 135
[14] Xem Xã Hội Chủ
Nghĩa, dẫn trên, trang 179t.
[15] Xem J. Unselt, Die
Nationalistische und Marxistische Ideologie… sđd; và
Sun Yat Sen in the Perspective of Phan Boi Chau´s Vietnamese
National Revolutionary Movement, sđd.
[16] Vấn Đề Giai Cấp
Đấu Tranh, trong Toàn Tập, Tập 4, trang 368tt.
[17] Xã Hội Chủ Nghĩa,
đã dẫn, trang 154t.
|