Những tồn tích của Cộng Sản
Trong Giáo Hội Công Giáo
Nguyễn Tiến Cảnh
Vatican hiện rất quan tâm đến tình trạng của các nước hậu cộng
sản và đang tìm cách xây dựng lại một Giáo Hội đích thực của mình.
Những tồn dư của chế độ cộng sản còn đọng lại với những ảnh hưởng trầm
trọng của nó về mọi mặt cả vật chất lẫn tinh thần, từ văn hóa, giáo
dục, tôn giáo, xã hội đến kinh tế, chính trị…đang là những ưu tư
không nhỏ của những vị lãnh đạo Giáo Hội tại những nước hậu cộng sản.
Ở đây xin chỉ bàn vấn đề tinh thần một cách tổng quát dựa vào những
nhận xét của các giám mục Đông Âu được trình bày tại hội nghị ở thủ
đô Croatia mới đây, rồi từ đó rút ra một vài nhận xét / bài học cho
Giáo Hội Việt Nam[1][1].
HÔI NGHỊ ZAGREB: Những di sản của Cộng Sản
“Những vết thương và đổ vỡ do chủ nghĩa cộng sản gây ra hiện vẫn
còn tồn tại và đang đầu độc đời sống con người và xã hội nơi những
quốc gia đã một thời phải sống sau bức màn sắt”.
Đó là thông điệp của các giám mục Đông Âu đã đưa ra tại cuộc hội
thảo chuyên đề ngày 11-2-2009 tại Zagreb, thủ đô Croatia: “Sứ mạng
của Giáo Hội ở những nước Trung-Đông-Âu 20 năm sau khi chế độ cộng sản
xụp đổ: 1989-2009”.
Đây là hội nghị chuyên đề thứ ba tiếp theo hai hội nghị trước
ở Budapest năm 2004 và ở Prague năm 2007 về cùng một chủ đề như vậy
kể từ khi bức tường bá linh xụp đổ vào năm 1989.
Đức Hồng y TGM Zagreb Josip Bozanic, phó CT HĐGM Âu Châu là chủ
tịch hội nghị đã mời 13 giám mục đại diện HDGM Âu Châu tham dự /
chia sẻ ý kiến tại hội nghị.
Ngày khai mạc Hội Nghị cũng là ngày kỷ niệm Đức HY Alojzije
Stepinac được phong Á Thánh. Các đề tài thảo luận cũng đặc biệt chú
trọng vào những tàn tích tinh thần do cộng sản để lại và những di sản
của các vị tử vì đạo dưới trào cộng sản.
Trong bài kết thúc hội nghị, Đức HY Bozinac đã ví “niềm tin của
Đức HY Stepinac và của các vị tử vì đạo khác như là kết quả của những
khổ đau, nhục nhằn, nhưng can trường, cương quyết không lùi bước trước
những cực hình, áp đặt và dụ dỗ ngọt bùi đầy mưu mô thâm độc của kẻ
dữ”.
Ngài bình luận:
- “Bức màn sắt là
hình ảnh của hận thù, chia rẽ, đổ vỡ, ngăn cách và vị kỷ. Nó được dựng
nên bởi con người với chủ trương ngăn cản con người đến với con người.
Chủ trương đó còn thâm độc hơn nhiều nữa là ngăn cản con người hướng
về Thiên Chúa và nhận biết tình thương yêu của Ngài”.
- “Khi mà con người
–ĐHY nói tiếp- dựng nên bức tường ngăn cách đó thì Thiên Chúa
lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó
chết đi….. Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến
đất lành thành sỏi đá thì chính đất đó lại phát sinh ra hoa trái”.
….CHO ĐẾN BÂY GIỜ
Đức Hồng Y báo động: “Mặc dù chúng ta có cảm tưởng là hệ thống
cai trị của chủ nghĩa cộng sản đã tan vỡ, ngừng không còn hoạt động
với những hình thức như trước kia nữa, nhưng nó đã biến hình đổi dạng
thay cách, trong khi môi trường, đất sống là nơi con cháu chúng ta /
thế hệ trẻ phải sinh ra và hít thở để sống đã bị chúng làm nhiễm độc
vấy bẩn rồi”.
Thực vậy, một trong những thắc mắc mà đa số các hội thảo viên
lưu ý các giám mục là cho dù chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, nhưng
“cấu trúc của nó vẫn còn tồn tại cả về lập pháp lẫn tư pháp, cả về
kinh tế, giáo dục lẫn văn hóa” và đặc biệt “ cung cách suy tư của
con người, tâm tình đối xữ với nhau, những biến cố, hiện tượng ở quá
khứ vẫn âm thầm ẩn náu dưới bức màn che thầm kín gọi là ‘yên lặng’
“.
Đức hồng y đặt câu hỏi và lưu ý mọi người, nhất là những vị có
trách nhiệm trong Giáo hội để tìm hiểu lý do hầu có phương cách sửa
chữa.
- “Vậy thì làm sao
có thể cắt nghĩa được hiện tượng là đã 20 năm sau khi chế độ cộng sản
xụp đổ mà người ta vẫn không dám nhìn nhận sự thật, chẳng hạn như ở
Croatia người ta vẫn né tránh không dám nói đến ĐHY Stepinac?”[2][2]
Ngài tiếp tục bình luận:
- “Những con cái của
dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ của “Bức Màn”, lợi dụng
đó để ẩn náu và làm thành một lớp sương mù bao phủ sự thật về cả cá
nhân lẫn cơ quan tổ chức. Nhờ bức màn còn sót lại đó người ta lại
reo mầm mống chia rẽ và nghi ngờ.”
Đức Hồng Y Bozinac nói tiếp:
- “Sự thật là bức
màn sắt đó đã hạ xuống rồi, hệ thống cộng sản đã tan vỡ, nhưng những
mảnh nhỏ cấu kết nên nó vẫn còn tồn tại lại rất ngoan cố, luôn luôn
cổ võ cũng cùng môt loại dối trá, sai lac, bịa đặt không chỉ về mặt
chính trị cùng những tương quan liên hệ với quá khứ, mà cả về giáo dục,
khoa học và giảng huấn”.
Ngài cũng báo động “Hãy coi chừng những loại tuyên truyền quảng
bá rùm beng tiền hậu bất nhất về lịch sử, khảo cổ về loài người, nhất
là vấn đề đời sống con người và gia đình xã hội.”
Ngài nhắn nhủ:
- “Chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý hay cho phép tạo bất
cứ một ảnh hưởng chính trị nào liên quan đến những vấn nại trên, bởi
vì đó không phải là vấn đề để con người đồng ý hay không mà đó chính
là trung tâm điểm của sự thật mà chúng ta là nguồn gốc”.
Một vấn nại nữa mà Đức Hồng Y nhắc tới là vấn đề hiệp thông
giữa các Giáo hội, một sự hiệp thông mà những tay gọi là “siêu lý
tưởng cố gắng phá vỡ, ngăn cách” những tín hữu ở phương Đông với
những tín hữu phương Tây. Ngài kêu gọi những người hiện diện
“đừng quên rằng các Giáo Hội trong thế giới tự do luôn luôn yểm trợ
chúng ta rất mạnh mẽ và đắc lực, bởi vì nhờ sự hiệp thông, thống
nhất và đoàn kết đó mà Giáo hội đã tiến những bước tiến tử đạo vĩ
đại”.
Trong một lúc khác Đức Hồng y Bozanic đã lưu ý mọi người: Đây
là lúc “phải rao truyền Tin Mừng một cách mới mẻ và can đảm hầu khôi
phục lại căn gốc Kitô giáo thực sự của chúng ta, là lúc chúng ta
phải trả lời / đáp lại những thách đố và khiêu khích của những người
chủ trương thuyết loại suy và nhất là tính độc đoán của những người
chủ trương thuyết tương đối”.
Các Giám Mục cũng đã nhắc mọi người nên để ý đến những thách đố
và đòi hỏi của việc toàn cầu hóa, đạo đức sinh học, khoa thần kinh học,
vấn đề di dân và việc thiết lập một trật tự mới thế giới không kém
gì việc bảo vệ tự do lương tâm và những lý tưởng mới, nhất là những
lý tưởng liên quan đến đời sống con người và gia đình.
KHÔI PHỤC LẠI QUÁ KHỨ
Văn phòng thư ký của Đức Hồng y chủ tịch hội nghị đã đưa ra một
lời kêu gọi: “ Chế độ cộng sản đã qua đi, nhưng tàn dư của nó vẫn
tồn tại cùng với những vết thương vẫn ảnh hưởng sâu đậm trên con người
và xã hội. Vì vậy cần phải có sự phù trợ giúp đỡ của Thiên Chúa và
Giáo Hội để những vết thương đổ vỡ ấy mau được hàn gắn lại”.
Tất cả các nhóm thảo luận đều đặc biệt chú ý đến sự cần thiết
phải có Giáo hội giúp đỡ hầu khơi động lại “Ký Ức Lịch Sử” về những
năm tháng dưới chế độ cộng sản để chiến đấu chống lại phong cách và
khuynh hướng “cố quên lịch sử”, “NÍN LẶNG DĨ VÃNG”, không muốn nói
đến, nhắc lại những sự việc, những biến cố đã thực sự xẩy ra, nhất
là về những vị tử vì đạo đã hy sinh mạng sống trong ngục tù hay dưới
bất cứ hình thức nào khác vì con người, vì Chúa và Giáo Hội.
Một đặc biệt nữa là nhu cầu giới trẻ, cần phải được giúp đỡ, hướng
dẫn để chúng “nhận biết ra lịch sử đích thực” và “luôn
luôn ghi nhớ trong tâm khảm mình những vị đã ‘vì Niềm Tin,
vì Chúa, vì Con Người’ mà hy sinh mạng sống”.
Sau cùng các Giám mục đã quyết định tổ chức một Hội Nghị về Lịch
Sử để thảo luận về đời sống của Giáo Hội và những việc làm của giáo
dân trong thời kỳ cộng sản.
MỘT VÀI NHẬN XÉT GÓP Ý
Qua nội dung của Hội Nghị, chúng ta thấy những nhận xét của Đức
Hồng y Bozanic và giáo dân đã một thời sống dưới chế độ cộng sản
cũng không khác những gì mà chúng ta thấy ở Việt Nam chúng ta bây giờ.
Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì cộng sản thì dù ở Đông hay Tây hay Á
cũng cùng theo một đường lối như nhau. Đó là dối trá, hận thù, chia
rẽ và vị kỷ. Và, tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, cần phải
tiêu giệt.
Cộng sản dạy con người gian dối. Gian dối với chính mình và với
người. Đối với cộng sản, không ai có quyền nghĩ và hành động khác với
đường lối, lập trường của bác và đảng. Nghĩ khác, làm khác với đảng
và nhà nước là phải bị tiêu giệt. Do đó muốn sống thì phải nói dối,
làm gian theo đúng lời bác, đảng và nhà nước cho dù có trái với
lương tâm, ý nghĩ của mình.
Cộng sản không nhân nhượng với kẻ thù. Họ quan niệm “giết lầm
còn hơn tha lầm”. Ai cũng biết câu nói ghê rợn của người cộng sản
trong đấu tố cải cách ruộng đất: “Đào tận gốc Tróc tận rễ…”,
nghĩa là không để sót một tên cường hào ác bá ác ôn nào. Hãy
nhìn những gì xẩy ra ở miến nam Việt Nam sau 30-4-75 thì rõ. Những
người lính VNCH đã chết, có muốn mồ yên mả đẹp cũng không xong. Một
cái bia kỷ niệm của những người vượt biên chết trên đường tỵ nạn ở
những nơi xa xôi mãi tận Nam Dương cũng không được phép tồn tại….[3][3]
Từ dối trá, hận thù đi đến vị kỷ quả không xa. Con người sống
trong xã hội cộng sản chỉ biết có mình, chỉ lo cho mình để sống còn,
bởi lẽ người cộng sản buộc mọi người phải tự kiểm thảo, tố cáo nhau
để trở thành người gọi là “công dân tốt”. Con người không còn tình
người nữa, hết cả luân thường đạo lý, lễ phép ở đời. Một ông bạn về
Việt Nam thăm gia đình, ông đã cố gắng hòa đồng để không ai nhận ra
ông là “việt kiều”, nhưng vẫn bị lộ tẩy ngay ở Saigon. Tại sao?
-
Bà bán cho tôi ly café.
Bà chủ quán đem ly café ra cho ông bạn.
-
Cám ơn bà chủ.
-
Ông là việt kiều phải không? Bà chủ hỏi.
-
Sao mà bà biết?
-
Bởi vì ông biết “cám ơn”. Ở đây có ai cám ơn
ai bao giờ đâu!
Một câu chuyện xẩy ra ở Hanội:
Lần đầu tiên mới tới Hanội, tôi không khỏi bỡ
ngỡ khi tìm nhà của một người quen làm trưởng một khu phố văn hóa.
Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài ngõ, tôi hỏi:
-
Này, các cháu có biết nhà ông xã trưởng khu
phố văn hóa ở đâu không?
Một đứa trẻ trai, trạc trên dưới 10 tuổi, ngước
nhìn tôi bằng đôi mắt xấc láo, ranh mãnh, đáp gọn lỏn:
- Biết, nhưng đéo chỉ ¡
Tôi lắc đầu đi sâu vào ngõ văn hóa, gặp một
thanh niên hỏi.
-
Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố
văn hóa này ở chỗ nào không anh?
Gã trẻ tuổi này chẳng thèm dòm ngó gì đến tôi,
trả lời cộc lốc: “đéo biết”.
Khi gặp ông trưởng khu phố văn hóa, tôi đem
chuyện này kể cho ông ta nghe với lời than thở: “Anh ạ, các bậc phụ
huynh ở đây đã không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với
người khách lạ thô bỉ đến thế anh?”!
Chẳng cần suy nghĩ gì, ông trưởng khu phố văn
hóa đã thuận miệng trả lời ngay: “có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó
đéo nghe ¡”
Lúc ấy có cô con gái của ông bạn tôi là cô giáo
dạy môn văn vừa đi dạy về và tôi đem chuyện ra kể lại. Thay vì trả
lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một chuyện như sau:
-
Hôm ấy cháu giảng bài văn, có đoạn kể thành
tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đánh gục Tây, đánh nhào Mỹ,
v.v….Cuối cùng cháu kêu một em học trò trai lớn nhất lớp, bảo nó cắt
nghĩa hai chữ “dũng cảm” là gì . Nó đứng lên suy nghĩ một lúc rồi
đáp gọn lỏn:
- Nghĩa là…., là…đéo
sợ.
Sau đó cháu lại có cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và
đào tạo, liền đem chuyện thằng bé học trò cắt nghĩa hai chữ «dũng
cảm» là «đéo sợ» cho ông nghe. Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm
chiêu, ra điều suy nghĩ mung lung lắm. Cuối cùng ông nghiêm nghị
nhìn cháu rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa khám phá ra một
chân lý, chậm rãi đáp :
- Ừ, mà nó cắt nghĩa
như thế cũng đéo sai !....
Đấy, bây giờ luân lý đạo đức của con người dưới chế độ này là
như thế đấy. Rồi đây các thế hệ trẻ miền Nam cũng vậy thôi. Làm sao
tránh được
[4][4].
Đó, phải chăng con người đã sinh ra nơi đất cằn sỏi đá đã phải
hít thở cái không khí đã bị nhiễm độc.
Một câu chuyện khác do chính người viết chứng kiến khi còn
trong trại tù cải tạo. Một hôm mấy anh em tù ngồi nói truyện với anh
quản giáo. Anh quản giáo khoe :
- Tôi sắp được đi nghỉ
phép về Bắc một tháng. Đã gần 30 năm xa nhà vào Nam chưa bao giờ
được đi phép, nay hòa bình rồi mới được đi đấy.
- Chà ! –mấy anh em tù
đều lên tiếng- lâu ngày như vậy, chắc khi gặp lại chị hẳn phải vui
lắm phải không anh ?
- Ấy chết ! đâu có được.
Mấy ngày đầu, tôi còn phải nghe ngóng xem vợ tôi nó thế nào chứ đâu
có bỗng chốc tự nhiên nhảy vào giường với nó ngay được !!!
Con người trong xã hội cộng sản có ai tin ai đâu. Chỉ có nghi
ngờ, vị kỷ. Vì thế đâu còn tình yêu thương nhau.
Một ông bạn về Việt Nam chơi, vì sợ thất lạc giấy thông hành
Visa / Passport nên gửi bà chị và ông anh rể giữ hộ. Sau hơn một tuần
đi chơi khắp Trung Nam Bắc, trước khi trở lại Hoa Kỳ, anh bạn xin bà
chị cho lại cái Visa, nhưng ông anh rể và bà chị nhất định đòi chuộc
lại với giá 5000 dollars. Cũng may ông bạn đó còn đủ tiền nên cắn
răng nộp cho bà chị để lấy lại tờ thông hành.
Biết bao nhiêu điều chướng tai gai mắt xẩy ra hàng ngày từ
trong gia đình đến xã hội, cửa quyền, học đường, cho chí cả tôn giáo,
tất cả đều đổ vỡ, luân thường đạo lý đảo lộn không nhiều thì ít. Người
ta chỉ biết có tiền. Riết rồi người ta coi những cái bất thường ấy
như là bình thường, chẳng có gì phải thắc mắc.
Một xã hội tha hóa, trong đó nạn xì ke ma túy, rượu chè, trộm cắp
tràn ngập; chính quyền thì tham nhũng hối lộ, cửa quyền, tha hồ bóc
lột ức hiếp người dân. Học đường mất căn bản giáo dục, bằng cấp giả,
có tiền thì có bằng không cần một ngày đến trường v.v…Đó là chưa nói
đến giảng huấn, người ta có dạy cho học sinh / sinh viên sự thật
không hay chỉ toàn là dối trá sai lạc để tạo một ảnh hưởng chủ đích
riêng của họ. Nói một đàng làm một nẻo. Không dám nhìn nhận sự thật,
nhắc tới sự thật. Để quên đi sự thật.
Đó là chủ đích / thái độ ngăn cản con người đến với con người,
con người đến với Thiên Chúa. Tôi đã từng nghe câu chuyện bác Hồ và
kinh Lạy Cha của Công Giáo. Người ta biểu trẻ em công giáo đọc kinh
« Lạy Cha » xem Chúa có cho cơm ăn như trong kinh nói không thì
không thấy Chúa cho cơm ăn.. Nhưng khi đám trẻ xin bác Hồ bánh thì
có bánh liền. Nội dung câu chuyện như vậy cũng thường xẩy ra ở những
nước cộng sản khác như Cuba và Liên Sô mà những người bạn Cuba và
Nga Sô của tôi đã kể cho nghe giống y chang vậy. Cộng sản đã duy vật
hóa, phàm tục hóa tôn giáo để gây ác cảm với tôn giáo, cũng chỉ với
mục đích không muốn con người đến với tôn giáo và tin vào Thiên Chúa.
Muốn thăng tiến nghề nghiệp, có việc làm tốt, lương cao thì phải giã
từ tôn giáo. Có biết bao bác sĩ trẻ tuổi mới ra trường không kiếm ra
job, phải bỏ đạo để có việc làm và thăng quan tiến chức. Cộng sản
coi tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, là kẻ thù nhất là
công giáo, không thể đội trời chung, cần phải hủy giệt. Nếu không giệt
được thì bằng mọi cách phải phàm tục hóa, làm mất uy tín, cô lâp để
cho bị tê liệt luôn..
LÀM SAO ĐỂ SỐNG CHUNG VỚI NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO
Đức HY Phạm minh Mẫn yêu cầu trí thức công giáo / câu lạc bộ
Nguyễn văn Bình dựa vào kinh nghiệm sống của Giáo Hội miền Bắc trước
1975 và Giáo Hội miền Nam sau 1975 để nghiên cứu tìm phương cách làm
sao để giữ đạo, sống đạo và hành đạo. Nghe đầu đề đó thì đã hiểu ra
là « làm sao để hòa hợp hòa giải với Cộng sản » để Giáo Hội được
thoải mái và hành đạo, bởi lẽ Giáo Hội miền Bắc từ 1945 đến 1975 đã
tuyệt đối không hợp tác với cộng sản và Giáo Hội đã bị trù dập, đàn
áp và cô lập về mọi mặt trong khi đó Giáo Hội miền Nam đã phần nào
hòa đồng hợp tác với cộng sản nên Giáo Hội xem có vẻ được thong thả
hơn so với Giáo hội miền Bắc.
Nhìn bề ngoài thì vậy nhưng không phải vậy đâu. Hoàn cảnh không
gian và thời gian ở hai miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau. Nếu cứ so
sánh cách đối sử của Giáo Hội miền Bắc và Giáo Hội miền Nam đối với
cộng sản và nhìn vào cái mặt nổi bề ngoài của Giáo Hội hai miền ở
mỗi thời rồi rút ra bài học thực hành thì e rằng không được chỉnh và
nguy hiểm. Chúng ta cần phải phân tích từng hoàn cảnh với những chi
tiết chính trị văn hóa xã hội tôn giáo của từng miền và từng trường
hợp hầu tìm hiểu cho ra lý do tại sao.
Dĩ nhiên Giáo Hội rất ưu tư về tình trạng sa sút luân lý đạo
đức của xã hội / đất nước Việt Nam nói chung và của Giáo Hội công
giáo nói riêng và mong ước có cơ hội, hoàn cảnh được tự do để chăm
lo, cải tổ giáo hội và xã hội.
Điều đó cần phải có sự trợ giúp hay ít ra là được sự đồng ý của
chính quyền để cho mình tự do làm công tác bác ái, xã hội, y tế và
văn hóa, giáo duc….
Chúng tôi không dám đưa ra một kết luận khẳng quyết là Giáo hội
phải sống với chính quyền thế nào, bởi lẽ nếu đề nghị nên hòa hợp
hòa giải với chính quyền bằng mọi giá thì sợ rằng có những khâu nó
trái với giáo huấn của Giáo hội, với Tin Mừng hay quyền hạn tự do
tôn giáo bị xâm phạm thì e rằng đề nghị đó trái với lương tâm và
lòng yêu nước chân chính của mình đồng thời lại mang tiếng là hèn
nhát. Ngược lại nếu đề nghị Giáo Hội phải đi theo đường lối cương
quyết chống lại tội ác và cái xã hội tha hóa vô luân thì sẽ bị kết
tội là cực đoan, « chỉ nói cái lỗ miệng, nói thì dễ làm mới khó, về
Việt Nam mà nói. Hãy nhìn Giáo Hội miền Bắc từ 19 45-1975 xem nó thê
thảm thế nào ».
Thực vậy, lý luận nào cũng có lý của nó, nhưng nên để ý xem nó
có hợp với lương tâm chính trực của người công giáo hay không, có
trong sáng hay không, có bị miệng tiếng đời dị nghị hay không, và
nhất là kết quả / hậu quả của việc mình làm có tính vĩnh cửu hay
không. Phát triển nhà thờ, nhà xứ hoành tráng để khoe trương nơi thị
thành không phải là việc làm cần thiết và đủ. Tôi còn nhớ khi phong
trào trong nước ồn ào ra hải ngoại quyên tiền để trùng tu, xây nhà
thờ, chúng tôi có đề nghị quyên góp để sửa sang lại nhà thờ lớn
Hanội thì Đức HY Tụng đã khuyên không nên làm nhà thờ cho to lớn,
cho đẹp bề ngoài, chỉ cần tu bổ những nơi bị tàn phá không thể xử
dụng được nữa và nhất là phải tu bổ tâm hồn mới là quan trọng. Bằng
cớ là nhà thờ lớn Hanội cho đến nay vẫn còn nguyên dạng từ xưa, mặc
dù xuống cấp rất nhiều, rất cần phải tu sửa lại. Uống một viên thuốc
để cho qua cơn đau tạm bợ nhất thời, nhưng không chữa được căn
nguyên của bệnh thì cách trị liệu đó không đúng. Thầy thuốc giỏi là
thầy thuốc chữa được tuyệt nọc căn gốc của bệnh.
Giáo Hội miền Bắc cương quyết không hợp tác với nhà nước cũng
có lý do của họ. Giáo Hội bị trù dập, tàn phá nhưng đức tin đạo lý
của họ không mất, trái lại hoa trái tốt vẫn nảy nở sinh ra nơi miền
đất hưu quạnh đó. Biết bao anh hùng thánh đã thể hiện nơi Giáo Hội
miền Bắc, đúng như Đức HY Bozanic đã nói : « Khi mà con người
dựng nên bức màn sắt ngăn cách thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như
những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi…Và rõ
ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành
sỏi đá thì chính ở đó lại phát sinh ra hoa trái.. » Một HY Trinh
như Khuê, HY Trịnh văn Căn, HY Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn
văn Vinh, một thày giảng Đỗ bá Lung ở xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên và biết
bao ông trùm ông chương đã phải chết rục tù vì quyết giữ niềm tin
vào Chúa v.v….đã không mang tiếng là hèn nhát mà còn để danh thơm
lưu truyền đến muôn đời trong lịch sử Giáo hội. Các ngài đâu cần
những lời ca ngợi của chính quyền trần thế…để lúc chết có vòng hoa
phúng điếu lộng lẫy, có lời chia buồn thương tiếc của chủ tịch nước,
tổng bí thư đảng, thủ tướng, để nhà nước lấy tên đặt tên đường phố
hay cơ sở...…Đức HY Tụng lúc nằm xuống chỉ cần tiếng Chúa kêu gọi :
« Con đã can trường chịu đựng gian khổ vì ta, hãy về với ta trên
thiên đàng » chứ đâu có cần những lời chúc tụng của thế quyền mà
đôi khi còn làm phật lòng, cau mày những người từng cảm phục kính
trọng ngài. Và đúng vậy Chúa đã chiều lòng ngài không để cho chủ
tịch, tổng bí thư, thủ tướng….phân ưu, mang vòng hoa phúng điếu,
trái lại họ còn làm khó dễ….Tại sao vậy? Các ngài đã là những mục
tử, kẻ sĩ chính danh « Tôi trung chỉ thờ có một Chúa »
[5][5]
.
THỜI THẾ CỦA GIÁO HỘI MIỀN BẮC : KHÔNG CÒN CHỌN LỰA NÀO
KHÁC
Giáo Hội miền Bắc nhất định không hợp tác vói chính quyền cộng
sản vì các ngài đã hiểu và biết rõ chủ đích cùng dã tâm của họ :
« Tôn giáo (công giáo) là kẻ thù cần phải giệt trừ », và châm ngôn
hành động của họ là : « cứu cách biện minh cho phương tiện ». Vì vậy
dù có hợp tác hay không thì tôn giáo / Giáo Hội vẫn bị họ trù dập và
truy nã bằng cách này hay cách khác tùy thời tùy thế.
Giáo Hội miền Bắc kể từ sống bến Hải trở ra gồm có địa phận
Vinh, địa Thanh Hóa, địa phận Bùi Chu, địa phận Phát Diệm, địa phận
Thái Bình, địa phận Hưng Hóa, địa phận Lạng Sơn, địa phận Hải
Phòng, địa phận Bắc Ninh và địa phận Hanoi. Để cho đơn giản, xin lấy
địa phận Hanội là giáo phận thủ đô làm chuẩn để nhận xét và phân
tích tình hình.
Giáo Hội miền Bắc bất hạnh vì bị rơi vào thời mà chủ nghĩa cộng
sản còn đang thịnh hành. Họ thẳng tay thi hành chính sách của họ.
Bức màn sắt kiên cố đã ngăn cách người dân với thế giới bên ngoài.
Họ không cho thế giới bên ngoài biết việc họ làm và họ cũng chẳng
cần sự giúp đỡ của bên ngoài, trái lại với Giáo Hội miền Nam sau
1975 và nhất là sau 1989 khi chế độ cộng sản Nga và Đông Âu hoàn
toàn xụp đổ, bức màn sắt đã hạ xuống, hơn 2 triệu người dân miền Nam
liều chết vượt biển tìm tự do đã làm cho cộng sản luýnh quýnh, cộng
thêm kinh tế xuống cấp thê thảm buộc họ phải thay đổi đường lối hành
động. Họ đã trở thành con cắc kè mới. Có người quá đơn sơ và ấu trĩ
đến độ giản dị cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với
chính quyền nên Giáo Hội bị bách hại. Ở thời kỳ này, dù có hợp tác
hay không thì Giáo Hội vẫn bị truy nã và trù dập như thường, vì vậy
các ngài thà rằng bất hợp tác, chấp nhận đau khổ, chấp nhận một giáo
hội hầm trú còn hơn là xum xoe với nhà nước. Cùng lắm là họ chỉ bố
thí cho Giáo Hội những cái mà đáng lẽ mình đương nhiên phải có,
những cái chẳng thiết yếu gì mà chỉ để khoe trương, lòe bịp dư luận
hầu xoa dịu chống đối như cũng thấy hiện diện rõ nét ở miền Nam sau
này. Họ không bao giờ buông thả những điều cốt lõi của đạo, của Giáo
Hội và của con người. Giáo Hội miền Bắc đã có lúc phải thà tự đóng
cửa tiểu chủng viện và đại chủng viện, sơ tán chủng sinh về với gia
đình hơn là để cho chính quyền CS điều khiển, định đoạt chương trình
giáo dục cho các chủng sinh, quyền tuyển chọn chủng sinh, cho người
nhà nước vào dạy những môn chính trị và học thuyết mà Giáo Hội không
cần. Khôi hài hơn nữa là Giáo Hội lại phải trả tiền cho giáo viên
khi mà mình không yêu cầu họ vào dạy. Dĩ nhiên một Giáo Hội chân
chính.không thể coi việc nhà nước cho phép mở cửa tiểu chủng viện /
đại chủng viện loại như vậy là một đặc ân mà phải rùm beng khoe là
thành tích vì biết hòa đồng với nhà nước.
Xin kể một câu chuyện đã xẩy ra ở nhà thờ lớn Hanội khi cha
Nguyễn văn Vinh là tổng đại diện kiêm chính xứ. Trước ngày lễ Giáng
Sinh 1958, nhà nước tự động cho người đến trang hoàng treo đèn kết
hoa, cờ xí ngập trời trước nhà thờ gọi là để mừng Chúa Giáng sinh.
Có người báo tin cho cha Tổng đại diện Vinh, ngài chạy ra phản đối,
yêu cầu họ ngừng thì kết quả là cha Trịnh văn Căn là phó xứ (sau này
lên giám mục rồi hồng y) 12 tháng tù treo, 3 giáo dân Đáng, Chính,
Nhiễu bị phạt cảnh cáo, riêng cha chính Vinh bị 18 tháng tù ngồi vì
tội phá rối trị an, vu khống xuyên tạc chế độ và gây chia rẽ nhân
dân để rồi bị giam ở Hỏa Lò rồi lên Yên Báy kiên giam, biệt giam ở
trại Cổng Trời, trại tù khét tiếng nhất, ác nghiệt nhất ở mãi tận Hà
giang, Tuyên Quang, ai đến đó thì chỉ có chết. Vào năm 1975 khi đã
chiếm được miền Nam, Đức Cha Khuê hỏi chính phủ « Cha Vinh của tôi
đâu rồi? » thì được trả lời là tuần sau thì cha Vinh về. Nhưng cha
Vinh đã không bao giờ trở về. Sau 12 năm bị ngục tù cực khổ hành hạ
thân xác lẫn tinh thần cha Vinh đã kết thúc cuộc đời về với Chúa tại
trại cổng trời trong khi án tòa chỉ có 18 tháng tù.
Nhìn bề ngoài thì ai dám nói là nhà nước cộng sản chống phá tôn
giáo. Họ giúp đỡ, khuyến khích, tạo cơ hội để Giáo Hội tổ chức lễ
hội đấy chứ, như mới đây họ cũng lại đã từng tuyên bố tại Hội Đồng
Nhân dân thành phố Hanội trong buổi trao đổi ý kiến với Đức Tổng
Giám Mục Ngô quang Kiệt và các cha dòng Chúa Cứu Thế về vụ Tòa Khâm
sứ và Thái Hà rằng nhà nước đã giúp đỡ, tạo cơ hội dễ dàng cho sinh
hoạt tôn giáo nhưng đã bị TGM Ngô quang Kiệt phản bác lại. Người ta
làm vậy, nói vậy mà không phải vậy đâu..
Sau vụ Noel 1958 xẩy ra ở nhà thờ lớn với cha chính Vinh, cha
Căn và ba giáo dân bị mang ra tòa rồi tù tội, ra điều để cho vui vẻ
giữa hai bên nhà nước và công giáo, chính phủ đề nghị với Tòa Giám
Mục thành lập một Ủy Ban liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội, mọi
việc liên quan giữa hai bên phải đi qua ủy ban này, nhưng các thành
viên thì Tòa Giám mục không được có ý kiến, nghĩa là không có quyền
chọn lựa mà do nhà nước sắp đặt
[6][6].
Tòa Giám mục không đồng ý với cái tổ chức đó vì biết rằng đây chỉ là
một tổ chức tiền Giáo Hội ly khai giống như ở bên Tàu.
Thế là Tòa Tổng Giám Mục và các linh mục trí thức nòng cốt của
địa phận có vấn đề và bắt đầu bị làm khó dễ. Cha Tổng đại diện
Nguyễn văn Vinh, du hoc Pháp, ngừoi rất tài giỏi và cương quyết đã
từng chống đối cả tướng De Lattre de Tassigny bị đem ra làm vật tế
thần đầu tiên để dằn mặt như đã nói trên, tiếp đến Đức Giám Mục
Trịnh như Khuê[7][7]
bị cấm không cho ra khỏi Tòa giám mục, coi như bị giam lỏng, rồi cha
Phạm hân Quynh, từng du học Pháp, thư ký TGM bị cô lập, quản thúc
tại một giáo xứ ở nhà quê 28 năm (1960-1988), cha Nguyễn trọng Oánh,
du hoc Hoa Kỳ về Hanội năm 1955, đúng vào lúc đất nước chia đôi, bị
quản thúc biệt giam tại giáo xư làng quê Truôn Thượng từ 1961 đến
1985 mới được tạm tự do đi lại về giáo xứ Hà Thao thì chết ở đó. Cha
Nguyễn văn Thông, du học Bỉ và Pháp về Hanội năm 1955 cùng với cha
Oánh cũng bị bắt đem ra tòa kết án 13 năm tù và 3 năm quản chế vì
tội tàng trữ sách khiêu dâm, sách báo ngoại quốc và làm gián diệp
CIA. Bị giam lúc đầu ở Hỏa Lò 4 năm rồi trại Cổng trời, về Lào Cay
rồi lại Cổng trời, rồi lại Hỏa Lò. Cộng chung tất cả là 23 năm tù
trong khi án kêu chỉ có 13 năm, rồi vẫn chưa tha lại còn bị quản
thúc, cô lập, ngăn cách với mọi người nơi đồng không mông quạnh 10
năm trời nữa 1976-1987). Khi được thả ra thì đã thân già sức kiệt,
cha Thông qua đời năm 1991[8][8].
Như vậy là tất cả các linh mục ưu tú nòng cốt của địa phận
Hanội đều bị cô lập, tù đầy cho đến chết, không có được cơ hội phục
vụ Giáo Hội, giúp Đức Giám Mục theo như ý nguyện. Đúng là chủ đích
của cộng sản muốn giết rắn thì phải chặt đầu. Các ngài bị trù dập,
đàn áp, tù đầy cho đến chết, nhưng Giáo Hội đã không chết. Chính các
ngài, từ mục tử đến giáo dân, ông trùm, ông trương như những hạt
giống được Chúa gieo vào lòng đất cho chết và thối đi để sau này
sinh ra hoa trái. Phải chăng tinh thần biểu dương sức mạnh niềm tin
qua vụ Thái Hà và Tòa Khâm sứ mấy tháng trước đây chính là những
hoa trái ấy đang làm cho Giáo Hội sống lại và can trường hơn, cho
một ngày mai tươi sáng huy hoàng hơn. Trái lại cái Ủy Ban gọi là Ủy
Ban liện lạc những người công giáo yêu nước yêu hòa bình do nhà nước
lập ra để thao túng Giáo Hội bị tê liệt không thể hoạt động được vì
chẳng có giáo dân giáo sĩ nào tin theo.
Giáo Hội miền Bắc bị trù dập nhưng không bị tha hóa, bề ngoài
thì điêu tàn nhưng sức mạnh bện trong rất can trường uy dũng từ giáo
dân đến giáo sĩ, một cha chính Vinh, cha Oánh, cha Thông, một thày
giảng Đỗ bá Long, một giáo dân Lâm đình Túy….đã là những gương anh
hùng phi thường. So sánh với cảnh tù đày gọi là « cải tạo » của
những giáo sĩ, giáo dân ở miền Nam sau 1975 thì cái tù của những
người miền Nam, mặc dù đã là tàn ác không kể xiết nhưng cũng chẳng
thấm vào đâu so với cảnh tù đầy, trù dập, khủng bố những vị ở miền
Bắc.
HOÀN CẢNH GIÁO HỘI MIỀN NAM SAU 1975
Nếu biểu rằng vì Giáo Hội miền Bắc không
chịu hợp tác với nhà nước nên mới bị đàn áp thì e rằng không đúng
cho lắm. Nhìn vào cái tội danh mà người cộng sản áp đặt lên các cha
Vinh, cha Thông, giáo sĩ, giáo dân v.v….để bắt bớ giam cầm thì đủ
biết đó chỉ là cái cớ để họ trù dập và tiêu giệt tôn giáo. Một cựu
đại úy quân đội quốc gia, ông Kiều duy Vĩnh, sau hiệp định Geneve
1954 chia đôi đất nước đã ở lại miền Bắc và bị tù đày triền miên cho
tới năm 1975 đã kể lại cho biết là « nếu ông có đạo công giáo, biết
làm dấu thánh giá thì ông không thể sống sót cho đến ngày nay[9][9].
Giáo Hội miền Bắc, nói thực ra, có muốn hợp tác với chính quyền để
xây dựng đất nước một cách chính trực cũng không được. Ở miền Nam
sau 1975, khi CS chưa mở cửa, thì tình trạng xẩy ra cũng giống y
chang ở miền Bắc sau năm 1954 mà thôi. Ai có thể nói là vì Giáo Hội
miền Nam chịu hợp tác với nhà nước nên họ để cho yên lành và tự do
hành đạo ?
Chúng ta có thể chia Giáo Hội miền Nam làm
hai thời kỳ : Thời kỳ chưa cởi trói và thời kỳ bắt đầu mở cửa, cởi
trói.
Thời kỳ quá độ / chưa cởi trói (1975-1989)
Khi cộng sản tiến chiếm Saigon ngày 30-4-75,
Giáo Hội miền Nam -không kể những giáo sĩ và giáo dân vượt biên chạy
trốn đi tỵ nạn ở nước ngoài- giáo dân cũng như giáo sĩ còn lại ai
cũng muốn hòa nhịp với làn sóng « cánh mạng », vì nghĩ rằng đất nước
đã hòa bình thì phải hợp tác với chính quyền mới để xây dựng đất
nước. Đa số người dân chưa hiểu cộng sản là gì đều nghĩ rằng họ cũng
là những người yêu nước chân chính ? Tất cả mọi giáo phận miền Nam
đều trao nộp cho chính phủ các cơ quan, cơ sở từ thiện, giáo dục,
nhà thương, trường hoc và đặt mình dưới sự điều khiển của nhà nước
« cách mạng ».
Cứ nhìn vào Đức Cha Nguyễn kim Điền, ngay từ
những ngày đầu ngài đã tuyên bố « sẵn sàng hợp tác để xây dựng đất
nước, kiến tạo xã hội sau những năm tháng dài chiến tranh đổ nát »,
nhưng cuối cùng cũng chẳng xong. Người cộng sản quyết tâm đàn áp
tiêu giệt công giáo nên ngài không còn chọn lựa nào khác bắt buộc
phải ở tư thế tự vệ nên cũng bị trù dập, cấm đoán, đàn áp, đe dọa,
khủng bố, hàng ngày phải đến trình diện Ủy Ban Nhân dân thành phố để
‘làm việc’ để rồi cuối cùng Ngài phải chết một cách mờ ám tại bệnh
viện Chợ Rẫy. Nhiều giám mục ở những thành phố / tỉnh nhỏ xa Saigon
cũng bị làm khó dễ, cấm không cho di chuyển khỏi Tòa Giám Mục, không
được xuất ngoại đi Roma họp định kỳ viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô
và Phaolo theo luật định như Giám Mục Ban-mê-Thuộc, Đức Cha Nguyễn
Huy Mai v.v…Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh Đức Cha Nguyễn văn Bình,
TGM Saigòn cầm quốc xẻng đi thủy lợi mở màn cho chiến dịch hợp tác
với chính quyền để xây dựng đất nước của người công giáo nhưng đâu
có được yên ổn. Cộng sản đã lập sẵn một Ủy ban Công Giáo và Dân Tộc
gọi là để làm trung gian liên lạc với chính quyền, giúp Giám Mục hòa
đồng sống với nhà nước, sống đạo giữa đời, sống phúc âm giữa lòng
dân tộc, nhưng thực sự chỉ là một mưu gian xảo kế như Ủy Ban những
người công giáo yêu nước yêu hòa bình ở miền Bắc sau 1954 với mục
đích kiểm soát Giáo Hội và chủ trương ly khai. Chính những người này
gồm những linh mục quốc doanh cộng sản, giáo dân cộng sản đã trục
xuất khỏi Saigon đức Khâm sứ Tòa thánh Le Maitre, đã bắt Đức Giám
Mục phó với quyền kế vị Nguyễn văn Thuận đi tù cải tạo. Thế là tòa
giám mục Saigòn chỉ còn một mình Đức Giám Mục Nguyễn văn Bình tuổi
đã cao lại hiền lành đạo đức đơn sơ, chúng sẽ dễ dàng khống chế và
lừa phỉnh. Bao vây quanh ngài lúc bấy giờ là đủ thứ loại người từ
linh mục đến giáo dân gọi là cấp tiến yêu nước v.v…Thành lập ủy ban
này, đoàn cố vấn nọ để giúp ngài điều hành Giáo hội gọi là để qua
cơn sóng gió, nhưng thực tình là âm mưu khống chế, trù dập, làm nội
tuyến hầu dễ bề tiêu diệt Giáo Hội một cách tinh vi. Linh mục Huỳnh
công Minh là một đảng viên CS lại được đặt làm Tổng đại Diện giáo
phận, chỉ sau có Đức Cha Bình hẳn là tha hồ dòm ngó vào mọi ngóc
ngách của Giáo Hội và địa phận để kiểm soát, đe dọa, đến nỗi sau này
khi Đức cha Bình sắp chết, báo chí ngoại quốc phỏng vấn hỏi ngài cảm
nghĩ về cộng sản thì ngài chỉ nói gọn « Đến bây giờ tôi vẫn sợ… ».
Xem vậy đủ biết cái vòng bao vây kiểm soát, kìm kẹp, khủng bố tinh
thần nó ghê gớm thế nào ! Cho đến nay đã 35 năm trời mà Huỳnh công
Minh vẫn chễm chệ ngồi ở ghế Tổng Đại diện giáo phận, chánh xứ nhà
thờ Đức Bà kiêm luôn Phó Giám đốc Đại chủng viện, nơi đào tạo các
linh mục tương lai thì thử hỏi CS đã cho người của chúng nắm giữ
những chức vụ nòng cốt trong địa phận để kiểm soát Giáo Hội chặt chẽ
thế nào. Khi Đức Cha Nguyễn văn Bình đã già yếu không thể coi sóc
giáo phận được nữa, Tòa Thánh đặt Giám Mục Huỳnh văn Nghi lên thay
thế thì nhà nước bằng mọi cách ngăn cản không cho ngài về Saigòn
nhận chức chỉ vì ngài không đồng ý Huỳnh công Minh ở vị trí Tổng Đại
diện v.v…Ai biểu Đức Cha Bình chống đối nhà nước như các giám mục
miền Bắc ? Vậy mà ngài cũng vẫn còn sợ như vậy. ? Giáo Hội cũng vẫn
bị điêu linh, bị chết một cái chết không như giáo hội miền Bắc,
nhưng nó chết, tê liệt và tha hóa như sau này….mà chúng ta đã nhìn
thấy. Cái Ủy Ban đoàn kết / Công Giáo và Dân tộc đứng đầu là Huỳnh
công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…là một ổ nội
tuyến, nắm vai trò chính ủy để thao túng giáo hội.
Sau khi đã chặt được chân tay Đức cha Nguyễn
văn Bình, CS quay ra trừ khử vòng ngoài giáo hội. Các nhà dòng, tu
viện nam nữ như dòng Chúa Cứu Thế, dòng Đồng Công, dòng khổ tu Châu
Sơn, nhà thờ này, cha xứ nọ có máu mặt từ ngoài Trung vào đến Saigòn
rồi Cần Thơ nơi đồng bằng Cửu Long đều bị gán ghép những tội mà
chẳng bao giờ họ làm để lấy cớ bắt bớ bỏ tù và tịch thu tài sản hay
cơ sở như dòng Châu Sơn, dòng Đồng Công ở Thủ Đức, một dòng chuyên
tu đức cũng bị tố cáo có tàng trữ vũ khí và lương thực để chống phá
cách mạng. Thế là nhà dòng bị tịch thu, cha bề trên và các thày bị
bắt vào tù cải tạo. Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần quốc Toản
cũng bị tố cáo có súng, có quần lót, nịt vú đàn bà trong nhà để rồi
bị bắt đi tù và chết không một lần ra tòa xét xử. Cha Thi chánh xứ
nhà thờ Bắc Hà bị đập bể đầu chết trong đêm tối. Về cha Hoàng Quỳnh
thì tên Thúy, tay cận thần của ngài mấy chục năm trời, sau 1975 mới
lộ ra hắn là CS nằm vùng mang cấp bậc đại tá nói là chẳng cần giết
ngài làm chi, cứ nhốt ngài ít tháng rồi ngài sẽ chết thôi. Quả vậy
chúng nhốt ngài ở building Ngã Ba Ông Tạ thì hơn tháng sau ngài qua
đời tại đó.
Thời gian này mọi linh mục, giáo sĩ, nữ
tu, tất cả đều sợ hãi, có người không dám nhận mình là linh mục.
Người ta không thấy một linh mục hay nữ tu nào mặc áo dòng hay áo
chùng thâm đi ngoài đường. Không ai bảo ai không một ông cha hay bà
sœur nào mặc áo dòng xuất hiện trước công chúng như trước kia, ai
cũng mặc áo quần như người dân thường. Các linh mục ở mỗi địa phận
hoặc miền không được phép họp mặt định kỳ để cùng nhau cấm phòng,
suy niệm. Mất liên lạc, xa cách với giám mục bản quyền thì vấn đề
thiêng liêng đạo đức cá nhân và sinh hoạt xứ đạo sẽ bị sao lãng và
rồi nhiều điều bê bối sẽ xẩy ra mà thôi.
Đối với giáo dân, các đoàn thể, hội cầu
nguyện… cũng hết hoạt động. Việc tụ họp một, hai, ba gia đình lại
với nhau để đọc kinh cũng bị ngăn cấm. Ở nhà thờ trong giờ kinh lễ,
ông cha cũng phải giữ mồm giữ miệng nơi tòa giảng kẻo bị gán cho cái
tội chống phá cách mạng. Giáo dân thì coi chừng bị theo dõi…Vùng
kinh tế mới thì hoàn toàn không có nhà thờ, không linh mục. Khi các
sĩ quan QLVNCH bị tập trung tù cải tạo thì tất cả các linh mục tuyên
úy cũng đều bị chung một số phận tù không biết ngày về. Trong khi tù
cải tạo cũng không được phép làm lễ dù là làm riêng tư. Khi được thả
về thì không một ai được thi hành thiên chức linh mục, không được
làm mục vụ, không được về sống ở nhà xứ, không được coi xứ đạo mà
phải về sống với gia đình tản mát trong dân chúng, phải trình diện
công an khóm phường mỗi tuần mỗi tháng.
Ngăn cách giám mục với linh mục, linh mục
với giáo dân và giáo dân cách giáo dân vẫn là chủ đích của cộng sản
để làm tê liệt hầu dễ bề triệt tiêu tôn giáo.
Sau các vụ thanh toán công giáo, từ Đức Khâm
Sứ tòa thánh đến Đức Cha Nguyễn văn Thuận, Giám mục Nguyễn kim Điền,
các linh mục có máu mặt, các dòng tu nam nữ trên toàn miền Nam,
người cộng sản quay ra thao túng nội bộ một cách quyết liệt bởi Ủy
Ban Công Giáo yêu nước, các tu sĩ và giáo dân gọi là cấp tiến, trong
đó có cả linh mục Thanh Lãng gọi là để giúp Đức Cha Nguyễn văn Bình
điều hành giáo phận. Người cộng sản rất tinh khôn xảo quyệt, họ nói
toàn những điều «nhân nghĩa, đạo đức». Họ vuốt ve các giáo sĩ giáo
dân phải hành động làm sao để « Tốt Đời Đẹp Đạo ». Nhưng câu nói đó
chỉ là ngụy biện, là cái bẫy rất nguy hiểm, mục đính chỉ là phủ dụ
và tuyên truyền. Người nhẹ dạ, nông cạn tưởng thế là đúng nên bị xập
bẫy một cách dễ dàng. Đâu có biết rằng có những điều Tốt Đời theo
cộng sản xă hội chủ nghĩa chưa chắc đã Đep Đạo, hoặc ngược lại Đẹp
Đạo chưa chắc đã làm vừa lòng đảng và theo định hướng XHCN, có khi
còn bị kết án là phá hoại tình đoàn kết, là gián điệp. Linh mục
Thanh Lãng, một giáo sư đại học, vì hăng say muốn cải đổi giáo hội
và đất nước đã ùa theo đà cấp tiến làm những điều quá lố để rồi
trước khi chết đã hối hận viết thư tỏ ý ăn năn, đặc biệt xin lỗi Đức
Khâm xứ Tòa thánh. Linh mục Chân Tín, cựu linh mục Nguyễn ngọc
Lan…một thời đi với cộng sản theo đà cấp tiến mà dân Saigòn hồi
VNCH đã gọi là những ông cha cộng sản, thì bây giờ vỡ mộng. Bài
giảng xám hối của linh mục Chân Tín được giảng tại nhà thờ DCCT ở
đường Kỳ Đồng là phát súng lệnh và cũng là cái cớ để cha Chân Tín và
Nguyễn ngọc Lan bị lưu đầy và theo dõi.
Song song với thời gian đánh phá tôn giáo là
thời gian đánh tư sản mại bản, lùa người dân thành phố đi kinh tế
mới, đổi tiền, bần cùng hóa nhân dân, biến dân thành phố thành nghèo
đói phải bán đồ đạc trong nhà từ cái chổi, cái bát, đôi đũa đến cái
giường…để sống qua ngày. Thanh niên trai tráng thì phải đi thanh
niên xung phong, nghĩa vụ quân sự đi chiến trường Cao Mên. Thế là
miền Nam trở thành tiêu điều xơ xác, bị quốc tế phản đối, Hoa Kỳ cấm
vận vì tội xâm lăng Cao Mên bằng quân sự. Đây quả là thời gian đen
tối nhất, không một gia đình nào ở miền Nam mà không có mối lo,
chồng đi tù học tập cải tạo không biết ở đâu, ngày về thì mờ mịt vô
định. Ở nhà thì vợ con vừa đói khổ, vừa bị khủng bố tinh thần, bị
công an phường khóm ngày đêm theo dõi. Tình cảm thật hoang mang bất
ổn, phập phòng, lo âu sợ hãi như vậy thì còn sức đâu mà chống đối..
Dân chúng miền Nam, cả hàng triệu người, lũ lượt tìm đường vượt
biển, bất chấp hiểm nguy miễn sao trốn thoát được ách độc tài cộng
sản. Chưa có một cuộc vượt biển di cư tỵ nạn chính trị nào vĩ đại
với trăm phần hiểm nguy như cuộc vượt biển trốn cộng sản của dân
miền Nam Việt Nam đã làm rúng động thế giới, đã cải hóa biến đổi tư
duy của những kẻ đã một thời tung hô chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ cộng
sản Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam hết mình như
Bertrand Russell, Jean Paul Sartre và Raymond Aron…Thế giới sáng
mắt. Những tên phản chiến sáng mắt. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn nhất
định không chịu mở mắt, phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản hoàn
toàn xụp đổ ở Liên Sô và Đông Âu, bức tường Đông Đức bị xập vào năm
1989, lại thêm kinh tế kiệt quệ thì họ mới chịu hé mở bức màn sắt để
nhìn ra thế giới tự do bên ngoài
Thời kỳ hé mở bức màn tre và cởi trói
Dân chúng miền Nam Việt Nam thở phào nhẹ
nhõm, ước mong cộng sản Việt Nam rồi cũng sẽ xụp đổ như ở Đông Âu.
Người người hồ hỡi, hy vọng, đặt ra giả thuyết này, phỏng đoán nọ,
ước chừng kia….. » Cộng Sản sẽ xụp đổ nay mai. Nhưng cho đến
giờ…cộng sản vẫn còn đó. Tuy nhiên cộng sản không thế bơi ngược
giòng bánh xe lịch sử như họ vẫn thường rêu rao bài bác tư bản, ca
tụng chủ nghĩa cộng sản. Thế chẳng đặng đừng, cộng sản Việt Nam phải
cởi trói, cho dù chỉ được một phần nào thôi.
Việt Nam chỉ cởi trói bề ngoài phần nào
nhưng nòng cốt vẫn còn là cộng sản. Bây giờ ngồi tính lại, đảng cộng
sản Việt Nam, sau bao nhiêu lần họp đại hội, tuyên bố cải đổi, cho
tự do này nọ, nhưng nhìn kỹ việc làm của đảng cộng sản, người ta vẫn
chỉ thấy cảnh « bình mới rượu cũ » mà dân miền Nam Việt Nam đã khôi
hài gọi trại đi là hiện tượng « Vũ như Cẩn ». Đó chẳng qua là người
cộng sản đã áp dụng châm ngôn làm việc của họ : « Cứu cánh biện minh
cho phương tiện ». Mục đích của họ là ngăn cản, chèn ép tôn giáo để
cho nó chết, nếu không được thì phải làm cho mất uy tín, bị tê
liệt,. Họ đã dùng tôn giáo phá tôn giáo, nghĩa là mượn tay giáo sĩ,
linh mục, giám mục, giáo dân…để làm suy yếu giáo hội. Dùng bàn tay
nhung đối với những ai chịu nghe theo chúng, bàn tay sắt đối với
những ai cứng đầu không nghe. Chiến thuật củ cà rốt và cái gậy đã
được áp dụng triệt để. Ai chấp nhận củ cà rốt thì được dễ dãi, ưu
đãi. Ai cương quyết theo đường lối của Chúa chấp nhận cái gậy thì bị
làm khó dễ, bị hành hạ, truy nã gian khổ . Chiến thuật này ai cũng
thấy có thời đã thành công bởi lẽ con người « tinh thần thì nhẹ nhõm
mà thân xác thì nặng nề »[10][10].
Chả vậy mà đã có một thời cả Giám mục, linh mục, dì phước lũ lượt
xuất ngoại quyên tiền để làm nhà thờ, tu bổ nhà xứ, trung tâm, phát
triển đạo…, đến độ sau này có người đã la lên là họ « Xây thì ít mà
Cất thì nhiều… ! ». Quyên góp tiền để đào giếng cho giáo dân có nước
trong lành sạch sẽ uống thì chẳng thấy giếng đâu, chỉ thấy tòa Giám
Mục thì nguy nga hoành tráng, xe giám mục đi thì lộng lẫy ngon lành
hơn cả xe của tỉnh ủy….[11][11].
Và, biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã xẩy ra dòng dã bao nhiêu năm
trời. Quyên tiền về giúp đỡ các cha già hưu dưỡng thì các cha hưu
chưa hề nhìn thấy măt đồng dollar thế nào thì đùng một cái được tin
tiền đó đem kinh doanh để sinh lời đã bĩ thua lỗ mất hết cả rồi !!!
Các cha già đang hưu ở một trung tâm kia thì bị đuổi đi để lấy trung
tâm làm cư xá cho nữ sinh viên. Nếu các cha già không quyết liệt
phản đối thì nhà hưu dưỡng đã bị chiếm để biến thành nơi thương mại
mất rồi.
Cộng sản rất tâm lý, họ hiểu biết nhu cầu
của Giáo hội là cần linh mục, cần nhà thờ, cơ sở truyền đạo, tài
liệu truyền giáo …nên việc đầu tiên là họ triệt hạ, ngăn cấm những
thứ đó khiến cho nhu cầu càng trở nên cấp bách. Chúng ta thấy bước
đầu tiên là họ đóng cửa các chủng viện, dòng tu, giới hạn chủng
sinh, tu sinh bằng những điều kiện khó khăn, có khi ngược lại với
qui luật của Giáo Hội….Theo luật cung cầu, khi nhu cầu càng cao thì
giá cả lại càng đắt, dĩ nhiên họ sẽ bắt bí. Để cho có vẻ là dễ dãi,
chứng tỏ cởi mở, chính quyền lập ra những cơ quan làm trung gian.
Muốn xin điều gì thì phải qua trung gian là Ủy ban công giáo yêu
nước sau này biến thành Công Giáo và Dân tộc, Ủy ban tôn giáo, chính
quyền địa phương. Cơ chế Xin-Cho bắt đầu xuất hiện.
Ai dám nói là nhà nước không cho tự do tôn
giáo ? Có tự do đấy chứ, nhưng phải xin thì sẽ cứu xét để cho và
phải có điều kiện. Có khi đơn xin cả mười năm trời không có hồi âm,
hoặc có trả lời thì lại bị giới hạn. Chẳng hạn HĐGMVN xin phép ra
một tập san thuần túy tôn giáo từ năm 1992 mãi đến năm 2001, bộ văn
hóa thông tin mới cho HĐGM tạm thời xuất bản một bản tin phải « phù
hợp với lợi ích của đất nước và Giáo Hội ». Cũng lại một điệp khúc
kiểu Tốt Đời Đẹp Đạo. Làm sao lợi ích của giáo dân có thể phù hợp
với lợi ích của đất nước khi mà đất nước gắn liền / đồng hóa với
đảng CS ? Ngoài ra bản tin lại chỉ được ra hai tháng một lấn và mối
lần chỉ có 100 tập để phân phát cho 25 giáo phận với hơn 7 triệu
giáo dân. Ai đọc ai đừng? Cơ cấu Xin-Cho quả là một con sông cách
trở có giòng nước xoáy.
Còn biết bao nhiêu hệ thống xin cho khác
nhau nữa, riết rồi nó biến thành tụ điểm chạy chọt, tha hóa. Cái Ủy
ban công giáo yêu nước, sau này trở thành Công Giáo & Dân Tộc gồm
Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…. thì vẫn
một mặt trung thành với bác và đảng, một mặt đóng vai linh mục làm
trung gian giữa Giáo Hội và nhà nước theo đúng đường lối của đảng,
nó đã không thành công ở miền Bắc, nhưng nó đã phần nào thành công
theo ý họ ở miền Nam. Chính cái Ủy ban này đã lũng loạn Giáo Hội.
Giám mục, linh mục, cha xứ nào muốn gì phải qua nó, có khi năn nỉ,
có khi phải hối lộ…Tôi nhớ có thời linh mục nhạc sĩ Hoài Đức muốn
xuất bản sách nhạc của nhạc đoàn Lê bảo Tịnh. Một số anh em thắc mắc
làm sao có giấy phép mà in thì ngài nói là sẽ nhờ Phan khắc Từ,
nhưng rồi cũng chẳng thấy sách nhạc đâu mà tiền mất tật vẫn mang.
Đảng và nhà nước muốn Giáo Hội phải đi qua cái ủy ban môi giới giáo
gian đó, một ổ chuột linh mục có vợ có con…mà cả HY, GM không ai dám
đụng đến thì hỏi còn đâu là Giáo Hội tinh tuyền. Cộng sản đã phá nát
Giáo Hội mà có người vẫn dửng dưng coi như không biết, viện đủ mọi
lý cớ để tự an ủi cho một lương tâm co dãn, cho một thỏa hiệp khả
nghi, một quỵ lụy đắng cay hay một hèn nhát bỉ ổi... Cộng sản đã tạo
ra một xã hội cửa quyền, biến Giáo Hội phải phụ thuộc vào nó, lớn
thì có lớn, vừa thì ở giữa, dưới thì có dưới, nghĩa là một mạng lưới
chằng chịt nhưng ăn khớp với nhau và đồng nhất theo đúng đường lối
của đảng. Những cái gì đụng tới đảng thì tuyệt đối không thể chấp
nhận được. Đảng và nhà nước cứ việc uyển chuyển xoay vần bóp nắn
miễn đừng được đụng đến huyết mạch của Bác và đảng. Tha hóa là thế
đó. Một Huỳnh công Minh, tổng đại diện của giáo phận Saigon kiêm Phó
giám đốc Đại chủng viện, kiêm chánh xứ nhà thờ Đức Bà thì thử hỏi
còn cái gì có thể thoát khỏi con mắt cú vọ của ông. Tuyển sinh linh
mục thì đã phải sàng lọc từ địa phương, khi đến đại chủng viện thì
đã có Huỳnh công Minh, nắm tất cả chương trinh và kiểm soát huấn
luyện, rồi trước khi được phong chức linh mục lại phải qua một thời
kỳ cam go nữa. Được làm linh mục hay không là ở lúc này. Chuyện chạy
vàng, chạy tiền đã xẩy ra, ai cũng biết cả. Không có tiền không có
vàng vẫn được đỗ cụ thì ai cũng thấy. Giáo Hội miền Bắc trứơc 1975
đã chọn « quí hồ tinh bất quí hồ đa », linh mục chui, chấp nhận đóng
cửa cả tiểu chủng viện lẫn đại chủng viện chứ nhất định không để
đảng CS kiểm soát hoạch định chương trình huấn luyện linh mục. Từ
khi nhà nước cho phép mở đại chủng viện và kiểm soát chủng sinh từ
lúc vào chủng viện, trong khi huấn luyện, đến lúc tốt nghiệp để được
phong chức linh mục, ai có thể bảo đảm đảng CS không gài người của
họ vào hàng ngũ linh mục rồi giám mục…? Các tôn giáo khác đã có thì
làm sao công giáo lại thoát khỏi được ? Đây là một tồn tích rất nguy
hiểm mà cộng sản đã để lại trong Giáo Hội. Làm sao mà tẩy rửa cho
sạch ?
Người cộng sản có đủ mọi mánh khóe để gài
người. Trước tiên còn vì công việc mục vụ, nhu cầu đạo nên cần phải
giao thiệp ngoại giao, liên lạc, phải quà cáp biếu xén làm thân với
chính quyền, dần dà rồi có đi có lại nhậu nhẹt với nhau. Tôi đã thấy
một linh mục trước kia rất hiền lành đạo đức vậy mà sau này nhậu
nhẹt bê bết đến độ có lúc say sưa làm mất cả thể diện và nhân phẩm.
Hỏi ra tai sao lại như vậy thì ngài trả lời vì phải ngoại giao với
chính quyền nên chén anh chén tôi mới ra nông nỗi này. Rượu vào rồi
thì cái gì xẩy ra ai mà làm chủ được mình. Tình và Tiền là hai thứ
đã từng làm nhiều người điêu đứng. Một là phải qui hàng phuc vụ cho
chủ, hai là phải câm nín không nói không trả lời. Nạn nhân một khi
đã bị thuần hóa thì còn đâu là lý trí, đâu là lý tưởng. Tại sao một
địa phận trống ngôi giám mục cả mấy chục năm mà Giáo Hội không làm
sao giải quyết được? Bởi vì nhà nước không đồng ý vị giám mục do
Giáo Hội đề nghị. Chỉ khi nào Giáo Hội đề nghị người mà họ ưng ý hay
Giáo Hội chấp nhận người họ đề cử thì tòa đó mới được giải quyết.
Lúc đó có thể vị giám mục đó có vấn đề đấy ? Cái di sản đó không
biết bao giờ mới phai nhạt đi được nơi Giáo hội. Nó đã có, đang có
và vẫn còn. Tai nạn này không chỉ xẩy ra ở Việt Nam mà ở tất cả
những nước cộng sản. Một Ba Lan với tổng giám mục Stalislaw Wielgus
đã phải từ chức ngay hôm nhận chức TGM Vaxava ngày 8-1-2007 là một
điển hình.
Đó phải chăng là tự do tôn giáo mà đảng ban
cho? Khi nói là cởi trói hay cởi mở thì ta thường nghĩ là người dân
được tự do suy nghĩ và hành động về mọi chuyện. Nhưng thực ra lúc
đó nó chỉ có nghĩa về mặt kinh tế mà thôi. Kinh tế Việt Nam suy xụp
quá mức nên phải chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy qua kinh tế tự do /
thị trường, nhưng họ chưa chiu lột bỏ hoàn toàn cái ruột CS, họ còn
thêm vào sau danh từ Kinh tế thị trường 4 tiếng tréo cẳng ngỗng và
ngược đời là « theo định hướng xã hội chủ nghĩa ». Tất cả các
loại tự do khác như dân chủ, nhân quyền, báo chí / ngôn luận v.v…thì
chỉ là trò tuyên truyền bịp bợm mà thôi. Riêng về tôn giáo thì họ
vẫn rêu rao quảng bá là cho tự do tin ngưỡng đấy, nhưng thực tế họ
có đũ thứ nghị định, pháp lệnh về tôn giáo để trói buộc tôn giáo làm
cho tôn giáo hế chỗ cựa, hay đúng ra họ cho tôn giáo tự do khi việc
làm của tôn giáo có lợi cho đảng hoặc nằm dưới sự kiểm soát của đảng.
Đi ra ngoài việc kiểm soát của đảng hay có đôi chút đụng vào huyết
mạch của đảng thì tuyệt nhiên không được. Vì vậy khi nói truyện với
người cộng sản thì điều gì cũng được cả, nhưng thực tế nó không xẩy
ra như lời họ nói. Cứ nhìn những việc trước mắt và gần đây nhất thì
đủ biết : Vụ Tòa Khâm xứ, vụ Thái Hà và những vụ dân oan khiếu kiện
bị mất đất mất nhà thì đủ biết. Người cộng sản có bao giờ nhân
nhượng ai một ly ông cụ nào đâu.
Sống với một người không biết điều đã là khó,
nói chi phải đối thoại với một chính quyền toàn trị chỉ chấp nhận
những điều do họ đưa ra mà thôi.
ĐÔI LỜI KẾT
Người viết vẫn còn nhớ khi còn ở trong tù
học tập cải tao. Mỗi khi tù cải tạo phát biểu ý kiến đều phải xác
nhận lập trường của mình trước: « Tôi xin đứng về phía nhân
dân và nhà nước… ». Điều đó có nghĩa là anh muốn nói gì thì
nói, đả kích hay ca tụng, nhưng luôn luôn phải đứng trên lập trường
của nhân dân. Mà nhân dân tức là Đảng và Nhà Nước. Đi ngược lại cái
cốt lõi, huyết mạch đó là không được. Mác đã nói: « Tôn giáo là
thuốc phiện mê hoặc con người », là « kẻ thù của nhân dân » thì phải
hiểu là tôn giáo không có chỗ đứng nơi đảng cộng sản. Cứ nhìn việc
làm của họ thì hiểu ý họ. Đừng nghe những gì cộng sản nói. Đừng hy
vọng đối thoại với cộng sản để có thể cải hóa họ. Chính tổng thống
Nga Sô Yetsin, một đảng viện cộng sản nòng cốt kỳ cựu đã tuyên bố : « Cộng
sản không thể thay đổi được, chỉ có phế bỏ nó đi mà thôi ».
Vậy thì muốn sống với cộng sản, hòa giải với
cộng sản để giữ đạo và hành đạo, người Kitô hữu chỉ có thể dùng trí
thông minh, sự khôn ngoan và niềm tin cương quyết của mình mà quyết
định, như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói : « Hợp tác
nhưng đề kháng ».
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện như
một giám mục Việt Nam đã nói : Đứng trên quan điểm loài người mà
xét thì thật đáng thất vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện và ước gì lời
nguyện cầu của chúng ta được thể hiện bằng những hành động cụ thể
[12][12].
Bổn phận của Giáo Hội, của mục tử và
giáo dân là rao truyền Tin Mừng, cải tạo xã hội để giúp con người
biết thương yêu nhau như Chúa đã dạy. Muốn vậy thì công bằng và công
lý phải được thực hiện. Để xã hội có công bằng và công lý thì chính
quyền cần phải có luật pháp phân minh và luật pháp phải được thi
hành một cách công bằng.
Xã hội nào vẫn còn cảnh người bóc lột người, kẻ có quyền hà hiếp
người yếu thế thì ở đó vẫn còn cảnh bất công, chưa có công lý.
Tôn giáo cần phải phối hợp với chính quyền, giúp chính quyền,
thúc đẩy chính quyền bằng mọi cách để thực thi công bằng và công lý
để biến cải xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nghĩa là khi chính quyền
đi ngược lại lòng dân, làm điều thất đức, gây cảnh bất công trong xã
hội thì tôn giáo / người Kitô hữu có bổn phận lương tâm phải lên tiếng
yểm trợ những kẻ cô thế bị hà hiếp[13][13],
bởi lẽ loan báo Tin Mừng không phải là chỉ phục vụ phần hồn mà bỏ
quên phần xác, cũng không phải chỉ quan tâm đến ơn cứu độ cá nhân mà
lãng quên những thực tại xã hội trước mắt
[14][14].
Đó phải chăng chính là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc một cách
thực tế và cần thiết, không viển vông lý thuyết.
Đạo và Đời không thể tách lìa nhau ở điểm này.
[1][1]
.Việt Nam, tuy đã mở cửa phần nào về kinh tế và tôn giáo, bức
màn sắt không còn hiện diện, nhưng cốt lõi vẫn còn cộng sản.
Tuyên bố cho Tự Do Dân Chủ nhưng vẫn áp dụng độc tài toàn trị.
Do đó ta có thể coi VN vùa là nước cộng sản vừa là nước hậu
cộng sản. . Vì vậy việc tìm kiếm phương cách xây dựng một
Giáo Hội đích thực quả là khó khăn, đòi hỏi những nhận xét
thật sâu sắc, khôn ngoan và hành động thật cương quyết.
[2][2]
.Đức HY Stepinac là một TGM có tinh thần quốc gia mãnh liệt,
chống cả Phat Xít và CS một cách quyết liệt, không nhân nhượng.
Ngài bị CS Hung bắt tù khổ sai 15 năm. CS từ xưa và cả ngay
bây giờ vẫn cố né tránh không nói đến tên ngài. Chẳng lạ gì
ở Việt Nam, người ta cũng rất sợ, cố gắng né tránh khỏi phải
nhắc tới một Đức Cha Nguyễn kim Điền, một HY Trịnh như Khuê,
một cha chính Nguyễn văn Vinh của Hanội, một thày giảng Quế
ở xứ Đoài, thày giảng Lung ở Ngọc Đồng, Hưng Yên v.v….
[3][3]
Người Việt Nam tỵ nạn chính trị CS ở hải ngoại có dựng một
bia đá để ghi nhớ những thuyền nhân đã chết trên đường vượt
biên ở Nam Dương, nhưng đã bị nhà cầm quyền CSVN dùng ngoại
giao áp lực chính phủ Nam Dương phải phá bỏ đài tưởng niệm
đó trong khi họ vẫn kêu gọi xóa bỏ hận thù để hòa giải dân tộc
xây dựng đất nước.
[6][6]
Đức Cha Trịnh như Khuê và cha Quynh, thư ký, đã gặp Thủ Tướng
Phạm văn Đồng và Thủ Tướng đề nghị lập Ủy Ban Liên Lạc giữa
nhà nước và Giáo Hội và Thủ Tướng đã chỉ định ông Luật sư
Nguyễn thành Vinh, một người Nam tập kết làm đại diện cho
chính quyền. Đức Cha Khuê không đồng ý, muốn một người đại
diện không phải là người công giáo. Cuối cùng, nhà nước tổ
chức một mình thành lập Ủy ban liên lạc những người công
giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình, gồm các linh mục Vũ xuân Kỷ,
Nguyễn tất Tiến và hai linh mục tập kết ra Bắc là Hồ thành
Biên và Võ thành Trinh. (Tài liệu Nguyễn văn Lục)
[7][7]
Đức GM Trịnh như Khuê bị giam lỏng, cô lập trong tòa giám mục
hơn 20 năm. Hàng ngày ngài đi bách bộ đọc kinh trên sân thượng,
vết chân ngài đi nhiều đến nỗi dã tạo thành một đường mòn in
hằn trên gạch như linh mục Nguyễn hữu Lễ đã diễn tả trong
bút ký TÔI PHẢI SỐNG nơi trang 19. Sau 1975 ĐC Khuê được đi
Roma và Pháp. Lần thứ hai đi Roma lãnh chức Hồng Y, khi trở
về nước qua ngả Moscov về tới Hanội thì ngã bệnh và chết một
cách mờ ám, mặc dù trước đó ngài rất khỏe mạnh, không bệnh
hoạn.
[9][9]
Đại Úy Kiều duy Vĩnh kể lại là ông bị giam tại trại Cổng trời
15 năm. Trong số hơn 60 người theo đạo Thiên Chúa Giáo bị bắt
giam tại đây, từ linh mục đến giáo dân đều bỏ mạng tại đây.
Không có ai trở về. Đặc biệt có cha Nguyễn văn Vinh, người nổi
tiếng vì chống đối Đại tứong De Lattre De Tassigny trong việc
xếp chỗ ngồi tại nhà thờ lớn Hanội. Tất cả những người công
giáo trên đều bị kỷ luật đưa vào giam ở hang đá, trong đó rất
lạnh, không ai có thể sống sót sau một tuần lễ (Ký Ức của Kiều
duy Vĩnh)