Không gian và thời gian
chiến tranh
Nguyễn Quang
Nạn
nhân không còn nhận thức rõ không gian và thời gian, gọi
là rối loạn ý thức và định hướng lực. Một số các
nạn nhân sau một thời gian phục vụ ngoài chiến trường
khi trở về vì lý do sức khỏe hay thương tật, họ không
còn tha thiết với những gì đang diễn ra đầy sự bất
hạnh,
... để thoát ra khỏi những thực tế thường là phũ
phàng trước các bất hạnh của con người, như chỉ còn
một tay, có khi cụt cả hai chân, chạy đến với những
thế giới không thực khác, mặc dù thân xác vẫn tại
thế nhưng hồn như đang ở nơi thế giới ảo nào đó.
Họ luôn nói về những giấc mơ, những lần được hội
ngộ với các Chư vị tiên thánh… còn cán bộ Việt cộng
mộng mị trong Thiên đường trần thế đầy thứ ngôn
ngữ xa lạ, khó hiểu thường hình thành do trí tưởng
tượng của mỗi cán binh Việt cộng tha hoá rất chủ
quan. Họ mơ theo truyền khẩu mà có thật như Chủ Tịch
Nguyễn Hữu Thọ muốn ngủ với cô em giao liên nào cũng
được, hay Chủ Tịch họ Hồ luôn cấy giống đỏ gởi
về miền Nam, hoặc như Tướng Nguyễn văn Toàn của miền
Nam càng tai tiếng càng được thăng chức… ôi sướng
quá! Nhưng nghĩ cho cùng phải có cái gian hùng, lưu manh kể
cả gian ác… những cái còn lại như lòng nhân ái, thương
người chẳng qua chỉ là chuyện để làm bình phong hầu
nhân danh cho có chính nghĩa. Muốn được hưởng thụ
những thứ dục vọng khả giác vượt hơn người hà tất
phải gian hùng là vậy.
Với
những người Cộng sản thời lộ liễu hơn vì những con
người quen sống trong ngụy tín, nên có điều thật thảm
hại trong vấn đề tâm thần, đó là họ không phải
không biết điều mình nói ra là sai, nhưng tôi phải nói
thế để tôi có thể tồn tại. Từ trên bình diện lý
thuyết đi tìm một sự giải thoát con người khỏi tình
trạng tha hoá, chính họ lại vong thân trước hết. Những
ngôn từ ảo giác như: đã đánh thắng Mỹ nên rồi cái
gì cũng sẽ làm được. Chủ nghĩa Mác Lê Nin bách chiến
bách thắng… trong khi hệ thống đã mâu thuẫn từ trong
nội bộ vào những năm 1960 dưới thời Krushchev, hậu
Stalin. Nhưng những người Cộng sản như Việt Nam không
bao giờ tin. Vì niềm tin mù quáng bao giờ cũng cố tránh
xa lý trí.
Nạn
nhân chiến tranh
ghi
nhận kém, mất định hướng và quên tất cả mọi việc
vừa mới xảy ra, họ không ghi nhớ được điều gì,
không biết mình đang ở đâu, vì sao có mặt tại cuộc
đời này và những ai đang ở quanh mình. Những sự kiện
có thật trong cuộc sống như trong một khoảng thời gian
và không gian này thì nhầm lẫn với một thời gian không
gian khác. Nạn nhân có thể quên nhiều và thay vào chỗ
quên có thể nói đến những việc không hề xảy ra, song
không biết mình đang bịa chuyện, người bệnh hay lờ đờ
vô cảm, dễ mệt nhọc, mau kiệt sức, đôi khi có khoái
cảm. Những hiện hữu của thực tại chỉ là những gì
đang xảy ra ở một thế giới khác và họ cũng không nhớ
rõ về mọi thứ, quá khứ, hiện tại, tương lai như dừng
lại trong tiếng bom đạn… Họ thường than: mới đó mà
nhanh quá nhỉ, mỗi khi nghĩ về những gì vừa xảy ra vài
năm trước hoặc cả chục năm cũng sao mà vụt nhanh như
giấc mơ của Trang Tử. Chiến tranh là vậy tất cả đều
đến nhanh quá, lớn nhanh, lấy nhanh, đẻ nhanh… mới
ngày nào mà nay đã ra người thiên cổ! Sống, Chết nhanh
thật!
Chứng
rối loạn ý thức
suy giảm trí tuệ từ nhẹ đến nặng
như tỉnh táo kém, ý thức u ám, ngủ gà, bán hôn mê, hôn
mê. Trong trường hợp tỉnh táo hoàn toàn đến mất hoàn
toàn phản ứng. Hội chứng này xuất hiện ở các nạn
nhân bị chứng đột qụy, biến chứng do tai biến mạch
máu não. Thường là những người lớn tuổi, trên bốn
mươi thường đều mắc phải chứng huyết áp cao, có vấn
đề tim mạch. Sau khi tai biến xảy ra, nếu còn sống thì
trong thời gian ngắn còn lại, các nạn nhân nầy thường
quên từ từ đến mất trí nhớ, các cơ bắp cũng dần
dần mất hẳn phản ứng.
Năng
lực định hướng về thời gian, không gian, chính bản
thân có trở ngại nhiều hơn, khi còn khi mất. Phải hỏi
to, lay mạnh người bệnh mới trả lời được đôi chút
rồi lại lim dim ngủ gà, ngủ gật. Những cơn choáng mất
định hướng về không gian thời gian, nhưng rồi họ sớm
bình phục trở lại. Nhưng với các nạn nhân trải qua
quá nhiều đau thương mất mát, họ chỉ muốn trùm mền,
ngủ gà, ngủ gật suốt ngày và họ nhớ nhất vẫn là
những hình ảnh khi mới ngày nào còn trong cảnh gia đình
sum vầy, nhưng nay tan biến về đâu hết rồi. Trong cơn
mơ đến mê nhiều khi phải hỏi to, đập vào vai thật
mạnh chưa chắc họ đã trả lời, các nạn nhân này như
đang sống trong một thế giới nào khác, một thế giới
dù không biết trước nhưng nếu sinh ra làm người để
như thế này ư!
Một
khi năng lực định hướng mất hoàn toàn, nạn nhân không
có phản ứng gì trước các kích thích của môi trường,
hỏi không nói, gọi không thưa. Đây là tình trạng của
nạn nhân đang nằm chờ chết trong hấp hối. Có những
người con trong nghịch ngợm bắn một vài phát chỉ thiên
cho người thân tỉnh dậy thoát khỏi cơn mê, nhưng dường
như trước những gì thuộc bạo lực vẫn dễ đưa con
người vào những cơn mê muôn thuở. Nên lịch sử thế
giới luôn mãi chỉ ghi lại những cơn mê, những trận
đánh nhau qua những mê muội đến hôn mê của con người
tưởng chừng sẽ không bao giờ dứt.
Cho đến
khi nào ý thức của con người bị loại trừ hoàn toàn,
mất toàn bộ các phản ứng và phản xạ. Sự hoạt động
ở trung khu não chỉ bảo đảm cho đời sống thực vật
như tuần hoàn, hô hấp, nhưng vẫn còn là con người, một
hữu thể như bao hữu thể tại thế.
Các
cán bộ Cộng sản xét về mặt tâm thần quả là hôn mê
hoàn toàn, thân xác còn đó với hơi thở tuần hoàn,
nhưng chỉ là các thiên lôi không hồn, mỗi ngày sẵn
sàng bắn giết, ám sát, khủng bố… giết bất cứ người
nào có thân nhân cộng tác với chính quyền miền Nam đều
là giành chiến công, là thắng lợi: giết người và giết
cả anh em ruột thịt của mình. Đó là một mệnh lệnh
từ Nga Tàu mang về, trên cái nền tảng lý luận không
cùng giai cấp thì phải chết. Quả là thứ lý luận của
Đại Hán thời thượng: chúng sẽ đánh và giết nhau, ta
không mất gì cả nhưng trong cái gọi là vì Quốc Tế Vô
Sản: chúng sẽ dâng đất, dâng biển và dâng người cho
Ta.
Nạn
nhân chiến tranh trở nên lú lẫn tâm thần là sự rối
loạn ý thức trong nhận thức về thế giới thực tại,
không chỉ ở các mối liên hệ bên trong mà cả với các
mối tương quan với bên ngoài. Như tri giác mơ hồ về sự
vật chung quanh, thực tại chỉ được phản ảnh một
cách rời rạc, không hệ thống. Rối loạn năng lực định
hướng về không gian, thời gian, về hoàn cảnh và về
những người chung quanh. Nhất là tư duy rời rạc, khả
năng lý luận bị suy giảm, có khi bị mất hẳn.
Các hội
chứng lú lẫn tâm thần thường biểu hiện dưới hai
hình thức: sững sờ, lúc đó hoạt động tâm thần bị
chậm lại, đầu óc người bệnh trống rỗng, động tác
chậm chạp, thường xuyên buồn ngủ và thiếp đi một
cách dễ dàng. Nạn nhân, trải qua những năm tháng đầy
những đau thương mà thường xảy đến trong ngỡ ngàng,
chắc chắn rằng dù trong ý thức chấp nhận nhưng không
ai nghĩ mình sẽ phải chịu những hình thức dã man, lúc
hiểu ra con người sao mà tàn ác quá, chắc chắn nếu
không trải qua sẽ không hiểu hết được sự ác nơi mỗi
con người và cái đáng sợ: sự ác đó lại là cái luôn
hành xử của những người Cộng sản hay không phải Cộng
sản nhưng ít nhiều đều có nơi những cá nhân vì lòng
tham mà chung lòng với cộng sản. Chính sự ác mỗi ngày
đổ trên đầu đồng loại đó đã khiến cho các cá nhân
nhất là trong môi trường xảy ra cuộc chiến, người dân
đều cảm thấy ngỡ ngàng: con người mà ác đến thế
ư? Khiến họ trở nên hờ hững với mọi thứ, trầm mặc
chậm chạp… dù nơi đây vẫn còn các tôn giáo luôn nâng
đỡ con người trong hy vọng.
Tình
trạng rối loạn ý thức và nhận thức, do nhiều nguyên
nhân: ngộ độc hoá chất, từ bệnh cơ thể… Sảng
thường đi kèm theo rối loạn chu kỳ thức ngủ, ban ngày
người bệnh ngủ gà còn ban đêm khó ngủ, có người đi
tiểu suốt đêm, hoặc vén chăn màn thâu đêm. Họ thờ
ơ, chậm chạp, thẩn thờ và không có gì bi thảm khi vào
mùng với tiếng bom đạn luôn rền vang chung quanh.
Sảng
khiến người bệnh lo âu, sợ hãi, trầm cảm, bốc đồng,
nóng nảy, khoái cảm hoặc vô cảm. Cảm xúc của người
bệnh có thể đi từ tình huống nầy sang tình huống khác
một cách nhanh chóng.. Người bệnh có thể tấn công
người khác, đập phá đồ đạc chung quanh, la hét, chửi
bới, khóc lóc rên rỉ, nói nhảm một mình. Sảng trong
môi trường chiến tranh với các nạn nhân thường từ
trong nhà hay chỗ ẩn nấp nào đó họ vụt chạy ra giữa
sân vận động hay trên khắp các nẻo đường và la lớn
những câu gì đó từ sự mất mát của chính họ cũng
như người thân. Thế rồi sau đó những người lại vụt
biến mất như họ xuất hiện trong sự bất ngờ. Nhiều
phụ nữ tuột cả quần áo mà chạy trên đường phố,
cũng không mấy ai buồn dõi mắt theo vì trong chiến tranh
các hiện tượng bấn loạn của con người đã quá trở
nên bình thường. Biết đâu chính mình sẽ còn chạy và
chạy hơn thế nữa khi trong khoảnh khắc chỉ một trái
pháo hay viên đạn lạc chỉ cần xướt qua chạm phải
thần kinh nào đó cũng là chuyện trở nên bình thường
và có lẽ lịch sử qua bao bài học với những gì còn
vướng vấp đến giống loài này dường như đều phải
chạy. Cụ thể những nghĩa trang dưới các chế độ cộng
sản thường đều phải di dời, có khi phải cải táng
nhiều lần. Quả là dưới chế độ bạo tàn nào dù có
chết cũng không yên và theo luật nhân quả gieo gì gặt
nấy, những ngôi mộ của họ và ngay cả xác khô dưới
đáy mồ cũng chạy và chạy trong sự thù hận của đời
sau.
Sau
đây là là bản liệt kê số tổn thất trong cuộc chiến
(phía VNCH và Mỹ):
+
Tử trận: Trên 200.000 VNCH + 58.000 Mỹ
+ Thương binh: Khoảng 600.000 VNCH + 150.000 Mỹ + Tù binh: 1 triệu VNCH + 766 Mỹ
+ Mất tích khi lâm chiến (MIA: Missing in Action): Trên 1.900 người Mỹ
Mức tổn thất và chiến phí được ước tính như sau (phía Mỹ):
+ 8.612 phi cơ đủ loại bị tiêu huỷ, gồm 3.744 có cánh và.4.868 trực thăng, tính theo đô la là $12 tỉ
+ Tổn phí về đạn dược: $35 tỉ
+ Tổn phí về bom (7,35 triệu tấn, tức gấp đôi khối lượng sử dụng trong thế chiến II): $7 tỉ
+ Tổn phí về vũ khí nặng như tăng, pháo howitzers: Nhiều tỉ đô la
+ Số nhiên liệu sử dụng mỗi ngày là 1 triệu tấn, như vậy làm trầm trọng thêm cơn khủng hoảng nhiên liệu năm 1973 Mỹ đã gặp phải.
+ Thương binh: Khoảng 600.000 VNCH + 150.000 Mỹ + Tù binh: 1 triệu VNCH + 766 Mỹ
+ Mất tích khi lâm chiến (MIA: Missing in Action): Trên 1.900 người Mỹ
Mức tổn thất và chiến phí được ước tính như sau (phía Mỹ):
+ 8.612 phi cơ đủ loại bị tiêu huỷ, gồm 3.744 có cánh và.4.868 trực thăng, tính theo đô la là $12 tỉ
+ Tổn phí về đạn dược: $35 tỉ
+ Tổn phí về bom (7,35 triệu tấn, tức gấp đôi khối lượng sử dụng trong thế chiến II): $7 tỉ
+ Tổn phí về vũ khí nặng như tăng, pháo howitzers: Nhiều tỉ đô la
+ Số nhiên liệu sử dụng mỗi ngày là 1 triệu tấn, như vậy làm trầm trọng thêm cơn khủng hoảng nhiên liệu năm 1973 Mỹ đã gặp phải.
Tóm
lại, theo ước tinh của James A. Donovan, tổng số chiến
phí là $108,6 tỉ, gồm $97,7 tỉ cho Việt Nam và $10.7 tỉ
cho Lào và Căm Bốt. Nhưng theo cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Melvin Laird, tổng chiến phí là $236 tỉ, tức $100 tỉ
lớn hơn ước tính của chính phủ và gấp đôi ước
tính của Donovan. Như vậy nếu so sánh với các cuộc
chiến tranh trước đó của Mỹ, chiến tranh Việt Nam là
cuộc chiến tranh tốn kém nhất.
Hậu
quả về kinh tế của cuộc chiến được Donovan phân tích
như sau: “…Chính phủ phải hoãn chi tiêu cho những dự
án tối cần thiết về bệnh viện, trường học, đường
sá, hệ thống chuyển vận và các nhà máy xử lý chất
thải… Hơn nữa, vì phải tập trung tài nguyên, kĩ xảo
và năng lực vào cuộc chiến, nước Mỹ đã phải trải
qua một cuộc cạnh tranh gắt gao với các nước khác và
năng suất của nó bắt đầu giảm sút. Nhưng hậu quả
kinh tế lớn nhất của cuộc chiến là làm nhụt ý chí
muốn đóng góp của cải và sức mạnh quân sự của
chúng ta vào việc bảo vệ hoà bình và sự ổn định thế
giới”. Hậu quả về tinh thần của cuộc chiến không
kém nặng nề, trước hết là Hội Chứng Việt Nam, đã
và đang giày vò lương tri Mỹ, đặc biệt là giới cựu
quân nhân đã tham chiến ở Việt Nam. Đây là chấn thương
tâm thần lớn nhất và lâu nhất trong lịch sử quân đội
Hoa Kỳ, một quân đội tự hào là chưa thua một cuộc
chiến nào trước cuộc chiến Việt Nam của họ. Ngoài ra
còn phải kể đến sự khinh miệt và bất tín nhiệm của
quân dân Mỹ đối với các nhà chính trị của họ mà họ
cho là bất tài và đã lừa dối họ khi đẩy họ vào một
cuộc chiến họ cho là vô lý, vô ích và vô vọng.
Nguyễn Quang Hồng Nhân
***
* Trich tu tac pham: Chien Tranh & Hoa Binh Viet Nam