Nguyễn Phú Thứ
Được biết, vua Tự-Đức (1847-1883), là con thứ hai của Vua Thiệu-Trị
và Bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi nhằm
ngày 17 tháng 7 năm 1883, trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.Vua Tự-Đức là vị
vua thông minh, hiền lành, hiếu học, siêng năng và rất hiếu thảo với
mẹ, được nhắc nhở như sau:
Trải qua 36 năm làm Vua trên ngai vàng, lúc nào cũng dành ngày chẵn
vào cung để vấn an sức khỏe mẹ, đồng thời nghe lời truyền bảo của mẹ,
nếu có điều gì quan trọng đáng lưu tâm thì ghi ngay vào quyển sổ tùy
thân mà nghiền ngẫm. Đó là, quyển sổ từ huấn lục (tức quyển sổ chép
lời mẹ dạy). Xem thế, đủ biết Vua Tự-Đức thờ mẹ rất chí hiếu bực
nào.
Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm được lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ,
trong lãnh thổ này có quê hương của Bà Từ Dũ, làm cho nhà Vua rất tức
giận và trút hết tội tình lên một vị quan văn trung-thần ái quốc là
Ông Phan-Thanh-Giản, mà không xét lỗi mình là Ông Vua của một nước
có quân, có quyền trong tay và lại có hành-xử chủ hòa với giặc Pháp?
...
Như thế, ở đời chúng ta nên: "Xét lỗi mình trước khi xét lỗi người"
có vậy mới thấy trung thực của mọi vấn đề. Đó là bài học đáng quý vậy!
Khi nhắc đến Ông Phan Thanh Giản, không thể tạm ngưng ở đây, để tìm
hiểu thêm, xin trích dẫn quyển Tìm Hiểu Các Danh Nhân của Nguyễn Phú
Thứ từ trang 65 đến trang 84 như sau :
Ông Phan-Thanh-Giản, có tên chữ là Tịnh Bá và Đạm, hiệu là
Lương-Khê, biệt hiệu là Mai-Xuyên, sinh vào giờ Thìn, ngày 12, tháng
10 thuộc Hợi, năm Bính Thìn tức năm 1796 dương-lịch, thuộc đời vua Cảnh-Thịnh
Nguyễn-Quảng-Toản (1792-1802). Con của Ông Phan-Thanh-Xáng, tự
Văn-Ngạn, hiệu Mai-Thư tiên sinh, rất giỏi chữ nho, đến Vĩnh Long
làm thơ lại cho Nam triều, thưòng lãnh nhiệm-vụ tãi lương-thực về Huế.
Và con của Bà Lâm-Thị-Phần (có sách nói tên Lâm-Thị-Bút, người huyện
Bảo-An). Ông nội của Ông Phan-Thanh-Giản là Ông Phan-Thanh-Tập tự
Đào-Ấn hiệu Ngẫu-Cư tiên sinh và Bà nội là Bà Huỳnh-Thị-Học. Tổ tiên
Ông là người Trung-Hoa đến cuối đời nhà Minh mới sang nước Việt-Nam,
trước ở Bình-Định, đến lúc Tây-Sơn nổi dậy, thân sinh Ông chạy xuống
Định-Tường, rồi đến xã Bảo-Thạnh, quận Bảo-An,Tỉnh Bến-Tre (Kiến-Hòa
trước kia).Lúc Ông được 7 tuổi, mẹ mất sớm, được người cha gởi sang
bên ngoại ở làng Phú Ngãi, để ăn học vở lòng với nhà sư Nguyễn-Văn-Noa,
đến năm 1816 Ông theo học trường tỉnh Vĩnh-Long. Việc học-hành của
Ông lại gặp trở ngại, vì cha bị vu cáo nên bị ở tù tại Vĩnh-Long.
Ông xin ở tù thay cha, nhưng không được chấp- thuận. Các quan
thuở ấy thấy Ông nhỏ tuổi mà là một đứa con hiếu-thảo, lại có đức-hạnh
và thông-minh, nên các quan nâng-đỡ cùng khuyên Ông nên cố-gắng học-hành
để tiến thân.Năm Ất-Dậu 1825, Ông đâu Cử-Nhơn tại Gia-Định và năm
sau ra Huế thi Hội và thi Đình, Ông đậu đệ tam tiến-sĩ đầu tiên tại
Nam Kỳ (Khoa thi Hội năm 1826 có khoảng 200 cống sĩ, nhưng kết quả
chỉ có 10 người đậu, gồm : 7 người ở Bắc-Kỳ, 2 người ở Trung-Kỳ và
1 người ở Nam Kỳ là Ông được đứng vào hạng thứ 3 trong số 10 người,
cho nên được gọi Ông là "Đệ Tam Giáp Tiến Sĩ "). Sau đó, Ông cưới vợ
Cần-Giuộc, rồi được bổ-nhậm chức Biên-Tu ở Hàn-Lâm-Viện kinh đô Huế,
vài tháng sau đổi ra Quảng-Bình. Rủi thay người vợ trẻ ở Cần-Giuộc mất
sớm vì bịnh, nên Ông tục-huyền với Bà Trần-Thị-Hoạch ở Quảng-Trị, sống
chung nhau chưa bao lâu, để báo hiếu với cha, Ông cho vợ về Kiến-Hòa
để phụng dưỡng cha già. Người vợ là người đức-hạnh nên buộc lòng
hy-sinh việc "xuất giá tùng phu", nghe lời chồng, cho nên khi Ông
khi tiễn đưa vợ hiền về Nam Kỳ đã làm bài thơ kiệt-tác như sau :
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy tạc dạ có non sông,
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành lỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng,
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hởi lòng!
Lòng nầy tạc dạ có non sông,
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành lỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng,
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hởi lòng!
Riêng bà Trần-Thị-Họach, không những đồng-ý thay chồng để báo hiếu,
mà còn sẵn sàng muốn có người hầu hạ cho chồng khi bà xa vắng, nên dẫn
người tỳ thiếp tên Thịnh để giúp chồng, bị Ông quyết liệt từ khước
và bảo người tỳ thiếp trở về, Bà Thịnh cảm cái nghĩa của Ông, nên về
sau không lấy chồng, mà ở với Bà Hoạch cho tới già tại làng Bảo Thạnh,
quận Bảo-An, Tỉnh Bến-Tre. Ngoài ra, khi Ông ra làm quan không bao
giờ tỏ ra kiêu-hãnh "áo gấm về làng" bằng cách mỗi lần trở về quê
thăm lại các quan ở Vĩnh-Long, thăm các thầy, thăm các bạn lúc nào
nhã-nhặn lễ phép, không phô-trương ta đây là quan lớn ở triều-đình,
Ông mặc áo như người thường dân. Đời sống Ông rất mực-thước, giản-dị,
thanh-liêm, Ông dành nhiều thì giờ cho công-vụ và đọc-sách làm vui,
cũng vì thế trong 41 năm làm quan, ít khi trở về thăm lại quê-hương
của Ông, có lẽ vì đường sá quá xa xôi, việc nghỉ phép khó-khăn, đặc-biệt
có lần về nhà cư tang cha vào năm 1843 và ngược lại bà Hoạch cũng thỉnh-thoảng
mới ra thăm Ông tại nhiệm-sở.
Về đường quan lộ của Ông rất thăng trầm trong nhiều chức vụ qua các
lãnh vực khác nhau, trải qua 3 triều đại : Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức,
xin trích dẫn như sau : Giai-đoạn 1826-1859, Ông lận-đận, thăng-trầm
trên đường hoan lộ nhiều lần, ví như tháng 8 năm 1826 thuộc vua
Minh-Mạng thứ 6, Ông giữ chức Biên Tu ở Hàn Lâm Viện, rồi được
thăng chức Lang Trung Bộ Hình, kế đến Tham Hiệp ở Quảng-Bình,
quyền Hiệp-Trấn Nghệ- An và sau đó làm Hiệp-Trấn Quảng-Bình. Năm
sau tức 1827 Ông được về triều-đình để nhận chức Phủ-Doãn Thừa-Thiên,
Ông được vua Minh-Mạng chú-ý vì có nhận-định chánh-trị sắc-bén và
già dặn, nên ít lâu sau được thăng làm Thị-Lang Bộ Lễ tức làm việc tại Nội-Các
và kế đến lại tái nhậm chức Hiệp-Trấn Quảng-Bình lần thứ hai đến năm
1831 Ông bị thuyên-chuyển về Quảng-Nam để dẹp cuộc khởi-loạn của
dân-tộc thiểu số miền sơn cước. Cuộc chinh phạt đó, Ông gặp khó-khăn
vì là quan văn, nên xem như thất bại, cho nên Ông bị giáng chức lần
thứ nhứt. Rồi, Ông từ một thuộc viên của sứ bộ sang Hạ-Châu
(Singapore), lại thăng lên Hàn-Lâm Kiểm-Thảo Sung Nội-Các Hành-Tẩu,
đến năm 1833 được thăng Viên Ngoại-Lang Bộ Hộ, quyền ấn, Phủ Thừa-Thiên,
rồi Hồng-Lô Tự-Khanh và cuối năm này, Ông được cử làm Phó Sứ sang
Tàu, sau khi trở về được thăng chức Đại-Lý Tự-Khanh để coi việc Bộ
Hình và được sung vào Cơ-Mật-Viện Đại-Thần. Sau đó, vì nhờ tài ngoại
giao, nên Ông được khen ngợi và lãnh chức Kinh-Lược Sứ Trấn Tây (Cao-Miên),
rồi trở về sung chức Bố-Chánh Tỉnh Quảng-Nam, quyền ấn Tuần-Phủ
Quan-Phòng. Vào tháng 5 năm 1836 thuộc vua Minh-Mạng thứ 7, nhà vua
muốn ngự du Ngũ-Hành Sơn ở Quảng-Nam, Ông dâng sớ cản ngăn đại lược
như :"Nhà vua đi tuần hành, dân trong hạt chẳng vui mừng, nhưng nay
khoảng tháng 4, tháng năm mùa hạ, mùa lúa không được tốt, lại
đang lúc thời tiết cấy cày, trồng trọt, nếu dân lo cung đón nhà
vua thì được việc này, mất việc kia.Nay xin tạm đình để dân dốc sức
vào việc ruộng nương..."Lá sớ của Ông làm vua tức giận và nghi các
quan ở Quảng-Nam làm việc bê-bối, nên vua cử Ông Vũ-Duy-Tân đến điều-tra
hư thật. Ông này lại nịnh hót đặt điều nào : Dân chúng đang mong vua
đến, các quan nhũng lạm...
Vì thế, Ông bị nịnh thần dèm xiển, nên bị giáng chức nặng-nề, làm
phận sự một người quét dọn bàn ghế tại tỉnh đường Quảng-Nam và nhà
vua cũng bãi bỏ cuộc ngự du Quảng-Nam. Tuy nhiên, Ông không than
van, đến khi vua hiểu được lòng của Ông, thì được bổ nhậm chức
Đô-Sát Viện Ngự-Sử, Sung Cơ Mật-Viện Đại-Thần. Đến năm 1843 thuộc
vua Thiệu-Trị thứ 3, có một luồng khí bạch vắt ngang trời, vua xuống
chiếu cầu lời trực ngôn, Ông dâng sớ chỉ trích khéo vua và tố cáo sự
thối-nát hành-chánh địa-phương, đồng thời Ông đề-nghị biện-pháp cải-thiện,
Ông được vua Thiệu-Trị khen ngợi. Vua Tự-Đức lên ngôi bổ Ông làm
Thượng-Thơ Bộ-Lại, đến năm Tự-Đức thứ hai, Ông được cử làm Giảng
Quan ở tòa Kinh-Diên mới thiết-lập và hai năm sau được cử Ông làm
Phó Sứ Lãnh-Tuần Phủ Gia-Định kiêm chức Lãnh Đốc các đạo Vĩnh-Long
và Định-Tường, Biên Hoà, An-Giang và Hà-Tiên (Trong khi Ông Nguyễn-Tri-Phương
làm Nam Kỳ Kinh Lược Chánh Sứ). Trong chức vụ này, Ông lúc nào
cũng nghĩ đến ích nước lợi dân, nên Ông lại dâng sớ điều-trần để
cải-tổ, được vua chấp thuận và khen-ngợi. Năm 1853, Ông được gọi vể
triều để lãnh chức Hiệp-Biện Đại-Học Sĩ Lãnh Thượng Thơ Bộ Binh.
Tháng chạp năm 1856 thuộc Tự-Đức thứ 9, Ông được cử Tổng-Tài Quốc-Sử
để soạn bộ Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám Cương-Mục. Nước Pháp và Tây
Ban Nha liên minh đánh Việt-Nam, gồm 14 chiếc thuyền chở 3000 quân
dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly, ngày 24-7 năm Mậu Ngọ
1858 đến đánh Đà-Nẵng, triều đình cử Ông Nguyễn-Tri-Phương chống giữ,
quân giặc thấy khó chiếm, bèn bỏ ý định đánh Huế, quay vào Gia-Định
năm 1959 để đánh chiếm thành Gia-Định sau hai ngày giao tranh, chiếm
được hơn 80.000 ký thuốc súng, 200 khẩu đại bác và một số tiền điếu
rất lớn. Các quan bày tỏ lập-trường về việc chiến hay thủ, Ông dâng
sớ bàn đại lược như sau : "Thiên hạ đất rộng, công việc rất nhiều, ở
chỗ việc nhiều, cai trị chỗ đất rộng, cốt làm cho yên mà thôi. Theo
sức người mà dạy, không khó nhọc mà thành công, noi phép mà cai trị,
quan lại quen mà dân yên, cho nên lợi không gắp trăm thì không đổi
phép, công mà không gắp mưu thì không đổi đồ dùng. Làm cái kế ngày
nay cốt nhứt nuôi dân chăm cày cấy, nuôi lính đủ ăn, lưu ý như thế
thì sức dân được thư thả mà quân có chỗ dạy, sức đất không bỏ phí mà
lương có chỗ ra, quân giỏi, lương đủ thì như nước chảy cuồn cuộn
không hết, thì hoặc đánh hoặc giữ, không việc gì là không nên, đối
với việc dân yên nước thịnh, may ra bổ ích đôi chút ..." Vua Tự-Đức
khen rằng : "Lời nói đều có cốt yếu, bọn tân tiến không thể ví nổi,
chỉ nên thực lòng cố sức giúp trẩm, đời sau chắc có tiếng khen". Kế
đến : Ngày 25-2-1861 thành đồn Kỳ-Hòa (Chí-Hòa) thất thủ em Ông Nguyễn-Tri-Phương
là Nguyễn-Duy tử trận, ông Phạm-Thế-Hiển bị thương nặng mấy hôm sau
thì chết, riêng Ông Nguyễn-Tri-Phương cũng bị thương phải bỏ đồn rút
quân về Biên-Hòa. Ngày 12-4-1861 Page hạ thành Mỹ-Tho; ngày 9-9-1861
Đề Đốc Bonard thay Charner chiếm thành Biên-Hòa và ngày 28-3-1862
Bonard chiếm thành Vĩnh-Long. Trước tình thế nguy-ngập, vua Tự-Đức cử
Ông và Ông Lâm-Duy-Hiệp vào Nam-Kỳ để thương-thuyết hầu tìm cách cứu
vãn tình thế, cuộc thương-thuyết diễn ra tại Sài-Gòn, có Đô-Đốc
Bonard đại-diện quân Pháp và tướng Palanca đại-diện Tây-Ban-Nha (Y
Pha Nho) . Kết-quả, bắt buộc phải ký hòa-ước vào ngày 5-6 dl năm
1862 nhằm ngày 9 tháng 5 âl năm Nhâm-Tuất, quân giặc ở thế thượng
phong, gồm 12 khoản, trong đó những khoản làm cho dân-tộc chúng ta
khổ tâm như :
Khoản 3 : Nhường cho Pháp các tỉnh : Biên-Hòa,
Định-Tường, Gia-Định và đảo Côn-Nôn. Người Pháp được đi lại trên
sông ngòi Nam-Kỳ.
Khoản 5 : Người Pháp và người Tây-Ban-Nha được
buôn bán ở Đà-Nẵng, Đà-Lạt và Quảng-Yên.
Khoản 8 : Nước Đại-Nam tứcViệt-Nam phải trả 4 triệu
đồng chiến phí trong hạn 10 năm...
Hòa-ước Nhâm-Tuất ký xong, vua Tự-Đức và các triều
không hài lòng và chủ trương : "Việc nhường đất, bồi tiền như thế
không hợp lý, nhưng các điều ước mới định mà cãi nghị ngay thì họ sẽ
không đồng ý". Ngoài ra, vua Tự Đức không bắt tội Ông Phan Thanh Giản
mà còn cử Ông làm Tổng-Đốc Vĩnh-Long để từ từ thương chước để chuộc
lại lổi lầm trước kia. Tháng 11-1862 Ông Phan-Thanh-Giản yêu cầu
Pháp trả lại Vĩnh-Long, nhưng Pháp cho hay, chỉ trả lại khi nào Ông
Quản-Cơ Trương-Định thôi đánh Pháp. (Bởi vì, khoảng thời gian trước
và sau khi ký hòa-ước Nhâm-Tuất cho đến mất trọn 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ,
các sĩ phu và dân chúng thuộc 6 tỉnh (Nam Kỳ) rất uất hận nổi lên chống
cự giặc ngoại xâm, dầu biết võ khí thô sơ nhưng với lòng yêu nước nồng
nàn cao độ họ đã làm cho quân Pháp điên đảo, trong số những người cầm
đầu lúc bấy giờ có các Ông : Trương-Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn-Hữu-Huân
(Thủ-Khoa-Huân), Võ-Duy-Dương tức Thiên-Hộ-Dương, Đức Cố Quản
Trần-Văn-Thành .v.v.). Sau đó, đề cử sứ bộ sang Pháp và Tây Ban
Nha (Y Pha Nho) để xin chuộc lại gồm có : Chánh sứ toàn quyền Ông
Phan-Thanh-Giản, Phó sứ là hai Ông Phạm- Phú-Thứ và Ngụy-Khắc-Đản,
còn Ông Trương-Vĩnh-Ký làm thông ngôn. Để người Pháp giúp phương
tiện cho sứ bộ, triều đình Huế lấy cớ là để đáp lễ Pháp Hoàng đã
phái người đến chúc mừng vua Tự-Đức nhân dịp ký hòa-ước 1862. Người
Pháp bằng lòng cho mượn tàu Européen và cử Aubaret, Rieunier đi theo
hướng dẫn, nhưng phía Việt-Nam phải trả mọi phí tổn. Sau 2 tháng 7
ngày trên tàu, phái đoàn mới đến nước Pháp, được đón rước rất trọng
thể và mãi đến ngày 7-11-1863 được vào bệ kiến vua Napoléon Đệ Tam tại
điện Tuileries theo nghi lễ ngoại giao thật long trọng. Ít hôm sau,
bộ ngoại giao Pháp mời sứ bộ tới và hứa sẽ nghiên-cứu rồi sửa đổi lại
hòa-ước 1862 và sẽ ký một hòa-ước mới. Ông Phan-Thanh-Giản tuyên-bố
đại lược rằng : "Sứ bộ Việt-Nam xin chuộc 3 tỉnh Miền Đông và Việt-Nam
sẽ trả mỗi năm 2 hay 3 triệu hoặc 40 triệu một lần. Người Pháp có
quyền cư trú tại 3 hải cảng để tự do buôn bán, đồng thời Việt-Nam
nhượng cho Pháp hải cảng Sài-Gòn" Chánh Phủ Pháp chấp-thuận soạn thảo
hòa-ước mới để thay thế hòa-ước 1862 trước kia, đồng thời trao cho sứ
bộ Việt-Nam trước khi lên đường sang Tây-Ban-Nha. Bởi vì, nước Pháp
lúc đó đã thâm lủng 972 triệu quan Pháp, nên vua Napoléon lẫn Tổng-Trưởng
Tài-Chánh đều chủ trương trao lại đất choViệt-Nam để lấy tiền. Do vậy,
sứ bộ do Ông Phan-Thanh-Giản thành-công, còn được đưa đi xem các nơi
tại Pháp và Tây-Ban-Nha (Y Pha Nho) rất văn-minh của xứ người.Ngày
24-3-1864, sứ bộ về đến Sài-Gòn. Vua Tự-Đức và triều thần đều vui mừng.
Vua Tự-Đức bèn phong Ông làm Thượng Thơ Bộ Lại như cũ. Nhưng thực tế,
triều đình Huế đã mừng hụt, vì phe thực-dân đã vận-động để chống lại
việc cho chuộc đất, đứng đầu là các nhân vật thuộc bộ hải-quân và
thuộc địa như : Chasseloup Laubat, Bonard, De La Grandière ...vì thế
vua Napoléon đổi ý không cho chuộc lại đất. Tháng 2-1865, Aubaret tới
Huế cho hay không có hòa-ước mới và yêu cầu vua Tự-Đức cho trả tiền
chiến phí, đồng thời phải cấm nghĩa-sĩ chống Pháp. Như thế, việc
chuộc đất hoàn-toàn thất bại vì kẻ mạnh trở mặt, muốn thế nào cũng
được, làm cho Ông Phan-Thanh-Giản lại bị vua Tự-Đức tức giận cách
lưu. Đây là lần Ông bị giáng chức thứ sáu, tội nghiệp cho Ông lúc
này đã 70 tuổi. Sau đó, dã tâm của giặc Pháp càng ngày càng rõ rệt
là muốn nuốt trọn Nam Kỳ lúc bấy giờ có 6 Tỉnh, các lực-lượng
nghĩa-sĩ chống giặc ngoại-xâm nổi lên đánh phá khắp nơi. Trước tình
thế đó, Vua Tự-Đức lại cử Ông Phan-Thanh-Giản vào Nam, vì nghĩ rằng
người Pháp đã biết Ông, với chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ Bộ Hộ, Thượng
Thơ Sung Kinh Lược Sứ thuộc 3 Tỉnh An-Giang, Vĩnh-Long và Hà-Tiên.
Ông xin từ chức vì cớ tuổi già, nhưng không được vua chấp thuận và
trước khi đi Ông có tâu rằng : "Chánh sách của Ông là luôn luôn
tuân đúng theo hòa-ước". Vua Tự - Đức cũng ngỏ ý : "Muốn hoà-bình
cho dân-tộc được yên ổn, nhưng không nên vì lẽ ấy mà khuất-phục tình
hình một cách thụ động". Về phía thực-dân Pháp, De La Grandière (De
Lagrandière?) đã thảo kế-hoạch đánh chiếm luôn ba tỉnh Miền Tây (Nam
Kỳ). Ngày 15-6-1867, De Lagrandière rời Sài-Gòn xuống Vĩnh-Long với
17 chiến hạm và hắn nhờ Cố Dương đưa thơ mời Ông Phan-Thanh-Giản xuống
soái hạm để cho biết lý-do động binh của hắn. Ông và Án Sát
Võ-Doãn-Thanh cố-gắng thương-thuyết, nhưng bọn thực-dân đã quyết-tâm
cướp nước, thì làm sao còn thương thảo được, hai Ông hoản binh, hứa
sẽ nộp thành với điều-kiện yêu cầu đừng sách nhiễu dân và tiền với
lúa trong kho vẫn phải để Việt-Nam nắm giữ. De La Grandière ưng thuận,
nhưng khi hai Ông trở về thành vào ngày 20-6-1867, thì thành
Vĩnh-Long đã bị quân Pháp chiếm. Sau đó, đến thành An-Giang mất ngày
22-6-1867 và thành Hà-Tiên cũng bị quân Pháp chiếm luôn vào ngày
24-6-1867 (Theo sách Việt-Nam Sử Lược của Ông Trần-Trọng-Kim viết :
"Ông Phan-Thanh-Giản bảo các quan đành chịu nộp thành cho khỏi sự
tai hại" nhưng không thấy dẫn chứng dựa theo tài-liệu nào? Chỉ thấy
trong quyển La Geste Française en Indochine của Cura Taboulet tập 2,
trang 518-519, đã dịch ra và in trong quyển quân-sự tập 3 của BTM do
Ông Pham-Văn-Sơn biên soạn viết : Ông Phan-Thanh-Giản viết thơ buộc
Tổng Đốc An-Giang và Hà-Tiên hạ vũ khi đầu hàng. "Nếu cần xin xem
quyển Nguyễn-Đình-Chiểu về tác-giả và tác-phẩm trang 672" ).
Sau đó, Ông Phan-Thanh-Giản lấy tiền lúa nộp một phần cho Pháp để
thanh-toán tiền bồi thường năm đó, rồi Ông ra sống tại một ngôi nhà
tranh ở ngoài thành Vĩnh-Long. Chính tại nơi đây, Ông quyết-định chấm
dứt cuộc đời của Ông. Có lẽ đó là lối thoát duy nhứt của Ông sau khi
Ông đơn phương nộp thành trì cho Pháp mà không có sự ưng-thuận của
triều đình, nhứt là trước đó vua Tự-Đức đã đặt hy-vọng bảo-vệ thành
trì vào tay Ông. Ông đã hiểu mình phải làm gì, bởi vì thân làm tướng
giữ thành mà để mất thành là một trọng tội, cho nên Ông tự xử lấy
mình. Ông xếp tất cả áo mão và các tờ sắc-phong kèm theo tờ sớ chịu
tội với triều đình rồi Ông bắt đầu tuyệt thực.
Sự tuyệt thực của Ông có ý-nghĩa là một biện pháp "ung dung tựu nghĩa" tức là bình-tỉnh đón nhận cái chết để đạt được nghĩa lớn tức là đền nợ nước. Các con cháu quì lạy khóc lóc nhưng Ông đã quyết không ai ngăn cản được. Ông vẫn bình tỉnh và sáng suốt khuyên con cái lo học-hành, không được làm việc cho Pháp, đồng thời bảo con cháu lo tang ma thật giản dị và Ông tự tay viết di bút để đề mộ bia cho Ông gồm 24 chữ Hán, viết thành 3 hàng được phiên âm như sau :
"Minh tinh thỉnh tỉnh nhược vô ứng thư,
Đại-Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cửu. Diệc dĩ thử chí
mộ"
nghĩa là : Xin bỏ tấm triệu, còn nếu không chịu bỏ thì chỉ nên viết
: "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam" mộ
chí cũng đề như thế. Đồng thời Ông làm thơ tuyệt mạng : Thời trời,
lợi đất, lại người hòa, Há dễ ngồi coi phải nói ra. Làm trả ơn vua,
đền nợ nước, Đành cam gánh nặng ruổi đường xa. Lên gềnh xuống thác
thương con trẻ, Vượt biển trèo non cam phận già. Cũng tưởng một lời
an bốn cõi, Nào hay ba tỉnh lại chầu ba! Và Ông tuyệt thực suốt 17
ngày mà không chết để chờ quyết định của vua Tự-Đức. Sau cùng, vào
lúc nửa đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão 1867, Ông hướng
về phương Bắc nơi có vua Tự-Đức để lạy 5 lạy và trước sự chứng kiến
đau lòng của các con cháu, rồi Ông uống á-phiện với dấm thanh để tự
vận. Lúc đó có nhiều người quan Pháp kính nể việc làm của Ông, bác
sĩ hải-quân Pháp là Le Coniat đã tận lực cứu chửa, nhưng không
cứu Ông được, nên phải trút hơi thở cuối cùng thượng thọ 71 tuổi và
được các quan lớn nhỏ ở lục tỉnh cùng thân nhân bằng cố hữu về đông
đủ để chịu tang và các con cháu đưa về an táng tại làng Bảo-Thạnh,
quận Ba-Tri (Bến-Tre) đúng như ý muốn của Ông. Khi hay tin Ông chết,
các quan Việt-Nam và Pháp tới phúng điếu đều ngậm ngùi thương tiếc một
công thần với 41 năm công cán suốt 3 triều đại là: 1.-Vua Minh - Mạng
(1820-1840) tức con thứ ba của vua Gia-Long là Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm,
thọ 50 tuổi, trị vì 20 năm và có 170 người con. 2.-Vua Thiệu-Trị
(1841-1847) tức Hoàng-TháiTử của vua Minh-Mạng là Hiến-Tổ Nguyễn-Miên-Tông,
thọ 37 tuổi và trị vì 6 năm. 3.- Vua Tự-Đức (1847-1883) tức con thứ
hai củaVua Thiệu-Trị với Bà Thái-Hậu Từ-Dũ, quê ở Gia-Định (Nam Kỳ)
là Hoàng-Thái Tử Dực-Tông Nguyễn-Hồng-Nhậm, thọ 55 tuổi và trị vì 36
năm.
Lúc làm Kinh-Lược trấn nhậm tỉnh Vĩnh-Long Ông có lập miếu thờ Đức
Khổng Tử do Ông Nguyễn-Thông trông nom, khởi công năm Giáp Tý 1864 đến
cuối năm 1866 hoàn-thành, đồng thời cất tòaVăn-Xương-Các chung trong
đất Văn -Thánh tại làng Long-Hồ để khi rảnh rổi việc quan, Ông cùng
các bạn văn nho họp luận bàn thi phú. Tòa Văn Xương-Các đến nay vẫn
còn uy-nghiêm dưới nhiều cây cổ thụ trồng từ xa xưa, cách chợ
Vĩnh-Long khoảng 3 cây số. Bên trong có thờ chân dung Ông và bài-vị
Ông Võ Trường Toản. Riêng tại Miểu Quốc-Công nằm trong thị xã
Vĩnh-Long cũng có thờ Ông, hai nơi này lúc nào khói hương cũng nghi
ngút. Ngoài ra, năm 1966, chánh-quyền Tỉnh và thân hào nhân sĩ trước
kia, cũng dựng tượng đồng bán thân Ông đặt tại công viên tại chợ
Vĩnh-Long. Bởi vì, Ông là vị quan thanh-liêm, cương trực, hết lòng
phục mệnh các vì vua và lo cho đất nước, dân tộc, lúc bấy giờ, cho
nên Ông bị hành-động gian-xảo của giặc Pháp ở thế thượng phong về
quân-sự cùng văn-minh tân kỳ của giặc Pháp (bởi vì, Ông đã thấy tận
mắt khi cầm đầu sứ bộ sang Pháp), lúc nào cũng muốn cưỡng chiếm 6 tỉnh
Nam-Kỳ cho bằng được. Dù ai, ngoài Ông ra cũng không tránh khỏi kết-quả
thiệt-thòi của giặc Pháp đưa đến. Vì thế, Ông đành thất thủ thành và
đưa đến cái chết can-đảm. Trong khi đó, có tin từ triều đình Huế gởi
vào : Bãi chức hàm của Ông, đục tên trên bia tiến-sĩ ngoài Huế để
làm gương, cuối cùng đến năm 1885 vua Đồng-Khánh mới phục hồi chức
hàm và đến năm 1924 vua Khải-Định mới phong thần cho Ông. Hơn nữa,
sau khi Ông chết, hai con của Ông là: Phan-Tôn và Phan-Liêm đã
nghe lời Ông căn dặn trước khi chết là : "không ra làm quan với
Pháp" mà còn đứng lên chống Pháp. Vì vậy, khi Ông qua đời không những
thân bằng quyến thuộc, các quan lớn nhỏ Việt-Pháp cùng đồng bào miền
lục tỉnh đến nơi tiễn đưa Ông rất long-trọng và luyến tiếc một nhân
tài không thể cưỡng lại tình thế lúc bấy giờ. Riêng Ông Nguyễn-Đình-Chiểu
làm bài thơ điếu Ông, bằng chữ Nôm như sau : Non nước tan tành hệ bởi
đâu? Dàu dàu mây bạc (trắng) cõi Ngao châu, Ba triều công cán vài
hàng sớ, Sáu tỉnh cang (cương) thường một gánh thâu, Ải (Trạm) Bắc
ngày trông (chiều) tin nhạn (điệp) vắng, Thành Nam đêm quạnh tiếng
quyên sầu, Minh tinh (sinh) chín chữ (*) lòng son tạc, Trời đất từ
đây mặc gió thu. (*) Ông Phan-Thanh-Giản viết di bút để lại cho các
con cháu có 11 chữ là : Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi
cửu có nghĩa là "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển
nước Đại-Nam". Như vậy, chữ "cữu" là cuối chữ của câu 11 chữ do Ông
Phan-Thanh-Giản viết rớt đúng chữ "linh" thì rất đúng quy tắc. Bởi
vì, theo quy-tắc thời xưa, khi viết minh tinh (tấm triệu) hay mộ
bia bắt buộc phải chú ý đến 4 chữ : Quỷ, Khốc, Linh, Thính và phải
tôn trọng quy tắc: "Nam Linh, Nữ Tính, bất dụng Quỷ Khốc nhị tự".
Nhưng tại sao Ông Nguyễn-Đình-Chiểu là đồ nho lại viết 9 chữ và cắt
bỏ hai chữ Đại-Nam có ý nghĩa gì ? Theo thiển nghĩ lúc bấy giờ
ở Nam Kỳ lục tỉnh đã bị giặc Pháp chiếm, thì không thể dùng chữ Đại-Nam
mà phải cắt bỏ để trách khéo Ông Phan-Thanh-Giản? và có ý để Ông
Phan-Thanh-Giản thành Quỷ sau khi chết, bởi để mất Nam Kỳ. Hơn nữa,
câu thơ chót Ông Nguyễn-Đình-Chiểu kết bằng chữ gió thu (tức gió mùa
Thu, theo ngũ-hành thuộc Kim, theo phương hướng thuộc hướng Tây) ý
nói lục tỉnh Nam Kỳ giờ đây do giặc Pháp cai trị là để gói trọn sự
thống hận đổ trút hết tội tình lên Ông Phan-Thanh-Giản, giống như
hành động vua Tự-Đức vậy.
Xin xem bảng kê dưới đây sẽ thấy rõ hơn :
Qủy
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Qủy
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Qủy
|
Khốc
|
Linh
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
Đại
|
Nam
|
hải
|
nhai
|
lão
|
thơ
|
sanh
|
tánh
|
Phan
|
chi
|
cửu
|
|
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
|
|
Qủy
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Qủy
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Qủy
|
Ngoài ra, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu
không dừng ở đây, lại làm thêm bài thơ điếu Ông Phan-Thanh-Giản bằng
chữ Hán, không kém sự phiền giận của Ông.
Xin trích dẫn như
sau :
"Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật,
Tận trung hà hận tử Trương Tuần,
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự,
Nam đắc thung dung tựu nghĩa thần..."
Với 4 câu thơ trên Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, mượn Ông Phú-Bật ở đời
nhà Tống được vua cử đi sứ để thuyết phục được giặc Khiết-Đan và lấy
lại được đất cho nhà Tống, còn Ông Phan-Thanh-Giản cũng được cử đi sứ,
nhưng không thành công. Riêng Ông Trương-Tuần ở đời nhà Đường giữ
thành Tuy Dương, chống giặc An-Lộc-Sơn, đã chiến đấu đến cuối cùng,
thành mất Ông Trương Tuần chết theo thành, còn Ông Phan-Thanh-Giản
không theo gương người xưa, chết tức khắc theo thành?. Vì thế, việc
còn mất lục tỉnh, còn có trời. Nhưng, Ông Phan-Thanh-Giản muốn ung
dung làm thần (tựu nghĩa thần) thì thật khó lắm thay! Quả thật, Ông
Nguyễn-Đình-Chiểu, là con người vì yêu nước nồng-nàn, cho nên
việc mất lục tỉnh Nam-Kỳ làm Ông tức giận tột cùng. Vì thế khi Ông
Phan-Thanh-Giản chết, Ông làm hai bài điếu để hờn giận, căm thù thật
đáng sợ hơn là thương tiếc Ông Phan-Thanh-Giản lâm vào tình trạng tiến
thối lưỡng nan lúc bấy giờ.
Qua những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy được Ông Phan Thanh Giàn
đáng được tôn kính Vinh Danh, bởi vì Ông là Nhân Tài Đạo Đức, Cương
trực, Thanh Liêm, Trung Quân Ái Quốc và Thương Dân suốt đời, giống
như các bậc danh nhân ngày xưa, đáng cho thế hệ chúng ta và kế tiếp
sau này tôn vinh và ngưỡng mộ mãi mãi.
Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản