CHÍN NĂM BÊN CẠNH
TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
Mạn đàm với cựu Đổng lý QUÁCH
TÒNG ĐỨC
Lâm Lễ Trinh
Tuy là bạn tâm giao với người
viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng
khi nhắc đến những năm dài làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô
Đình Diệm, vị lãnh tụ khai sáng nền Đệ nhứt Cọng hoà Việt Nam. Sau
chính biến 1.11.1963, ông Đức trở lại ngành Tư pháp và được thăng trật
Chủ tịch Tham Chính Viện naêm 1969. Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ, ông
và gia đình xin tị nạn chánh trị tại Paris. Chánh phủ Pháp tuyển dụng
ông vào Phòng Tố tụng Tổng quát của thị xã Paris, thời Thị trưởng
Jacques Chirac.
Ông về hưu đầu năm 1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh
mẩn tuy sức khoẻ không tốt như trước. Gần đây, trong những lần gặp
nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều cuộc điện đàm có ghi âm, ông Đức đã
chịu thố lộ với người viết nhiều điều liên hệ đến giai đoạn chín năm
phục vụ vị nguyên thủ quốc gia bị sát hại năm 1963.
Lần đầu gặp chí sĩ Ngô
Đình Diệm
Ông Quách Tòng Đức (QTĐ)
sanh tại An xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung lưu, đậu cử nhân
và Cao học Luật Đông Dương năm 1941, Đại học Hànội, sau khi lấy bằng
tú tài tại trường Pétrus Ký, Sàigòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên
gồm có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện,
phủ tại Miền Nam VN mà cấp bậc cao nhứt là Đốc phủ sứ thượng hạng
ngoại hạng tương đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở ngoài Trung
và Bắc. Khi vua Bảo Đại chỉ định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ hiến
Nam Việt Thái Lập Thành (xuất thân là một Đốc phủ sứ như các ông
Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương Tấn Tài, Lê Quang Hộ ...) bổ nhiệm
ông QTĐ năm 1951 làm Chánh Văn phòng và thiếu tá Dương Văn Minh,
Chánh Võ phòng. Năm 1953, thủ hiến Thành và Thiếu tướng Chanson bị
nhóm Cao Đài kháng chiến của Trình Minh Thế ám sát tại Sadec trong một
cuộc kinh lý.
49 ngày sau Điện Biên Phủ
thất thủ, tức là 26.6.1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng thơ Ngô Đình
Diệm lập chánh phũ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm
đã ba lần từ chối lời mời của Bảo Đại: năm 1937, 1945 và 1948. Ông
giao thiệp thân tình với nhà cách mạng Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có
ghé Nhựt năm 1950 để hội kiến với Kỳ ngoại hầu Cường Để và, theo một
số sử liệu, từng lãnh đạo Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội trong nước.
Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ và - khác với Bảo Đại - đã cương
quyết bác bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố vấn cho Chánh phủ do Hồ
dựng ra.
Hiệp định Genève, ký ngày
20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17. Trong đám đông quần chúng đón
tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có ông
Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên bí thơ của Toàn quyền Decoux, cùng đi với ông
QTĐ. Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ - mời ông Thơ
tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. Ông Thơ chọn ông Đức
làm Đổng lý Văn phòng năm 1954. Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu
dân ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng
thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN. Quân đội tổ chức
một cuộc diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới
quyền điều khiển của Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau
khi tảo thanh xong Bình Xuyên taị Rừng Sát. Ông QTĐ thay thế Đổng lý
Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và giữ chức vụ này cho đến ngày Quân đội
đảo chánh năm 1963.
Nhận xét về mối liên hệ
của TT Diệm với gia đình
Theo ông QTĐ, năm 1954 chánh
phủ Pháp trả trước dinh Gia Long ở đường Gia Long, và sau khi quân đội
Pháp rút khỏi Việt Nam, nhà cầm quyền Đệ nhứt cọng hoà mới thu hồi
Dinh Toàn quyền Norodom, đổi tên thành Dinh Độc lập, trên đại lộ Thống
nhứt. Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên La Mã, xây
cất lại hoàn toàn sau ngày 27.2.1962 vì Dinh bị hai phi công Phạm Phú
Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại khá nặng.
Dinh Độc lập chia làm hai
tầng: tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và các Văn phòng của
Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Đổng lý Văn phòng, Tổng
thơ ký Phủ Tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia làm ba phần: phía
trái dành làm Văn phòng và phòng ngủ của Tổng thống, phòng sĩ quan tuỳ
viên; ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang; phiá phải là nơi cư
ngụ của gia đình ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng thống Diệm
thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài vôùi một cái giường
nhỏ bằng gổ, một bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, Tổng thống thường
dùng cơm và tiếp các Bộ trưởng và tướng lãnh.
Gia đình Tổng thống Ngô Đình
Diệm rất trọng Nho giáo. Hằng năm vào Tết Nguyên đán, luôn luôn tụ họp
đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc thọ bà cụ Ngô Đình Khả giao cho người
con áp út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm. Ông bà Ngô Đình Khả có chín
người con: 6 trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và con
trai là Ngô Đình Huân bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô
Đình Thị Giao tức bà Thưà Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm,
thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức
bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị sĩ Trần Trung Dung. TT Diệm là người con trai
thứ ba trong gia đình nhà Ngô, sanh năm 1901 taị Huế, được vua Bảo Đại
bổ nhiệm năm 1933 Thượng thơ đầu Triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm
sớm rủ áo từ quan vì thực dân Pháp không chấp nhận chương trình cải
tổ rộng lớn của ông.
Sau ngày ông Khôi qua đời,
Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả “quyền huynh thế phụ”.
Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Diệm. Ông QTĐ
cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám mục Thục vài tuần có về Saigon ngụ
trong Dinh. Ông Ngô Đình Luyện, con út trong gia đình, đại sứ ở Luân
Đôn, năm khi mười họa mới về nước nghỉ phép hay đển dự các phiên họp
của Hội đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên.. Ông Đức không
nhớ có lần nào gặp ông Cẩn trong Dinh Độc Lập.
Văn phòng Đổng lý không làm
việc thẳng với Cố vấn Nhu. Ông Nhu có nhân viên riêng trong Sở Nghiên
cứu Chánh trị Phủ Tổng thống mà người giám đốc đầu tiên là đốc phủ sứ
Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ Nội vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ
Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên cứu xử dụng một ngôi nhà riêng
trong hàng rào Dinh Độc lập. Vài tháng trước vụ binh biến 1.11.1963,
Tuyến bị thất sủng, trung tá Phạm Thư Đường thay thế. Tuyến được bổ
nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le Caire, trở lại VN và liên hệ đến
một nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành công, bs Tuyến bị Hội đồng
Cách mạng đày ra Côn Đảo (tỉnh trưởng là trung tá Tăng Tư) trên một
năm cùng với lối 200 nhân vật chế độ củ gồm có Ngô Trọng Hiếu, Cao
Xuân Vỹ, đại tá Nguyễn Văn Y, Hà Như Chi, Dương Văn Hiếu…. Ông QTĐ
không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1.11.1963, ông Nhu đã giao
cho người em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị
nhiều tai tiếng, từng cọng tác với Văn phòng của luật sư Trương Đình
Dzu, ứng cử viên Tổng thống thời Thiệu-Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông
bà cựu đại sứ Trần Văn Chương taị Hoa kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao.
Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do Khiêm bị bịnh tâm thần và trục xuất
Khiêm khỏi Hoa kỳ. Khiêm hiện sống bình thường ở Pháp. Có sự điều đình
chánh trị gì beân trong vụ án này ?
Khi được hỏi cách cư xử của
TT Diệm với bà Nhu (nhủ danh Trần Lệ Xuân), ông Đức cho biết “ông cụ
có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới
và vận động Quốc hội ban hành Bộ Luật Gia đình cấm ly dị. Tổng thống
cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội. Tuy nhiên,
những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình nhằm mục tiêu riêng:
ngăn luật sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi, chị của bà
Nhu.. Ngoài chức vụ dân biểu Quốc hội, bà Nhu còn là chủ tịch Phong
trào Phụ nữ Liên đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ nhứt
Phu nhân vì Tổng thống độc thân. Tuy bất bình về những lời tuyên bố
châm dầu vào lửa của người em dâu trong vụ Thích Quảng Đức tự thiêu
ngày 11.6.1963 (đặc biệt với câu “monks’ barbecue”) ông Diệm không
công khai phủ nhận vì ngại đụng chạm đến ông Nhu vào một giai đoạn rối
như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh hay nhường nhịn cho yên nhà yên cửa,
cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của vợ. Bà Nhu hiện có một cuộc
sống kín đáo, đơn sơ, nặng về tôn giáo, qua lại giữa Paris và Rome,
tất cả con cái đều thành tài. Trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy chết trong
một tai nạn lưu thông sau 1975. Sự bất hạnh không ngớt đeo đuổi gia
đình nhà Ngô. Thời gian gần đây, bà Nhu thay bà Luyện để tổ chức
hằng năm tại Paris một lễ cầu hồn cho TT Diệm và ông Nhu. Trong số ít
người còn lui tới với bà Nhu, có vợ chồng cựu bộ trưởng Lao động Hùynh
Hữu Nghiã. Ông Nghĩa qua đời năm vừa rồi.
Về tin đồn Đức cha Thục làm
kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách
Albert Portail..v..v..), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không
làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt
do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu
lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được Giáo hoàng
phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện
dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.
Ông QTĐ xác nhận ông Ngô Đình
Nhu chẳng những là lý thuyết gia mà còn là bộ óc của Đệ nhứt Cọng hoà,
“l’homme indispensable, nhân vật cần thiết”. Ông xuất thân từ Ecole
des Chartes Paris, trầm tỉnh, ít nóí, lạnh nhạt bên ngoài, thích
nghiên cứu lịch sử, có nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối ba năm chót
của chế độ, dù giữ quyền quyết định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm
thường phê chuyễn các hồ sơ chánh trị quan trọng qua cho ông Nhu để
lấy ý kiến, không kể những cuộc gặp mặt thảo luận riêng hằng ngày. Ông
Nhu làm việc âm thầm, cần mẩn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu,
do sự can ngăn của bà Nhu) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập
sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc lập, có gắn máy lạnh và
interphone với bên ngoài. Ông thường phê vào các công văn với một cây
bút chì mỡ màu xanh lá cây. Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào
thuyết Nhân Vị, Personnalisme, đúc kết hai xu hướng của triết gia
công giáo Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques Maritain
(1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp chiến
lược từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập
bởi Nghị định số 11-TTP của Tổng thống và ông Nhu là Chủ tịch Ủy ban
Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược. Ông Nhu cũng cho thành lập Phong trào
Thanh niên và Thanh nữ Cọng hoà giao cho Cao Xuân Vỹ phụ trách. Ông
đẩy mạnh tổ chức Lao động ở Việt nam và nâng đở Trần Quốc Bửu. Đại tá
CIA Lansdale (người đã ủng hộ Magsaysay trở thành Tổng thống Phi Luật
Tân năm 1952) giúp ông móc nối với Lực lương kháng chiến Cao Đài để
đưa tướng Trình Minh Thế về với Quốc gia. Ngoài chức Tổng Bí thơ Đảng
Cần Lao (tổ chức theo mô hình đảng Cộng sản, với một Quân ủy trong
Quân đội có một lúc ông Nhu là dân biểu Quốc hội. Ông không bao giờ
tháp tùng Tổng thống trong các cuộc kinh lý. Săn bắn là thú tiêu khiển
yêu chuộng của ông và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tịnh để suy nghĩ.
Ông đại sứ Luyện, gốc kỹ sư,
tánh tình cởi mở, thích giao du với bạn bè mỗi khi về VN nhưng không
có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề nội trị. Ông là bạn học của
cựu hoàng Bảo Đại, sống taị Luân đôn và đại diện VNCH ở nhiều xứ AÂu
châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục huyền với em
vợ và có rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít khi
xuất hiện. Sau 1963, ông Luyện daỵ toán taị một trường tư thục Paris,
sau đó sang Phi châu làm việc một thời gian, tình trạng khá chật vật
khi về hưu. Ông cĩ qua Hoa kỳ vài lần để thăm Đức TGM Thục, không còn
liên lạc với bà Nhu và ông đã quá vãng ở Pháp,
Cho đến cuối năm 1961, vai
trò của ông Ngô Đình Cẩn, Cố vấn lãnh đạo Miền Trung, trái lại, rất hệ
trọng về mặt an ninh và đoàn thể. Ông Cẩn không ăn học cao nhưng nắm
vững tình hình địa phương, có óc tổ chức, luôn luôn trang phục theo
lối Việt, áo dài, khăn đống, ăn trầu, (từ đó biệt danh “Ông Cố Trầu”),
độc thân, thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm vườn, nuôi thú, nuôi
chim. Ảnh hưởng của ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ mang danh
nghĩa chiêu hồi của Đoàn Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán
xuyến, sự hiện diện của Nguyễn Văn Hay trong cương vị phó TGĐ taị Tổng
nha Cảnh sát Công An Sàigòn và các hoạt động của cánh Cần Lao do nha
sĩ thân tín Phan Ngọc Các điều khiển. Sau 1.11.1963, viên lãnh sự Mỹ
Helble taị Huế không cho Cẩn và thân mẫu được tị nạn chánh trị taị
Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sàigòn chứa chấp Trí
Quang nhiều ngày. Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho tướng Đổ Cao Trí
tịch thu tại nhà ông ở Phú Cam, dưới gầm giường, “một bao bố và một
va-li đựng quý kim” (đọc hồi ký Dòng họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh,
bí thơ của N Đ Cẩn, trang 307). Ông Cẩn bị Hội đồng Quân nhân Cách
mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 9.5.1964
taị sân sau khám Chí hoà, Sàigòn. Luật sư bào chửa là Võ Văn Quan. Cố
vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường, tuyên bố tha thứ cho các
người tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không được chấp nhận.
Nếu gia đình thỏa thuận lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thoát chết.
Vụ tống tiền này đã được cố nghị sĩ Trần Trung Dung và cố trung tướng
Lâm Văn Phát xác nhận với người viết sau 1975.
Được hỏi về tin đồn có sự
cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa Nhu và Cẩn, ông QTĐ nói chỉ nghe
nói phong thanh. Vào tháng 10.1963, ông Cẩn nhận được lệnh của TT Diệm
ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố vấn chỉ đạo ở
ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và đại úy Nguyễn Văn Minh. Hình như sự
hiện diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào.
Ông Cẩn không dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu. Trong phạm vi
cá nhân, ông Cẩn giữ liên lạc tốt với Thượng tọa Trí Quang nhưng điều
này không giúp giải quyết cuộc khủng hoảng Phật giáo. Hoa kỳ và Cộng
sản đã nhúng tay quá sâu.
Người viết có yêu cầu ông QTĐ
cho biết trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng tâm bất lợi cho
chế độ. Suy nghĩ một phút, ông Đức đáp: TGM Thục và bà Nhu. Đặc
biệt trong giai đọan Phật giáo. Đức cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh
vực tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong
giới phụ nữ VN. Ngó từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn khít,
mỗi người giúp tay tích cực xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự
đoàn kết ấy được diễn tả trong huy hiệu Đệ nhứt cọng hoà: năm cành
trúc kết thành một bó, dưới khẩu hiệu “Tiết trực Tâm Hư.”
Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá tánh riêng, nhận định không luôn luôn
nhất thống, đôi khi còn mâu thuẩn. Đó là hậu quả khó thể tránh trong
một chế độ dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống đối cũng như Hoa kỳ
và Cộng sản đều khai thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này.
Dư luận cho rằng trong năm
chót của chế độ, trước cuộc binh biến 1.11.1963, ông Nhu – trên thực
tế – là một “Tổng thống không ngôi” vì có nhiều quyền lực, làm lu mờ
vai trò của ông Diệm nhưng quyền bính hiến định vẫn ở trong tay ông
Diệm bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn ngoài nước. Không có một văn
kiện chánh thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn làm Cố vấn Chánh phủ.
Chính các đoàn thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm “Cố vấn Chỉ
đạo” và dành cho ông danh xưng nầy. Có lúc dư luận cảm thấy ông Diệm
cần ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. TT Diệm không thể tách rời
khỏi ông Nhu đóng vai trò “l’âme damnée, linh hồn đày đọa”. Đó là đầu
mối thảm trạng xảy ra cho hai người vào giờ phút chót.
TT Diệm tưởng lầm có thể dùng
uy tín cá nhân để bảo vệ sanh mạng của bào đệ. TT Diệm cũng tưởng lầm
khối tướng lãnh chấp nhận điều đình với ông. Phần đông tướng lãnh kính
nể TT Diệm nhưng tất cả ngán sợ ông Nhu vì ông Nhu lắm mưu mô, nhiều
bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn đến quyết định
hy sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc tiếng
súng đang nổ lớn, TT Diệm điện thọai cho đại sứ Lodge: Một cuộc điện
đàm ngắn ngủi, đầy phẩn nộ trong khuôn khổ ngoại giao. Khi hay hai
ông Diệm, Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm1.11.1963, nhóm phản lọan
“run en phát rét “ và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự tiết lộ
của Tổng thống Thiệu trước khi qua đời với người viết. Conein thúc phe
phản lọan phải bắt sống cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói
suồng sã: “On ne fait pas l’omelette sans casser les oeufs,
Không thể rán trứng mà không đập bể trứng!”, theo Trần Văn Đôn kể lại
trong Hồi ký.
TT Diệm không chiụ ra lệnh
cho một số đơn vị võ trang trung thành phản công quân đảo chánh vì
muốn tránh cảnh nồi da xáo thịt, làm suy giảm tiềm năng kháng cộng. 4
giờ sáng ngày 2.11.1963, hai tư lệnh Quân khu thân tín ở Vùng I và II
là tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội đồng Cách Mạng.
Hy vọng cuối cùng tan biến. Hai giờ sau, Tổng thống cho phép đại úy Đổ
Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú y là đại tá Đổ Mậu yêu cầu
cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợlớn. Lúc 6 giờ và 6 giơ 45 sáng
ngày 2.11.63, TT Diệm đích thân điện thoại cho các tướng Minh, Đôn và
Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Dương Văn Minh chỉ định
Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang, Dương Ngọc Lắm, Dương Hiếu Nghĩa và
Nguyễn Văn Nhung (tên vệ sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt) đi đón,
với chỉ thị riêng thanh toán hai ông Diệm, Nhu, trước khi về tới Bộ
Tổng tham mưu. Thái thú Cabot Lodge nhắm mắt trước vụ mưu sát bỉ ổi
này mà ông có dư quyền chận lại nếu muốn. Đây là một vết nhơ không bao
giờ rửa sạch trong lịch sử đại cường Hoa kỳ. Tổng thống Kennedy (lãnh
tụ đảng Dân chủ) quá yếu đuối, để cho thuộc hạ lật đổ ông Diệm một
cách vô trách nhiệm, với sự a tùng của viên đại sứ đồ tể Cabot Lodge (thuộc
đảng Cọng hoà). Mai Hữu Xuân (đồ đệ của tên Cò khát máu Pháp Bazin)
sống cô đơn, qua đời tại vùng Bắc Californie vì bịnh tim, nhiều hôm
sau lối xóm mới khám phá được, báo cho cảnh sát. Đại tá Quang (gốc Đaị
Việt và cấp trên của Dương Văn Minh trong Quân đội Pháp) thăng thiếu
tướng, một thời gian ngắn thì đã ra đi vì bịnh lao phổi.
Ông Nhu có thiện cảm
với Pháp hơn với Mỹ, yếu tố văn hoá/ giáo dục ảnh hưởng nặng. Ông
Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất vọng thời làm quan dưới
triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở thành nạn nhân
của Mỹ mà ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn!
Con người của
chí sĩ Ngô Đình Diệm
Nhiều sách vở
và tài liệu đã nóí về cuộc đời chánh trị và riêng tư của TT Ngô Đình
Diệm. một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng cố hữu (anti-communiste
invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế quốc, bất luận Pháp, Tàu hay
Mỹ. Theo ông QTĐ, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ một
gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một
lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò
má dưới mắt trái của Tổng thống được các nhà tử vi xem như báo hiệu
một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông không nặng lời hay gắt
gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý.
Phong cách của
TT Diệm làm cho những người tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái bề
ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng nhiệt, một hỏa diệm
sơn, kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những đức tin căn
bản. Trong chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến
một ít trường hợp – vì lý do đặc biệt – Tổng thống thịnh nộ, quát tháo,
đập bàn .. Những “trận bão” này, tuy nhiên, qua mau, Tổng thống tự kềm
chế cấp thời vì bản tánh của ông bộc trực, không cố chấp, không thâm
độc như Hồ Chí Minh. Ông có thể độc thoại hàng giờ khi nói đến những
đề tài mà ông nghiền ngẫm như chủ thuyết cộng sản, ấp chiến lược,
khu trù mật, dinh điền, cải tổ hành chánh, hay văn hoá Khổng Mạnh.
Mái tóc đen nhánh, dáng người thấp, chân đi hai hàng lạch bạch nhưng
mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ mỗi buổi sáng, hoăc tại một phòng riêng
trong Dinh, hoặc tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu thế. Trang phục màu
trắng, cà vạt đen quanh năm, không thay đổi. Làm việc bất chấp giờ
giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có vấn đề khẩn,
ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng
không, ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng
không bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc.
TT Diệm kinh
lý không biết mệt, có khi mỗi tuần đi suốt hai ba ngày, đến các tiền
đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, xử dụng mọi phương tiện chuyên chở:
máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng….. Ông không hùng hồn trước đám
đông nhưng rất thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan
cách, không mị dân
Khi nhóm Hội
đồng Nội các, Tổng thống Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định,
nếu tình cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, không đầu không
đuôi, lắm khi không kết luận. Với tư cách thơ ký phiên họp, ông QTĐ
ghi mệt tay. Lúc bế mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông Đức tóm tắt
vì suốt chín năm trời làm việc bên cạnh Tổng thống, ông Đức đã quen và
rút kinh nghiệm, tuy đôi lúc cũng đoán lầm.
TT Diệm sống
rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo nghiêm khắc và Công giáo
khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông
thường nhắc rằng người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại
cuộc mà không cần đến cơm áo và chức tước, một lời khen của lãnh tụ
đủ gây mãn nguyện. Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng thánh thiện như
thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ
Chí Minh, ông Diêm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược.
Thú tiêu khiển
của TT
Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh. Ông thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay
trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập
máy ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy lọai mới.
Chủ tiệm chụp hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn.
Tổng Thống ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do
ông già AÅn và đại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi
gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Tổng thống ít khi đau, lâu lâu
cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông
nhân viên, do ông Tôn Thất Thiết phụ trách. Vấn đề tiền bạc riêng của
Tổng thống thì giao trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ Văn Hải, ông
Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình Thục,
tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của
cựu Thượng thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng thống Diệm từ lúc còn
bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Ông Hải chính là
người được TT Diệm chỉ định ngày11.11.1960 ra trước cổng Dinh Độc Lập
tiếp xúc với các sĩ quan phản lọan Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông
để tìm hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông baø Nhu và bác sĩ Tuyến,
giám đốc Sở Mật vụ và cũng không thích ông Cẩn.
Ông Đức còn
thêm: Vài hôm sau 1.11.1963, ông có chứng kiến vụ
Hải lập biên
bản
trao cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của tướng Trần Văn Đôn
số tiền của TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số tiền
này được bao nhiêu và lọt vào túi của ai.
Nơi hai trang
cuối cùng của hồi ký Việt Nam Nhân chứng, Trần Văn Đôn có ghi
rỏ Hải đã trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6.297 Mỹ kim, Dương
Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc VN
được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn
Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần ngọc Tám,
Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn có nhận 24.500 đồng
Khi phe quân
nhân lên cầm quyền, Võ Văn Hải có can đảm tổ chức nhóm “Tinh thần
Ngô Đình Diệm” và ra ứng cử dân biểu taị Sàigòn nhưng thất cử. Năm
1974, không hiểu vì sao Hải lại xoay qua, cùng với Tôn Thất Thiện, ủng
hộ nhiệt tình tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh hạ sát hai ông
Diệm, Nhu. Hải qua đời trong một trại giam Bắc Việt sau 1975, đem theo
nhiều điều bí mật chưa hề tiết lộ.
Về câu hỏi TT
Diệm liên hệ ra sao với đảng Cần Lao, ông QTĐ cho biết ông Diệm chỉ để
ý theo dõi hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia (tổ chức nồng
cốt của chế độ từ lúc đầu) và Liên đoàn Công chức Cách mạng, một tổ
chức ngoại vi của Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh hoạt của đảng
Cần Lao, TT Diệm giao hết cho hai ông Nhu và Cẩn. Trong các năm chót
của chế độ, kế hoạch AÁp chiến lược cũng do ông Nhu hoàn toàn phụ
trách, Tổng thống không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh
điền hay Khu Trù mật. Các gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có
các ông Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa,
Lê Quang Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Châu, Đổ Kế Mai, Nguyễn Trân ..v..v..
Bs Tuyến làm việc với ông Nhu, ít khi gặp Tổng thống, trừ trường hợp
đặc biệt. Quyết định đưa Cần Lao vào Quân đội – tức là chính trị hoá
Quân đội – làm yếu Quân đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản
lòng các sĩ quan chuyên nghiệp. Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục
vụ tổ quốc mà thôi.
Vụ công điện
số 9159 cấm treo cờ Phật giáo và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín
Trong quyển
hồi ký “ Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 taị Californie,
tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình
Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé
và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963,
Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác ñaëc biệt Miền Trung, vào Dinh để
phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ
Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các
Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu taị răng hắn để tới ngày chót
mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công
chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh
còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công
điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu..Lẽ nào lại tự
tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?”
Được hỏi nghĩ
sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông QTĐ tỏ vẻ rất ngạc nhiên.
Ông xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh của ông Diệm thảo và gởi
cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn
Văn Minh nêu ra, với nội dung “ chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà
thờ, chùa chiền..) chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi” (nguyên
văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78
và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962
của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.
Ông Đức kể lại:
Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có
chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức
treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào:
treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích
thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư
nhấn mạnh: phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi thờ
phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn. Lệnh của Tổng thống
được phổ biến ngay ngày hôm sau.
Theo ông QTĐ,
đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm
trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của Đức cha Ngô Đình
Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Vatican
“loạn xạ”, bất chấp thông tư nói trên. Một tuần sau – ngày
8.5.1983 – vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật
giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể
thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẩn nộ của
Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền
Nam, theo ông Đức, với 4.800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở
Huế.
Ông Đức còn
nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều
ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem,
với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công
điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi
đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi
không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh
chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Ñöùc tự thiêu, Quách
Thị Trang bị baén chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh
lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối
trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết
việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh
phủ ( Phật giáo Ấn quang ? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay
Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi
“tình báo Mỹ tổ chức”ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc –
là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.
Để tỏ thiện
chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái
công bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963 xác định những điểm đã thỏa
hiệp về việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hưá xét lại Dụ số 10
trước Quốc hội vào cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của Phủ
Tổng thống số 116/TTP/TTK ngày 23.9.1960 ấn định thể thức mua bán bất
động sản và đất đai của Phật giáo, hưá sẽ trừng trị nhân viên có lỗi
và bồi thường các gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã quá trể
đối với Hoa kỳ và Bắc Việt.
Trong hồi ký
“Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu
Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc
Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ
trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý
Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu
đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên
một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều
8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu
Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng
thống? (tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm
xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our
nightmare, chương VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý
30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa
Thiên, để Thich Trí Quang trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ
khổ sai chung thân.
Tình trạng
giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962, nổ lớn taị Huế với vụ
Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày
21.8.1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với
tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của ñaïi taù Lê Quang Tung
lục soát chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo
phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm
động khi được biết đại tứớng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận
với người viết rằng sau ngày 30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp
Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, - từ đại
úy thăng thiếu tá - bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng
Nhãy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ
bằng một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.
Được hỏi:
trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái
nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “ Tôn Thất Đính và Trần Thiện
Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!” Điều này không
ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh
1.11.1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong.
Chính Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký
“Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến
gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết
“ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”.
Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên bàn với Mỹ một
việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang
193). Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ
1.11.1963 cho đến ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện
Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân
chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không đính chánh mà cũng
không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra đi như tướng Thiệu, mang
xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cọng hoà Miền Nam ?
Theo QTĐ,
Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế
Quốc trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư 1975 (với
sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau,
được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ trưởng Nội
vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp
tẩu tán kho vàng Bảy Viễn và có mời tướng Dương Văn Minh đến giải
thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải
tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một chức vụ
tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm
Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn
sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp
Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác gây nghi ngờ đối với
tướng Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng về mối liên
hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá Dương Văn Nhựt.
bí danh Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá QĐVNCH
Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc
ở trong và ngoài xứ. Cựu đại tá Nguyễn Văn Y, cục trưởng Trung ương
Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công an, hiện ở Virginia, đã xác
nhận với người viết có đích thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT
Diệm xem.
Tổng thống liền
ra lệnh
hủy hồ sơ này
“trước mắt ông”
vì
không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu hổ.” (sic).
Hoa kỳ và
Cabot Lodge đã khai thác moái thù riêng của tướng Minh đối với caù
nhaân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cọng hoà và thay ngựa giữa
giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực
Trần Văn Hương trao quyền gắp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp -
hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN. Nguyên đại tá Nguyễn Linh
Chiêu, hiện ở Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này:
Năm 1983, ông có gặp tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn
Mẫu cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút
trong vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn
- đã làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.”
Các sự kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối
trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt.
Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm.
Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên
TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu: “Minh không phải là con
người thích hôïp vôùi cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!”
Năm 1988, đại
tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời Paris qua Pasadena, Californie,
sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả ơn? Ông Minh
quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng có đến
thăm ông taị Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi ký
Không Tên” vưà xuất bản taị Saigon. Với vài người thân tín, tướng
Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!
Nguyễn Khánh
là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa” trong vụ binh biến
11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi cao
vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu
tướng tạm thời taị mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo lánh để
trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế
tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ
phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963,
ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết
phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá
trể và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về
“cứu giá”, nếu TT Diệm trì hưởn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu sự
cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tuøy
thuộc biết bao nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người viết, tướng Khánh
còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao quyền lại cho
Quân đội sau cuộc binh biến 11.11.1960. Đây là một sự kiện khác mà
tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long troïng truy điệu cố
TT Ngô Đình Diệm
taị thủ phủ
Little
Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca tuïng TT
Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương.
TT Diệm
nể
trọng đại
tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong Quân đội được kêu bằng Ngài.
Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc
Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để
phản đối trong vụ Phật giáo.
Tướng nào giỏi
đóng tuồng và chuyên “trở cờ”?
Tuy không thân
cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo một nhận định
chung:
rần Văn Đôn (em út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng công
khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn
Thất Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một
Brutus hay một Juda? ). Ai thâm độc nhứt? Đổ Mậu. Ông Mậu - một cột
trụ Cần Lao - thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc)
để van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đổ Mậu hận vì TT
Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp
hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ
Văn hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh
nheo mắt cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được
một số Phật tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cọng
tác sốt sắng và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây
là một “đòn chánh trị” quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả
đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của
tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng
Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về
phiá Quốc gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong
hồi ký Chung Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội
1993). Chẳng những thế, trang 453-454 của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn
Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công
khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn chót của Hiệp định Paris.
“TT Diệm có thích được
nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức:
Tại Bắc Việt, Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng
có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt
trong Phong trào Cách mạng Quốc gia với số đoàn viên tăng từ 10,000
năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ
trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cọng tác
với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang…..Ông có
công xây dựng Phong trào CMQG, tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng
“Suy tôn Ngô Tổng thống”. Bất thuận với Trần Kim Tuyến,
Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác ra đi cùng một lúc
vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần lao dân sự và
quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư
pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám
đốc Thông tin do bác sỉ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách. Ngày
30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu)
tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì
được nhà báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân Ẩn lấy xe chở đến
một địa điểm dùng trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư tại Anh
quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến làm chủ
một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua đời
cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển hồi ký “
Làm thế nào giết một Tổng thống?”
Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở,
bình dân trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh
và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? hoàn cảnh ? giới cận thần
a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và
Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cọng hoà đi lần vào bế tắc. Trong
gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, - chồng, đại
sứ VNCH taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc -
lợi dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả
kích kịch liệt
Chánh phủ Sàigòn
và luôn cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn
Đổ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ
trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo với
ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris
ngang con
đường
Nam Vang nhờ sự giúp đở của bạn học
cũ là Quốc
vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ
luật chỉ trích chương trình viện trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật
taị Đại học Paris. Ls Châu như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng
ngã theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trần Văn Đôn- người chủ
trương đảo chánh - nhìn nhận một cách thương hại: Tội nghiệp, mọi
người đều bỏ TT Diệm!
Ông QTĐ tỏ ra
dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông
cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành
thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm
một số chùa như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở
Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế..v..v..Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển
đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật
giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một chuyện mà ít người biết là TT
Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ kim, giải
thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh
trị, quyết định này không được công bố.
Ủy
ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn
mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm,
Nhu bị giết - rằng Đệ nhứt Cọng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác,
TT Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các
giáo
phẩm di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm
ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống
đối ra mặt.
Cho đến ngày
TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh bên Tổng thống
hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý (QTĐ), Tổng thơ ký
Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử, nội
dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..