Nguyễn Đức Cung
QUẢNG-BÌNH DƯỚI
NGÒI BÚT
CỦA LINH MỤC
LÉOPOLD-MICHEL CADIÈRE
(1869-1955)
Linh mục Léopold-Michel Cadière đối với dân tộc Việt Nam là một nhà thừa sai và một nhà bác học. Đối với Quảng-Bình, hai ý nghĩa đó thật đã thể hiện rõ nét, cụ thể trong cuộc đời của linh mục suốt hơn sáu mươi năm làm công tác mục vụ và nghiên cứu về đất nước Việt Nam. Tên Việt Nam của ngài là Cả, tục gọi cố Cả.
Georges Coedès, một nhà nhân chủng học có tiếng thế giới, khi nhận
định về giá trị các công trình nghiên cứu khoa học của Léopold-Michel
Cadière, đã viết rằng: “Công trình khoa học của cha Cadière không
những có giá trị vì chứa đựng một kho tàng gồm có các sự kiện xã hội
quan sát chính xác để cống hiến cho các nhà khảo cứu. Công trình ấy
có giá trị như một gương mẫu khách quan hoàn toàn mà một nhà quan
sát vô tư và bất vụ lợi có thể đạt tới được trong khi nghiên cứu một
nhóm người thuộc một thế giới khác, bẩm sinh một tinh thần khác,
theo một tôn giáo khác.” 1
Linh mục Léopold-Michel Cadière sinh ngày 14-2-1869 tại
Sainte-Anne-des-Pinchinats, gần Aix-en-Provence vùng cửa sông Rhône
đông nam nước Pháp. Thuở nhỏ cậu bé Cadière học trường làng rồi sau
chuyển lên Aix học trường trung học Bourbon, vào chủng viện Aix do
các giáo sư Hội Xuân-Bích (St. Sulpice) dạy. Trong hồi ký
Souvenirs d’un vieil annamitisant, linh mục rất cảm phục các
công trình nghiên cứu của các linh mục Tu hội Saint Sulpice và cho
biết “dưới sự hướng dẫn của các bậc thầy thông minh, tôi đã đọc
ngấu nghiến tác phẩm của các ngài và một ngày kia muốn trở nên như
các ngài vậy.” 2 Ngài thọ phong linh mục ngày
4-9-1892, lúc 23 tuổi, và lên đường sang Việt Nam ngày 26-10-1892.
Được Đức cha Caspar bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu chủng viện An Ninh, ở
Đất Đỏ, Cửa Tùng, Quảng Trị tháng 1-1893, linh mục Cadière phụ trách
môn Tu từ học và Triết học, và sau đó ngài được giao cho dạy Thần
học tại Đại chủng viện Huế. Về sau linh mục Cadière được bổ nhiệm
làm cha sở tạm giáo xứ Tam-Tòa, một họ đạo nằm giữa tỉnh lỵ và năm
xóm (hameaux) với hơn một nghìn giáo hữu bên bờ sông Nhật Lệ, xây
dựng trên một phần đất của Lũy Thầy, nơi có rất nhiều di tích lịch
sử để lại cũng là yếu tố khiến linh mục Cadière phải chú tâm. Theo
Louis Malleret, cách giáo xứ Tam Tòa vài cây số có một tấm bia ghi
lại các biến cố chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã cung
cấp cho cha Cadière một đề tài để nghiên cứu, và công trình đó đã
được Viện Khoa Học Pháp (L’Institut de France) khen thưởng năm 1903
và ấn hành trong Tập san Trường Viễn Đông Bác cổ (Bulletin
de l’École francaise d’Extrême-Orient) năm 1906. Đây là công trình
nghiên cứu lịch sử đầu tay của Cadière đã được đánh giá cao. 3
Sau khi ở xứ đạo Tam Tòa được một năm, tháng 10 năm 1896 linh mục
Cadière được thuyên chuyển đến Cù Lạc là một vùng thuộc tổng Cao
Lao, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng-Bình, nằm trên hữu ngạn nguồn Son (sông
Gianh). Cù Lạc là một xứ đạo ở phía bắc địa phận Huế, là một vùng
toàn rừng rậm và núi đá vôi, cả một vùng rộng lớn hầu như chưa có
dấu tích khai phá. Chính nơi đây linh mục Cadière đã có dip phát
hiện được những liên hệ rất chặt chẽ giữa tiếng Mường với một thứ
tiếng mà linh mục De Rhodes đã biết đến ở Bắc Kỳ trong thế kỷ XVII.
Linh mục Cadière cũng còn nhận thấy các phong tục và truyền thống ở
Cù Lạc cũng là những chất liệu để giúp cho người thực hiện các công
trình biên khảo về ngữ học và dân tộc học. Ngoài ra thứ tiếng Việt
mà linh mục đã học để nói và viết trước đó đều làthứ tiếng Việt
trong những cuốn kinh sách có ngữ pháp mô phỏng theo tiếng Pháp hay
tiếng La-tinh 4 hoàn toàn khác với thứ tiếng ngoài dân
gian. Do đó linh mục đã tìm mọi cơ hội đi ra ngoài dân chúng để học
thứ tiếng Việt đó từ những người bán hàng rong, người tiều phu, dân
làm ruộng v.v... và quyết công tìm ra những bí mật của thứ ngôn ngữ
dân gian đó.
Trong bài báo Đọc cuốn “Syntaxe de la langue Vietnamiennne”
đăng trên Tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế, Giáo sư
Trương Văn Chình, một nhà ngữ học Việt Nam, đã viết rằng: “Linh
mục Cadière cũng như nhiều nhà nghiên-cứu ngữ-pháp Việt-Nam, chẳng
hạn như ông Trần Trọng Kim, hay gần đây như giáo sư Honey, nhận định
rằng không thể rập theo ngữ-pháp Pháp mà viết ngữ-pháp Việt-Nam...
Nghiên cứu ngữ-pháp Việt-Nam, linh-mục Cadière lấy tài liệu ở ngôn
ngữ hàng ngày hoặc của người có học (gens lettrés) hoặc của người
thất học (gens sans culture), chứ không căn cứ vào văn chương cổ vì
văn chương cổ có nhiều từ ngữ Hán-Việt. Tuy thế, linh mục nhận định
rất đúng dù rằng văn-chương hay ngôn-ngữ thông thường, thì tiếng
Việt cũng theo cùng một ngữ pháp.” 5
Nhờ sống ở giáo xứ Cù Lạc vốn trải dài trên nhiều cây số, cha
Cadière phải đi lại thường xuyên trong các cuộc viếng thăm giáo dân
ở những vùng chưa có ai bước chân tới và điều đó đã kích thích tính
hiếu kỳ nơi ông. Qua các chuyến hành trình vất vả đó, linh mục
Cadière đã khám phá động Phong-Nha nổi tiếng, ghi chú lại các dấu
tích kỷ niệm về văn minh Chàm, tìm ra các giống thực vật lạ hiếm,
khoái tìm hiểu dân Tắc-Củi vốn là tộc người còn rất mọi rợ với cuộc
sống bí hiểm mà nhiều người cho là như giống dân Pygmées. Chính là
tại Cù Lạc mà linh mục đã quen biết với Louis Finot, vị giám đốc đầu
tiên của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1901, vì lý do sức khỏe, sau 6
năm sống tại Cù Lạc, linh mục đã đi tĩnh dưỡng ở Hồng Kông. Xứ đạo
Cù Lạc được cắt ra làm hai gồm xứ Bồ-Khê và Cù-Lạc. Khi đi Hồng Kông
về, linh mục Cadière được bổ làm cha xứ Bồ-Khê tức xã Thanh-Trạch,
trên hữu ngạn sông Gianh sát bờ bể. Ông ở đó hai năm và sau đó được
bổ làm cha xứ Cổ Vưu (Quảng Trị) kiêm hạt trưởng Hạt Dinh Cát. Trong
sách Sông Gianh Đàng Trong, Giáo Hạt Quảng Bình 1615-1975,
các tác giả Nguyễn Thế Hùng, Hoàng Đình Hiếu cho biết linh mục
Léopold Cadière có làm cha xứ Mỹ-Hòa. Chúng tôi đã có dịp thảo luận
lại với ông Hoàng Đình Hiếu và luận đoán rằng có lẽ giáo xứ Mỹ Hòa
là một trong nhiều họ đạo được Linh mục Cadière kiêm nhiệm, và vì
Mỹ-Hòa chỉ cách Bồ-Khê dòng sông Gianh nên đó là nơi linh mục
Cadière hay đến làm công việc mục vụ, nghiên cứu lịch sử và văn hóa
dân gian 6.
Một điều cần
chú ý là những nơi linh mục Cadière được bổ nhiệm đến hầu hết là
những nơi có ít nhiều dấu tích lịch sử, chẳng hạn như ở Dinh Cát vốn
là nơi khởi đầu bước chân của Nguyễn Hoàng khi ông được Trịnh Kiểm
cho vào trấn đất Thuận Hóa năm 1558 theo lời khuyên bí mật của
Nguyễn Bỉnh Khiêm với câu nói để đời “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại
dung thân...” , nơi đạo Công Giáo đã đi vào xứ An Nam với những
người Công Giáo thuần thành tiên khởi đã có tiếng trong lịch sử như
Minh Đức Vương Thái Phi, vợ của Nguyễn Hoàng và nơi còn để lại nhiều
dấu tích của người Chhăm-pa như ở Trung Đơn (Hải Lăng), Dương Lệ (Triệu
Phong)...
Cuối năm
1910, sau gần bảy năm làm mục vụ ở Cổ Vưu, xây nhà thờ, mở trường
học, chăm sóc giáo dân, dạy dỗ trẻ em, linh mục cảm thấy sức khỏe
suy sụp nên đã xin phép bề trên và được về nghỉ sức tại Pháp. Nhân
chuyến này, ông tìm được các tài liệu bản thảo gốc cuốn từ điển của
giáo sĩ Alexandre de Rhodes tại Rôma, thư từ trao đổi giữa chúa
Nguyễn Ánh với các sĩ quan Pháp qua giúp ông ở Gia Định vào cuối thế
kỷ XVIII. Từ năm 1913 đến 1918, sau khi trở về Huế, cha Cadière được
Đức Cha Allys (Lý) cử làm tuyên úy trường Pellerin và chính trong
thời này ngài đã cộng tác với một số các nhà trí thức Pháp ở Huế
thành lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ, ấn hành tập san Đô Thành Hiếu Cổ
(Bulletin Des Amis Du Vieux Hué). Tháng 9 năm 1918 cha Cadière
được bổ làm cha sở giáo xứ Di Loan, trong thời gian này ngài được cử
làm Hội viên Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Di Loan là nơi, năm 1849,
Giám mục Pellerin đã lập một chủng viện tọa lạc ở trung tâm làng Di
Loan, tứ phía rừng tre bao bọc để bảo đảm an toàn cho chủng viện. Hệ
thống báo động được tổ chức chặt chẽ dựa vào sự che chở của giáo dân.
Ở Di Loan, linh mục Cadière đã để công sưu tầm được rất nhiều loại
thực vật và chính ngài đã gửi những loại cây mẫu về cho Bảo tàng
lịch sử thiên nhiên ở Paris. Năm 1928 ngài về Pháp chữa bệnh tim và
năm 1930 trở lại tiếp tục công tác mục vụ ở Di Loan.
Chính linh
mục Cadière là người phụ trách Tạp chí Sacerdos Indosinensis (Linh
Mục Đông Dương) là cơ quan ngôn luận của giáo sĩ Việt-Nam. Sự
thông minh uyên bác và tinh thần tích cực hoạt động của linh mục đã
biến ngài trở nên hội viên nồng cốt của một số hiệp hội khoa học lúc
bấy giờ như Hội Viễn Đông Bác Cổ, Hội Ngôn Ngữ Á Châu, Hội Địa lý
học Hà Nội, Hội Bách Thảo Paris, Hàn Lâm Viện Axix, Hàn Lâm Viện
Khoa Học Thuộc Địa, Hội Giáo dục Tinh thần và Luân lý Việt Nam, Hội
Thuần dưỡng Paris, Hội Đông Dương Học Sài Gòn, Hội viên Trường Nhân
chủng học Đông Dương v.v... Chính Louis Malleret khẳng định rằng
linh mục Cadière là người sáng lập thực sự của ngành thiểu số học ở
Việt Nam và trong lãnh vực này ngài không bao giờ trở thành lỗi thời.
7
Sau biến cố
Nhật đảo chánh 9-3-1945, ngài bị Nhật quản thúc ở Huế và sau cuộc
kháng chiến toàn quốc 19-12-1946, ngài bị chính quyền Việt Minh bắt
cùng với 6 linh mục Pháp khác ra giam giữ tại Cầu Rầm (Vinh). Cuộc
vây bắt linh mục Cadière tại giáo xứ Di-Loan diễn ra quyết liệt giữa
công an Việt Minh và giáo dân vì giáo dân ở đây rất thương mến ngài
nên đắp ụ đường chận xe công an từ phủ Vĩnh Linh xuống, kéo chuông
nhà thờ, và đánh mõ, đánh trống huy động nhau ra ngăn cản và đã đánh
trả quyết liệt với công an suốt ba lần tấn công vào giáo xứ, thật
đúng với câu ca dao sau đây:
“ Văn chương Xuân-Mị,
Lý sự
Thị-Khê,
Làm thuê
Cam-Phổ,
Ổ lỗ
(truồng) làng Tùng,
Anh hùng
Di-Loan.”
Một viên công
an VM đeo súng lục, đi xe Traction màu đen có lẽ tịch thu được của
người Pháp, chỉ huy cuộc vây bắt này. Trước khi cha Cadière bị bắt,
ngài đã viết giấy để lại cho Dòng Thiên-An Huế toàn bộ sách vở của
ngài tại Di-Loan, và khi Dòng này đưa ghe ra chở, giáo dân phải dùng
xe bò chở sách từ nhà xứ xuống ghe đậu ngoài biển cửa Tùng mất đến
ba ngày. Ngày 13-6-1953, cha được chính phủ Việt Minh trả tự do và
ngài tình nguyện xin về lại giáo phận Huế. Chính phủ Việt Minh đưa
ngài từ Quảng Bình vào Huế cùng với 14 linh mục ngoại quốc còn sống.
Linh mục Cadière lưu lại tại Huế và mất ngày 10-7-1955, thọ 86 tuổi,
an táng tại nghĩa trang Đại chủng viện Huế. 8
Trong thời
gian còn bị Việt Minh quản chế ở Vinh, linh mục Cadière đã viết như
sau: “Tôi đã hiểu người Việt vì tôi nghiên cứu những gì liên quan
đến họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng Việt ngay từ khi mới đến đây và tôi
hiện nay vẫn nghiên cứu (...) Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng lễ nghi
tôn giáo, phong tục người Việt, tôi yêu mến người Việt. Tôi yêu mến
người Việt vì họ thông minh xuất sắc và tinh thần linh lợi (...) Tôi
yêu mến người Việt cũng vì họ trải qua nhiều đau khổ.” 9
Trong Hồi ký , linh mục Cadière đã viết những câu rất cảm
động: “Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi những năm tháng thoát khỏi mọi
công việc để chuyên tâm cầu nguyện.” 10
Đó là cô đọng
những lời tâm huyết mà linh mục Cadière sau thời gian 63 năm chung
sống với người Việt đã quyết định gửi nắm xương tàn của ông ở lại
Việt Nam cùng với tất cả cốt lỏi tinh hoa trong tinh thần của mình
trải rộng qua biết bao tác phẩm và công trình nghiên cứu về Việt
Nam, đặc biệt về ba tỉnh Bình Trị Thiên và Miền Trung mà ông đã bỏ
công nghiên cứu và viết ra trên giấy trắng mực đen.
Một nhân
chứng người giáo xứ Di Loan, ông Hoàng Hữu Hiền hiện sống tại New
Jersey cho biết năm 1955 có gặp lại linh mục Cadière tại Tòa Giám
Mục Huế (Nhà Chung) và lúc bấy giờ lưng ngài còng hẳn xuống, thấp
lại, bận một bộ bà ba nâu của dân quê xứ Nghệ Tĩnh.
Có lẽ Tam Tòa
nói riêng và đất Quảng Bình nói chung đã cho linh mục Cadière những
dữ kiện tiên khởi để ông bắt đầu để tâm nghiên cứu ngôn ngữ và lịch
sử Việt Nam. Nhờ nhận thấy trong tiếng Việt có những phương ngữ khác
với thứ ngôn ngữ trong sách vở mình đã học trước kia nên linh mục đã
viết được công trình Ngữ âm học Việt Nam gồm 2 cuốn: “Phương
ngữ thượng du Trung Kỳ” xuất bản năm 1902, dày 113 trang, và “Phương
ngữ trung du Trung Kỳ”xuất bản năm 1911, dày 44 trang. Chính
Cadière cũng quan tâm đến ngôn ngữ Mường vùng thượng nguồn sông
Gianh và là người đầu tiên nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi giữa
tiếng Mường với tiếng Việt vùng bắc Trung Kỳ 11.
(Phonétique annamite: dialecte du Haut-Annam, trong những tác
phẩm đã xuất bản của Trường Viễn Đông Bác Cổ Vol. III. Paris
Imprimerie Nationale, Ernest Leroux, rue Bonaparte, 28, 1902).
Theo Giáo sư
Trương Văn Chình, “Linh mục Cadière phân biệt tiếng Bắc, tiếng
Trung và tiếng Nam, và những tỉ dụ trong sách phần nhiều là tiếng
Quảng Bình, nên ông đã định đặt tên sách là Syntaxe de la langue
annamite suivant le dialecte du Haut-Annam (ngữ pháp Việt
Nam theo thổ ngữ miền Bắc Trung-Việt) . Nhưng linh mục nhận
ra rằng tiếng nói ba miền chỉ có rất ít từ ngữ thông thường khác
nhau, nên không hại gì đến nền duy nhất của tiếng Việt, mà ngữ-pháp
từ Bắc chí Nam, đâu cũng như nhau. Vậy người soạn ngữ-pháp Việt-Nam,
có thể lấy tài liệu ở bất cứ một nơi nào trên đất Việt. Điều này,
linh mục nhận định cũng rất đúng. Người Việt-Nam dù có tiếng phát âm
khác nhau, dù có nơi dùng một số thổ ngữ, nhưng hễ cấu tạo tiếng nói
thành câu, thì đâu đâu cũng phải theo cùng một ngữ-pháp.”
12
Tính từ năm
1898 khi linh mục Cadière đặt bút viết lá thư đề ngày 13-01-1898 nói
về trận đói ở Quảng Bình gửi cho Tập san Missions Catholiques,
Lyon 1898 cho đến năm 1955, trong vòng 57 năm, có cả thảy 245
tác phẩm của ngài được viết ra và ấn hành gồm rất nhiều sách, tập
tham luận, bài nghiên cứu, bài sưu khảo từ l;ịch sử đến địa lý, địa
lý học lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, khoa học tự nhiên, văn
học và kiến thức tổng quát.
Riêng về tỉnh
Quảng-Bình, linh mục Cadière đã viết khoảng 17 quyển sách và tập
tham luận, bài nghiên cứu trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng là
Le mur de Dông-Hới, Les lieux historiques du Quang-Binh, Phonétique
annamite: dialecte du Haut-Annam, Coutumess populaires de la vallée
du Ngiồn-Son, Géographie historique du Quang-Binh, Les Fougères du
Quang-Binh v.v...
Có lẽ trong
số những người viết về Quảng Bình nhiều người cảm thấy thân thiết,
gần gũi với làng mạc ở đây, nhưng ít ai bằng linh mục Cadière khi
chúng ta có cơ hội đọc lại những tác phẩm của ông như Les lieux
historiques du Quang-Binh hay Le mur de Dong-Hoi. Cây đa
đầu làng là một hình ảnh rất quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam,
nhất là ở Quảng Bình cho nên đó cũng là hình ảnh ghi nhận rõ nét
dưới ngòi bút của Cadière. Ông gọi các làng như làng Trung-Bính nay
thuộc xã Bảo-Ninh là “làng của những cây đa” (village des
banians). 13
Gốc tích của
một làng, như làng Hữu Cung ở gần thị xã Đồng-Hới chẳng hạn, cũng
được linh mục Cadière viết lại tương đối rõ ràng, có thể giúp cho
giới nghiên cứu sử học sau này nhiều thẩm định chính xác, lợi ích: “(...)
Trước khi đi đến Đồng Hới, cần phải chỉ ra một địa điểm quân sự hình
thành ra cái làng hiện nay, đó là làng Hữu Cung. Những địa điểm quân
sự này, ít thấy ở phần phía bắc Quảng Bình, nhưng rất nhiều ở miền
nam tỉnh này, ví dụ như làng Dinh Ngói mà chúng ta đã thấy. Địa danh
của nó tự giải nghĩa cho nó. Những đồn lũy rải rác trên lãnh thổ
Quảng Bình trước đây có nguồn gốc do những binh lính canh giữ một
con đường hay một vị trí chiến lược, hoặc nhằm đẩy lùi những trận
tấn công đầu tiên của đối phương. Về sau, tôi không hiểu chính xác
niên đại nào nhưng chắc chắn là vào thời Gia Long hoặc sau này Minh
Mạng, những binh lính giải ngũ định cư lập ấp thì đất đai thường
thường cắt xén của những làng xã chung quanh, đôi khi làm rối tung
lên một cách thô bạo đối với những đất đai bao gồm dồn trại của họ
trước đó. Những làng xóm này thường giữ nguyên, hoặc sửa đổi đôi
chút, tên các đơn vị thuyền, hoặc đội, hoặc cơ, cấu thành từ trước
(...). Ngôi làng Hữu Cung, xưa kia còn gọi là Hữu Cai, thổ ngữ biến
thành Hồ Cai, nguyên do thuyền cùng tên, đóng quân trên đất làng Phú
Xá. Từ những điểm cao ấy mà bao quát cả cánh đồng lớn của Đồng Hới
và những gò đồi cao nguyên trải dài ở phía bắc, người ta có thể canh
chừng được sự đột nhập của đối phương, kháng cự với đội tiên phong
của họ khi cần thiết.” 14
Một số chiến
lũy dưới thời Trịnh Nguyễn ngày trước cũng được linh mục Cadière
khôi phục lại: “... Sách địa lý An Nam còn ghi chú rằng ở phía
nam đồn Sa Phụ có một bức lũy dài chạy theo bờ biển đến làng Liêm
Luật hiện nay còn nằm ở khoảng cửa sông Nhật Lệ và cửa sông Minh
Linh, tức Cửa Tùng. Lũy này được gọi là lũy Trường Sa.” 15
Đối với linh
mục Cadière, một góc thành, một khoảnh phế lũy trên đất nước Quảng
Bình đều là dấu tích của lịch sử, và ông trân trọng đưa vào trong
sách vở với những ghi chú đầy đủ và phân tích thận trọng. Trong tác
phẩm Les lieux historiques du Quang-Binh, ông viết về Thành
Lồi ở Mỹ Thổ, chùa Phật ở làng Uẩn-Áo, các di tích Dinh Mười và Dinh
Mới, các làng Võ Xá, Thạch Xá v.v... 16
Những dữ kiện
linh mục Cadière thu lượm được góp lại trong một số các ông trình
sưu khảo về lịch sử trên đất nước Quảng-Bình nói chung đã giúp cho
người đọc có dịp nhận định lại những điều do các sử sách trước đây
đã viết, đối chiếu, suy luận để tiếp cận với sự thật lịch sử nhiều
hơn.
Chính linh
mục Cadière cũng cho một khái niệm khác biệt về đường biên giới phân
chia Đàng Trong với Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Nguyễn, không đơn
thuần là một con sông như sông Gianh mà là cả vùng thung lũng sông
Gianh. 17
Ngoài ra,
linh mục Cadière cũng lưu tâm đến các hình thức tín ngưỡng dân gian
hiện cònghi lại trong sách vở của ngài. Trong tác phẩm Croyances
et pratiques religieuses des Vietnamiens, linh mục viết rằng: “Ở
tỉnh Quảng Bình, người ta tuồng như có thờ kính ông Trời. Trước mỗi
nhà, đối diện với gian nhà giành để thờ kính tổ tiên, và trong sân,
người ta trồng một trụ gỗ cao khoảng một mét đến hai mét, ở trên bày
một tấm ván nhỏ làm thành một bàn thờ. Bàn thờ ấy thường được dựng
vào chỗ đầu tiên nơi người ta muốn đặt, và có khi nhà cửa phá đi
nhưng bàn thờ vẫn còn. Các nhà giàu có thường xây một trụ bằng vôi
hồ trên một hốc tường. Trên bàn thờ luôn có một bát nhang bằng đất
cắm mấy que nhang. Theo một vị tú tài ở làng Đặng-Đề thuộc tỉnh
Quảng-Bình, người ta thờ ở đó Cửu Thiên Huyền Nữ. Người ta dâng đồ
chúng ở đó cũng như ở trong nhà vào đêm giao thừa, ngày mồng năm
tháng năm, ngày mười lăm tháng chín, và ngày rằm mỗi tháng. Tôi cho
rằng, qua những tập tục lễ bái đó, dưới ảnh hưởng của Lão giáo,
người ta muốn bày tỏ niềm tin đơn thuần của họ vào các vị thần linh
hay vào ông Trời...” 18
Các truyền
thuyết dân gian như chú Cuội, cũng được linh mục ghi lại qua các câu
ca dao nghe được ở Quảng Bình:
Thằng móc
thằng mách,
đứng trửa
mặt trăng,
cầm rừa
cầm rạ
đốn săng
kiền kiền,
làm nốc
làm thuyền,
cho thuê
cho mượn,
té tiền
mua ăn.
19
Điệu hát ru
con sau đây ở Quảng Bình cũng không thoát khỏi sự chú ý của linh mục
Cadière:
Xít tù và
!
Qua năm
mới.- tới năm cũ;
Đào lỗ mà
chôn, - Con chồn nhảy ra;
Con ma
nhảy lại, - Mu Đại đạp đi;
Mụ Nhị mần
thịt;- Mụ Chịt nấu ăn !
20
Những hòn đá
thiêng được gọi là Bụt mà linh mục Cadière đã gặp được ở Ròn,
vùng bắc Quảng Bình, hay không xa chỗ đó có một nơi gọi là Mả Cô
(le tombeau de la demoiselle) hoặc tảng đá Quán Bụt
(Auberges du Buddha) ở làng Thủy-liên-hạ tục gọi Sen-hạ ở huyện Lệ
Thủy, những chuyện ma và các tập tục mê tín của vùng thung lũng
nguồn Son – sông Gianh, những câu hát đồng dao do các trẻ mục đồng
cất lên trong buổi chiều lùa trâu về chuồng như:
Mê bẹ mê
mê !
Con đi dọi
mạ,
Cá đi dọi
bầy.
Chớ lạc
bầy ai,
Ăn ló ăn
khoai !
Chặt tlốc
chặt tai,
Vày vô nồi
hai,
Tiêu hành
nác mắm !
Mê bẹ mê
mê !
21
vốn là những
tư liệu văn hóa dân tộc đầy ắp trong các sách vở của linh mục ghi
lại, và cần thiết biết bao cho những ai muốn tìm về cội nguồn của
đất nước thân yêu.
Thật ra tấm lòng của linh mục Cadière không chỉ dàn trải với non
sông Quảng Bình mà còn bao quát khắp mọi vùng đất nước Việt Nam. Tác
phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, sâu sắc, uyên bác trong từng
chủ đề, từng lãnh vực tri thức, có giá trị không những nhiều thập kỷ
trước đây mà còn mãi cho tới bây giờ.
Ngày nay, đã có những nhận định về linh mục Léopold-Michel Cadière
được viết ra ở trong nước cũng như ở hải ngoại, một việc làm rất
đáng hoan nghênh để vinh danh những công lao vô giá của linh mục
Cadière đối với nền văn hóa Việt Nam.
Trên tuần báo Công Giáo và Dân Tộc (số 854, ngày 26.4.1992),
Võ Xuân Trang có viết một bài tựa đề “Léopold Cadière, một linh
mục, một nhà khoa học, một con người gắn bó với Huế”, với đoạn
kết rằng: “Một số tài liệu di khảo chưa công bố, linh mục đã trối
lại cho Dòng Thiên An cất giữ để hậu thế sử dụng, nhưng tiếc thay
năm 1968 bom Mỹ đã đánh trúng thư viện Dòng Thiên An (...)”
22
Trong bài “Tưởng nhớ nhà Huế học quá cố Léopold Cadière” đăng
trong báo Lao Động (số 75/94 4016) ra ngày 23.6.1994, Nguyễn
Đắc Xuân đã viết: “Huế đã được công nhận di sản thế giới. Để có
được sự công nhận ấy một thế kỷ qua, nhiều nhà Huế học, nhà văn, nhà
nghiên cứu đã đóng góp biết bao công trình để giới thiệu Huế với thế
giới. Người được tôn là bậc thầy trong công việc này là Léopold
Cadière (...) Duy có “một điều lạ” là không có mấy người biết về
cuộc đời Léopold Cadière. Nguyên nhân vì đức khiêm tốn, lúc sinh
thời ông cho rằng những gì nói về ông là không cần thiết.”
23
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 6 năm 1995, cơ quan của Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam, dưới bài viết nhan đề “Linh mục Cadière,
một trong những người mở đầu môn Việt Nam học”, Đào Hùng đã tổng
kết rằng: “Có thể nói tư tưởng của linh mục Cadière đã mở đường
cho những người nghiên cứu Việt Nam đầu thế kỷ. Cuộc đời và sự
nghiệp của ông đáng cho tất cả những ai quan tâm đến môn Việt Nam
học, dù là người Việt hay người nước ngoài, phải kính cẩn suy ngẫm.
Ông đã đem lại những hiểu biết sâu sắc về dân tộc Việt Nam, một dân
tộc mà nhiều nhà nghiên cứu trước đây từng nghĩ rằng đã hoàn toàn
Hán hóa, không có cá tính...” 24
Trong một tác phẩm có tên Nhân vật giáo phận Huế, Lê Ngọc
Bích đã dành 14 trang sách lớn để viết về linh mục Léopold-Michel
Cadière với những nghiên cứu chi tiết và giá trị để thiết lập một
bản tiểu sử khá đầy đủ về linh mục Cadière. Trong phần kết luận, Lê
Ngọc Bích đã viết rằng: “Léopold Cadière, một con người suốt đời
gắn bó với Huế, nhà Huế học kiệt xuất bậc thầy, nhà Việt Nam học.
Công lao của Cadière trong việc nghiên cứu về Huế hẳn nhiên nhiều
người công nhận và trân trọng. Tuy nhiên, có một điều lạ là Huế chưa
có con đường nào được mang tên Léopold Cadière, con người đã giới
thiệu Huế với Thế giới.” 25
Trên Tập san Định Hướng số 31 ra Mùa Hè năm 2002, Nguyễn Lý
Tưởng đã viết một bài nhan đề “Léopold-Michel Cadière và những
công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam”. Mở đầu bài viết này,
Nguyễn Lý Tưởng cho biết một chi tiết khá đặc thù như sau: “Trước
năm 1945, xe lửa chạy suốt Sài Gòn ra Hà Nội theo thông lệ, chỉ dừng
lại ở các ga lớn của các thành phố, tỉnh lỵ quan trọng chứ không
ngừng ở các trạm nhỏ. Nhưng có một làng nằm giữa đoạn đường Đông Hà
(Quảng Trị) và Đồng Hới (Quảng Bình) là làng Di Loan, thuộc phủ Vĩnh
Linh, tỉnh Quảng Trị, đã được Toàn Quyền Đông Dương cho phép thiết
lập một ga tạm nhỏ và xe lửa chạy suốt bắt buộc phải dừng lại đó
trong 5 phút để cho một nhà thông thái. một nhà văn hóa kiêm sử gia
và cũng là nhà ngôn ngữ học, bước lên tàu để ra Hà Nội họp tại
trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Extrême-Orient) hàng
tháng: Đó là linh mục Léopold-Michel Cadière thường gọi là Cố Cả.”
26 Bài viết của Nguyễn Lý Tưởng cô đọng tất cả
những nét chính trong công tác mục vụ và sự nghiệp văn hóa của linh
mục Cadière trong suốt 57 năm sống trên đất Việt Nam.
Trong tập san “Pháp-Á” (France-Asie) số 112 tháng 5 năm 1955,
Maurice Durand viết về linh mục Cadière rằng: “Những công cuộc
khảo cứu của ngàichỉ là một phương tiện để tìm hiểu và yêu mến những
linh hồn mà ngài có bổn phận chăn dắt.” 27
Một linh mục Dòng Tên, Bernard Maitre đã ghi lại vài nét về quan
điểm của cha Cadière khi sống và tiếp xúc với hàng giáo sĩ Việt Nam
trong cuộc đời truyền giáo của ngài: “Khi tôi tiếp nhận một vị
linh mục Việt Nam, tôi nói với vị ấy: Hỡi cha thân mến, chúng ta sẽ
chung sống năm hạoc sáu năm, chúng ta không muốn mà sẽ cùng nhau đau
khổ, chỉ vì cha là người Việt và tôi là người Pháp; chúng ta hãy cố
gắng tha thứ cho nhau những điều khốn đốn ấy, để sống cho bằng an.
Thật thế, linh mục truyền giáo sống giữa một dân tộc khác hẳn về
ngôn ngữ, phong tục, tư tưởng không phải là không đau khổ về tinh
thần, không phải là không đau khổ nhiều. Nhưng những niềm đau khổ
hằng ngày ấy, lâu rồi ta cũng quen đi. Có một niềm đau khổ khó lòng
mà quên được, ấy là khi lòng hăng hái của ta bị tê liệt, khi nmhững
cố gắng của ta trở nên vô hiệu vì thiếu thốn phương kế.” 28
Đối với các chế độ mà ông phải sống và tiếp xúc với dân chúng trong
đó để hoàn tất các nhiệm vụ tôn giáo và tâm linh của mình, linh mục
Léopold-Michel Cadière cũng đã có những ý hướng rõ ràng được bày tỏ
lại qua nhận xét của Bernard Maitre, như sau: “Rất kín đáo đối
với các chính quyền được thiết lập, ngài [Cadière] đã tự nêu gương
chứng minh rằng một vị linh mục truyền giáo có thể bảo toàn phẩm
cách dưới bất cứ chế độ nào, đôi khi lại biết giúp chế độ đó nhận
thức một vài thực tại mà linh mục có thể cảm nhận sâu sắc nhờ có dịp
gần gũi người đời. Như ta đã thấy điều đó cũng không hề ngăn trở
linh mục cương quyết đứng trong cương vị bênh vực hơn nữa phục hồi
mọi giá trị thật sự của các văn hóa cổ truyền, trong công việc này,
đứng trong cương vị thừa kế của Giáo hội.” 29
Năm 1992, cơ quan Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Paris đã cho in lại rất
nhiều tác phẩm của linh mục Léopold-Michel Cadière, trong đó có bộ
Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens của ngài
gồm ba tập hơn 850 trang sách khổ lớn, mà qua đó linh mục đã gửi gắm
tất cả những công sức trí tuệ của ngài. Georges Coedès, một học giả
mà những công trình nghiên cứu của ông về Đông Dương được đánh giá
là rất có giá trị cho nhiều thế hệ, có lẽ là người cũng đã từng cộng
tác với linh mục trong một số lãnh vực nghiên cứu, đã viết rằng: “Tôi
tin rằng không hề gặp một lần nào ngài viết một từ có vẻ miệt thị là
từ “ngoại giáo” để chỉ những người mà ngài mô tả các tín ngưỡng tôn
giáo và các nghi thức thần bí. Nếu đối với vị linh mục truyền giáo,
người Việt Nam chưa chịu phép thánh tẩy theo đúng nghĩa là người
ngoại giáo, thì đối với nhà xã hội học, họ là những người bẩm sinh
có phẩm cách nhân vị mà mọi người Kitô hữu tôn trọng, không phân
biệt màu da, tín ngưỡng.” 30