Tham nhũng
và viễn cảnh chính trị Việt Nam
Nguyễn Quang
I.Tham nhũng chính trị tại Việt Nam
Tham
nhũng chính trị chính là sự lạm dụng quyền lực mà các chính
trị gia được giao phó để thu lợi riêng, với mục đích tăng quyền
lực hoặc tài sản.
Tại
Việt Nam xuất phát từ nền trị chính bất minh, luật pháp không dựa trên
các giá trị phổ quát nhưng chỉ là nghị quyết của Đảng, nhất là qua chiêu
bài Quốc tế vô sản song thật sự chỉ là hình thức của chủ trương nô lệ
thời mới!
Họ
Hồ khẳng định như sau: “Các cô chú nên nhớ điều nầy, ai có thể sai,
nhưng Bác Staline, Bác Mao thì không bao giờ sai cả”! Hảo tề! Đã làm
người mà không sai lầm chỉ là NGỢM!
Tố
Hữu làm thơ “Bên nầy biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê
hương”. Quê hương của ngàn năm nô lệ giặc Tàu đầy sự mỵ dân thời mới!
Kẻ
bán nước, ôm chân đế quốc chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Bán
nước có văn tự, có giấy tờ (công hàm) ký ngày 14-9-1958 cho Trung Cộng.
Nên
hà tất dẫn đến một chế độ với bao hệ lụy tham ô, nhũng lạm! Thượng bất
chánh, hạ tắc loạn! Qua sự kiện gây ồn ào một thời gian việc cha con thứ
trưởng thường trực Bộ Thương mại bị bắt vì cáo buộc nhận tội hối lộ.
Các vụ khác được công khai như các tổng công ty Dầu khí, Hàng hải, Thủy
sản, Điện lực…và đặc biệt Vinashin đến Vinalines với người đứng đầu là
những kẻ thẩm quyền của chế độ!
Ông
Phan Diễn, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban bí thư
Trung ương Đảng, được trích lời nói: “Nếu chúng ta thực hiện được
dân chủ thật sự ở các cơ quan, nâng cao tinh thần dám phê bình, nhận
xét, đấu tranh vì lợi ích chung thì những vụ việc tiêu cực, tham nhũng
sẽ khó thực hiện hơn.”
Mối
quan hệ giữa tham nhũng và dân chủ đã được nhiều nhà nghiên
cứu xác nhận, vì tham nhũng phá hủy các nguyên tắc giúp cho
một xã hội dân sự phát triển!
Trong
các báo cáo hàng năm của tổ chức Transparency International đều đặt
trọng tâm vào vấn đề tham nhũng chính trị. Trong bản báo cáo 2004, Peter
Eigen, Chủ tịch Transparency International, tuyên bố báo cáo là
lời kêu gọi “Đưa sự liêm chính và trách nhiệm vào việc trị
quốc, chấm dứt tệ hối lộ của các công ty đa quốc gia, và ngăn
dòng lưu chuyển tài sản đánh cắp vào các trương mục ngân hàng
bí mật tại phương Tây.”
Ông Chủ tịch viết tiếp: “Việc
lạm dụng quyền lực chính trị để thu lợi riêng khiến những
người nghèo nhất mất đi các dịch vụ xã hội cần thiết, tạo
nên mức độ tuyệt vọng khơi mào cho xung đột và bạo lực.”
Vậy
tham nhũng chính trị chính là sự lạm dụng quyền lực mà các
chính khách được giao phó để thu lợi riêng, với mục đích tăng
quyền lực hoặc tài sản.
Rõ hơn, Robin Hodess, một trong các tác giả báo cáo, đã nhấn mạnh: “Tham
nhũng chính trị không nhất thiết dính đến việc tiền trao tận
tay; nó còn có thể mang hình thức của việc ‘trao đổi ảnh
hưởng’ hoặc ban phát đãi ngộ để khiến nền chính trị bị đầu
độc và dân chủ bị đe dọa.”
Như
vậy tham nhũng chính trị - political corruption - khác với tham nhũng
‘cò con’ của các viên chức ở chỗ chỉ xảy ra bởi các lãnh tụ chính trị,
những người có thẩm quyền chi phối hoặc chủ động các quyền lợi của người
dân.
Theo báo cáo 2004 của Tổ chức Transparency International, tham nhũng chính trị sẽ tác hại đến toàn xã hội như sau:
“Tại
các nước đang phát triển, tham nhũng chính trị đe dọa sự sống
còn của nền dân chủ, vì nó khiến cho các định chế dân chủ
trở nên yếu ớt.
“Việc
vén màn các vụ tham nhũng có thể gây sốc cho toàn xã hội.
Nhưng một thực tế là trên thế giới, rất khó trừng phạt các
lãnh tụ bị nghi ngờ tham nhũng.
“Nhiều lãnh đạo đã rời nhiệm sở hoặc qua đời trước khi tội của họ bị phanh phui.
Transparency
International đưa ra một bảng những bị cáo tai tiếng, với ước
tính tài sản họ đã lấy đi. Nó nhắc nhở người ta về tác động
của sự lạm dụng quyền lực đối với một đất nước.
Ví
dụ, cựu tổng thống Indonesia, Suharto, bị nghi đã biển thủ từ
15 đến 35 tỉ đôla. Slobodan Milosevic, cựu tổng thống Nam Tư, bị
nghi đã lấy đi từ 2 đến 5 tỉ đôla.
Người
đứng số mười trong danh sách, cựu tổng thống Philippines Joseph
Estrada, bị nghi cuỗm khoảng từ 78 – 80 triệu đôla sau ba năm cầm
quyền.
Tham nhũng của các chính trị gia là vấn đề gây bức xúc nhất trong dân chúng.
Phong
vũ biểu đo lường thái độ người dân đối với tham nhũng - một
phương pháp đo của Transparency International – thấy rằng nếu
người dân có cây gậy thần cho phép loại bỏ tham nhũng trong một
định chế duy nhất trong xã hội, thì đa số sẽ chọn việc diệt trừ tham nhũng trong các đảng phái chính trị.
Giới doanh nhân cũng cảm nhận các tác động của tham nhũng chính trị.
Một
khảo sát của Diễn đàn kinh tế thế giới cho thấy giới doanh
nhân tin rằng việc tài trợ tiền có ảnh hưởng lớn đến chính
trị, và hối lộ là phương thức đạt các mục tiêu chính sách
tại 20% các nước được khảo sát.”[1]
II. Viễn cảnh chính trị ở Việt Nam
Có
khuynh hướng cho rằng phát triển kinh tế dẫn đến mở rộng không
gian chính trị, cho nên chính trị Việt Nam sẽ thay đổi theo
chiều hướng nào đã là chủ đề tranh luận của nhiều nhà nghiên
cứu nước ngoài cùng các nhà dân chủ trong nước.
Một
xu hướng khá phổ biến phát triển kinh tế sẽ giúp tiến trình dân chủ hóa
nhanh chóng hơn, nhiều người trở nên khá giả và chính họ sẽ có những
nhu cầu đòi hỏi nhà nước chuyên chế phải rộng mở hơn. Thế nhưng mọi thứ
ngược lại, tầng lớp mới càng lệ thuộc vào nhà nước và cùng nắm tay đồng
hành của tầng lớp mới Tư bản đỏ!
Nghĩa
là trong kỳ vọng về một xã hội dân sự lành mạnh từ khát vọng của giới
trung lưu mới với các giá trị khác với nhà nước. Qua tác phẩm kinh
điển của BarringtonMoore, Social Origins of Dictatorship and Democracy (1966).
Moore và nhiều người sau này như Rueschemeyer, Evelyne Stephens cho
rằng thay đổi chính trị không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi
bản chất của từng nhóm xã hội...mà còn phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa các nhóm này và nhà nước.
Theo
Martin Gainsborough viết trên tạp chí Asian Survey năm 2002 thuộc
trường nghiên cứu châu Phi và phương Đông (SOAS) của Anh, cho rằng:
“viễn cảnh thay đổi chính trị ở Việt Nam cần được nhìn qua
các thay đổi bên trong bộ máy nhà nước, hơn là nhấn mạnh sự
xuất hiện của các lực đẩy bên ngoài nhà nước.”
Bài tiểu luận này có tựa đề “Political Change in Vietnam: in search of the middle class challenge to the state.” Tóm tắt như sau:
-
Tầng lớp trung lưu mặc dù trong lịch sử là lực đẩy dân chủ
hóa, nhưng cũng lại thường liên minh với chế độ chuyên chế.
Do
đó, thực tế vì quyền lợi gắn liền với thế lực cầm quyền khiến họ có xu
hướng chống lại tiến trình dân chủ hóa cho đến khi một chế độ mới dân
chủ thật sự ra đời, thành phần nầy vẫn còn nhiều tư hữu để trở nên giàu
có trong một chế độ hoàn toàn tự do. Đây là tầng lớp được hưởng lợi khấm
khá và thật sự chỉ có người nghèo vì nhiều lý do phải nghèo là thành
phần bị thiệt thòi nhất!
“Trong
trường hợp Việt Nam, nhìn bề ngoài có vẻ như rõ ràng giai
cấp này không tồn tại. Những đại địa chủ đã bị loại bỏ tại
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) trong thập niên 1950, và
việc này lại tiếp tục ở các khu miền Nam giải phóng trong
thập niên 1960 và sau chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1975.
Chiếu theo lý thuyết, việc thiếu vắng giai cấp này có vẻ sẽ
hỗ trợ một quá trình chuyển tiếp dân chủ.”[1]
“Tuy
nhiên, phải chăng Việt Nam không có các địa chủ? Bất chấp quy
định hạn mức đất nông nghiệp ở nông thôn, nhưng những năm đổi
mới đã đi kèm với tình trạng không có ruộng đất ngày càng
tăng. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là sự tái trỗi dậy
của các nhà địa chủ.
Người
ta cũng có thể nói rằng mặc dù những người chủ đất của
chính thể cũ đã bị loại bỏ, nhưng thay vào chỗ của họ là sự
xuất hiện của một tầng lớp chủ đất mới, đó là các cán bộ
và viên chức chính quyền. Thông thường chính họ, hoặc thành
viên gia đình họ, là người nắm ưu thế trong nền kinh tế nông
thôn. Nếu phân tích này là chính xác, thì viễn cảnh cho sự mở
rộng không gian chính trị không sáng sủa lắm.”[1]
“Hải
Phòng là một trong những thành phố văn minh trước tiên của vùng vùng
đồng bằng Bắc bộ và sau đó tỏa đi khắp nơi. Bây giờ vào đầu thế kỷ 21,
tại làng Tiểu Bàng, Đại Hợp, Kiến Thụy, Hải Phòng – ‘một luồng văn minh
mới’ cho dù đang mùa tuyển sinh nhưng không còn nghe thấy chuyện thi cử
đại học, thiếu nữ của vùng này đều lo học ngoại ngữ, học đi đứng, học
làm đẹp… học sao cho thật tốt ‘vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề’
để ôm mộng lấy chồng ngoại hầu đổi đời!
Các “Lò luyện” lấy chồng ngoại quốc ở Hải Phòng
nở rộ như hoa phượng đỏ, các cô gái từ làng quê đến thành phố đều tham
gia theo học những khóa đào tạo ngắn ngày này, họ dạy về ngoại ngữ theo
nhu cầu gồm tiếng Hàn, tiếng Anh… vừa nói vừa ra dấu miễn sao đạt mục
đích đó là phương cách ‘giáo dục thực hành’ của các trường loại này!
II.1 Nông dân và người lao động ở nông thôn
“Giai
cấp thứ hai là nông dân và người lao động nông thôn. Theo lý
thuyết, người nông dân trong lịch sử quan tâm đến dân chủ hóa,
nhưng không phải là sức mạnh tạo ra nó, chủ yếu vì họ thiếu
tổ chức.
Gần
ba thập kỷ sau đổi mới, Việt Nam tiếp tục là xã hội nông
nghiệp dường như bao hàm ý là chỉ có một lực đẩy tương đối
yếu cho dân chủ hóa.
Kể
từ thập niên 1990, bất ổn ở nông thôn có vẻ trở nên thường
xuyên hơn. Còn thiếu các nghiên cứu về nguyên nhân của điều này,
nhưng dường như chúng thường liên quan đến các tranh chấp đất
đai với giới nắm quyền ở địa phương, và đi kèm các cáo giác
tham nhũng. Mặc dù không có bằng chứng về sự tài trợ trực
tiếp từ nước ngoài cho bất ổn nông thôn, nhưng các nhóm phản
kháng đặt ở nước ngoài và các tổ chức nhân quyền nhanh chóng
ủng hộ những cộng đồng nông thôn chịu khó khăn, còn các chính
phủ nước ngoài, bao gồm Mỹ, đã chỉ trích cách đối phó của
chính phủ Việt Nam trước các vụ việc này.
Nhưng
ngoài các trường hợp kiện tụng cá nhân, sẽ là sai lầm nếu
người ta nói về một sự đối lập tại nông thôn hiểu theo nghĩa
là một tổ chức có nền tảng thể chế chung và một lý luận
chặt chẽ chỉ trích sự cầm quyền của đảng. Một số học giả
nhắc đến sự phát triển của các nhóm độc lập đại diện cho
nông dân, nhưng có ít bằng chứng cho điều này.
II.2 Người lao động thành thị
Giai
tầng thứ ba là người lao động ở thành thị. Đây được xem là
lực lượng quan trọng cho dân chủ hóa. Ở Việt Nam, số người này
vẫn còn ít. Tuy nhiên, thời kì đổi mới đã đi kèm với việc đô
thị hóa nhanh chóng.
Về
khía cạnh lao động có tổ chức, giai cấp lao động thành thị
chưa tỏ ra có sức mạnh. Quan hệ lao động đã trở nên phức tạp
hơn kể từ đổi mới, và các cuộc đình công cũng phổ biến hơn.
Tuy nhiên, không có các công đoàn độc lập, và Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam tỏ ra vẫn chia sẻ nghị trình của nhà nước là
khuyến khích kinh tế và bảo đảm ổn định chính trị, hơn là
thật sự đại diện cho người lao động.
“Trên
bình diện xã hội, số thanh niên nam nữ trộm cướp giết người ngày càng
nhiều không thể đổ cho chế độ miền Nam trước đây, từ quan niệm trong
cuộc đấu tranh này ‘nếu có mất là mất mảnh vải che thân’, nên bọn ăn
cướp thời đại ngày nay cũng vậy đã nảy sinh tệ xin đểu ngay tại Trung
Tâm Sài Gòn và Hà Nội, chúng có băng đảng và tổ chức hẳn hoi, và tất
nhiên đến mọi ngõ ngách các khu dân cư theo các phóng sự ngay nơi các
máy rút tiền lẻ, công nhân, sinh viên trên đường về nhà nhất là tại các
bến xe, phố đêm vắng người…
Quả là tâm trạng hoang mang của người dân vô cùng. Vai trò của công an và quân đội ngày nay không hết việc và thật cao cả với sứ mệnh ngày đêm vì an ninh của người dân, nhưng các bạn sẽ không mang lại được hiệu quả tốt nhất cho người dân vì chúng ta đang là nạn nhân của một cơ chế lỗi thời. Mọi chuyện phải được giải quyết trên bình diện quốc gia khi tập đoàn thống trị phải trả ngay thẩm quyền lại cho người dân. Công an quân đội không phải công cụ của một đảng phái bè nhóm nào nhưng là phục vụ cho người dân và dù chế độ nào.” (trích tham luận Xin đểu ngày naycủa Nguyễn Quang)
Quả là tâm trạng hoang mang của người dân vô cùng. Vai trò của công an và quân đội ngày nay không hết việc và thật cao cả với sứ mệnh ngày đêm vì an ninh của người dân, nhưng các bạn sẽ không mang lại được hiệu quả tốt nhất cho người dân vì chúng ta đang là nạn nhân của một cơ chế lỗi thời. Mọi chuyện phải được giải quyết trên bình diện quốc gia khi tập đoàn thống trị phải trả ngay thẩm quyền lại cho người dân. Công an quân đội không phải công cụ của một đảng phái bè nhóm nào nhưng là phục vụ cho người dân và dù chế độ nào.” (trích tham luận Xin đểu ngày naycủa Nguyễn Quang)
II.3 Tư sản
Giai
cấp thứ tư là tư sản, ở đây được hiểu là tầng lớp kinh doanh
hoặc sở hữu vốn. Quan niệm thông thường xem những doanh nhân là
một phần của tầng lớp trung lưu, và vì thế là lực đẩy cho dân
chủ hóa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Moore, Rueschemeyer và nhiều người khác, tư sản được xem là có quan điểm không rõ ràng đối với dân chủ hóa. Ví dụ, tác giả Richard Robison nhắc tới một “hiệp ước cùng thống trị” giữa tầng lớp doanh nhân và chế độ chuyên chế Suharto ở Indonesia – một quan hệ dựa trên các quyền lợi chung.
Dù
giới doanh nhân là hiện tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh
doanh của họ, nhưng họ lại là cũ khi xét về quan hệ chính
trị.
Tại Việt Nam, những năm qua đã có sự xuất hiện của một giới tinh hoa mới trong kinh doanh.
Tuy
nhiên, mặc dù giới tinh hoa này là hiện tượng mới nếu xét về
các quan tâm kinh doanh của họ, nhưng họ lại là cũ khi xét về
quan hệ chính trị. Nghĩa là, nhiều người trong số các doanh
nhân mới này xuất thân từ bên trong hệ thống hiện nay, đang là
hoặc từng là viên chức, hoặc là con cái của giới lãnh đạo.
Để
làm ăn thành công, các công ty vẫn phụ thuộc nhà nước để có
giấy phép, hợp đồng, tiếp cận vốn và đất, và cả sự bảo vệ.
Như thế, Việt Nam vẫn thiếu “một giai cấp tư sản độc lập
hoặc lớn mạnh” mà Moore xem là yếu tố cần thiết cho dân chủ
hóa.
Lý
thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh sự quan trọng của quan
hệ giữa tư sản với người lao động thành thị. Nếu giới trung
lưu cảm thấy bị đe dọa bởi người lao động đô thị, họ có khả
năng trở nên bảo thủ hơn. Nếu không, họ có thể liều lĩnh hơn.
Không
có mấy bằng chứng là có sức ép mạnh mẽ đòi thay đổi chính
trị từ cộng đồng kinh doanh. Đã có những kêu gọi như cần có
sân chơi bình đẳng cho mọi công ty, mở rộng thông tin, bớt sách
nhiễu – người ta có thể nhìn thấy ở đây giai đoạn đầu của một
sự phân rẽ giữa tư sản và nhà nước. Tuy nhiên, những kêu gọi
như thế không lớn khi so sánh với việc cũng chính những công ty này rất nhiệt tình (vì bắt buộc) khi tìm kiếm ưu đãi từ nhà nước.
Riêng
trên đất nước này có thể nói rằng vẫn chưa có một hệ thống tiền tệ minh
bạch: tiền được làm nên đó là thứ phương tiện, đúng hơn là thứ vũ khí
của tầng lớp thống trị với mục đích cuối cùng là thu vén tài sản của
nhân dân, người dân hoan hỷ tưởng chừng như là phương tiện thanh toán
tốt nhất vào mỗi thời nhưng thật sự chính mình là nạn nhân, sự luân
chuyển của đồng tiền chẳng qua chỉ là hình thức gián tiếp cống nạp cho
kẻ thống trị vì cuối cùng đồng tiền chạy vào ngân khố của tập đoàn vua
chúa hay đảng trị, họ muốn thu hồi từ dòng chảy trong bàn tay của chúng
bất cứ lúc nào mà không có một sự giám sát của nhân dân!
Hiện
nay dưới sự thống trị của tập đoàn đảng trị CSVN, sau khi con tàu quốc
doanh Vinashin không còn khả năng trả nợ, người ta mới giật mình, đặt
câu hỏi: ai đã quản lý, kiểm tra, giám sát các nguồn vốn của Vinashin?
II.4 Giới công chức và trung lưu
Nhóm
xã hội thứ năm là giới công chức và trung lưu. Tại Việt Nam,
nhóm này bao gồm những cán bộ, công chức nắm giữ các vị trí
trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có thể có một
số sự chồng chéo với tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn.
Một nhóm khá mới trong phạm trù này là các nhân viên Việt Nam
làm việc cho công ty nước ngoài.
Một
vài năm trước, một số học giả nhấn mạnh đến khoảng cách
ngày một tăng giữa các nhóm như vậy với nhà nước, cho rằng con
người ngày càng tổ chức đời sống tách biệt khỏi ảnh hưởng
của nhà nước. Mặc dù việc một người làm cho công ty nước
ngoài có thể quan trọng, nhưng Martin Gainsborough lại nhấn mạnh
mối quan hệ chặt chẽ liên tục giữa nhóm này và nhà nước, xét
về nguồn gốc tương đối đặc quyền của họ, cũng như trọng tâm
trung thành của họ, hay sự sẵn sàng gia nhập đảng...Như vậy,
giống như giới tư sản, các nhân viên người Việt làm cho nước
ngoài vẫn “thuộc về hệ thống”.
Nếu
nói về khả năng thay đổi trong khu vực này, có thể nghĩ rằng
khi giới trung lưu ngày càng có cơ hội ra nước ngoài, họ sẽ
đối mặt với các cách sống và làm việc khác, khiến họ bớt
kiên nhẫn với cách hành xử ở Việt Nam. Hiện tượng này có thể
là những quan sát về giá cả hàng hóa đắt ở Việt Nam so với
các nước khác trong vùng, hay so sánh về tệ quan liêu và tham
nhũng.
Qua bộ phim Đường Tới Thành Thăng Long hiển
hiện rõ: Cả một dân tộc đến gần con số trăm triệu người, hàng ngàn tiến
sĩ gọi là được phong hàm giáo sư… nhưng để tâm vào chuyện gì? Quả là
nhân cách cá nhân do sợ hãi trở nên ngu muội đưa đến vong thân về tinh
thần mà vốn truyền thống của dân tộc này hào hùng, khí khái, hiên ngang,
bất khuất!
Từ
tiến sĩ đến các nghệ sĩ, nào phong cho nhau những mỹ từ danh giá ‘nhân
dân, ưu tú..’ Và trên một ngàn nhà văn theo con số chính thức nhưng quá
hèn không viết nổi, không đạo diễn nổi, không đóng nổi các vai…nên đành
đoạn ‘giao trứng cho ác’, ‘bán mình cho quỷ dữ’ !
Không
có trận Chi Lăng, Bạch Đằng, vậy lịch sử dân tộc này là dân tộc nào,
cảnh chém giết tàn ác của Tàu thể hiện trong phim thành gia sản của
người Việt như một bộ lạc hoang dã! Một sự phỉ báng Tổ Tiên dân tộc này!
II.5 Nhà nước yếu hay mạnh?
Bên
cạnh việc phân tích thái độ của các tầng lớp xã hội và quan
hệ giữa các nhóm này, người ta cũng cần phân tích bản chất
của quyền lực nhà nước để soi sáng câu hỏi liệu một nước có
dân chủ hóa hay không.
Nhiều năm qua, bản chất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã thu hút những cách phân tích khác nhau.
Quân đội và công an vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị Việt Nam
Ví
dụ, Joel Migdal (1988) mô tả Việt Nam là “nhà nước mạnh”, đặt
nó chung với Israel và Nhật cùng các nước xã hội chủ nghĩa
khác. Migdal cho các nhà nước này là mạnh vì theo ông, chúng
có khả năng điều động các định chế nhà nước thực hiện các
công việc chính sách bất chấp sự tồn tại của các trung tâm
quyền lực khác. Một số người khác lại cho rằng khả năng của
nhà nước Việt Nam không mạnh như người ta nghĩ.
Martin
Gainsborough lại cho rằng tựu trung nhà nước ở Việt Nam mạnh,
nhưng nó phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, vì thế mà tạo nên các
phân tích khác nhau. Nếu quan sát công việc hàng ngày của các
định chế và bộ máy nhà nước, người ta thấy thói thường quyền
lực ở các định chế nhà nước bị phân lập, và các cơ quan cao
hơn trong bộ máy chỉ có khả năng hạn chế khi muốn điều động
các cơ quan bên dưới ('trên bảo dưới không nghe'). Vì thế quyền
lực bị phân tán. Nhà nước ở thế yếu. Tuy nhiên, nếu quan sát vai trò của công an trong cuộc sống hàng ngày của người dân, nhà nước lại có vẻ mạnh.
Ngoài
ra, trong các cuộc thanh tra định kỳ (periodic) nhắm vào các
hoạt động kinh doanh khả nghi, và trong việc truy tố các vụ tham
nhũng lớn, nhà nước chứng tỏ khi bộ máy cảm thấy phải
chuyển động, nó có thể rất mạnh mẽ.
Như
vậy, 30 năm sau đổi mới, việc nhà nước vẫn có một quyền chủ
động tương đối có vẻ không thuận lợi cho tiến trình chuyển
tiếp dân chủ. Lý thuyết về dân chủ hóa nhấn mạnh rằng sự
có mặt thường xuyên của quân đội và công an trong nhà nước đặc
biệt bất lợi cho một sự chuyển tiếp. Tại Việt Nam, hai định chế này đã luôn có mặt trong các vị trí lãnh đạo chủ chốt.
Song,
môi trường giáo dục của Việt cộng đang hỏng trầm trọng, từ chuyện học
sinh nữ đánh nhau, thầy mua dâm học trò, đổi tình lấy điểm, mua điểm...
Quà Ngày Nhà giáo phát nổ trong khu tập thể giáo viên vừa qua là trái
bom nổ chậm kinh hoàng đến thời điểm không còn thuốc chữa.
Những
người có điều kiện tầm vóc quốc gia, ngay cả trong ngành giáo dục đều
tìm cách cho con đi học ở nước ngoài, mặc cho nền giáo dục nước nhà theo
kiểu ‘nước chảy bèo trôi’ !
Con
người của Hà Nội cổ xưa thanh lịch và sâu sắc từ dáng đi, lời ăn tiếng
nói, đến cư xử giữa người với người là vậy. Trí tuệ của Hà Nội xưa cũng
uyên bác và thực chất hơn nhiều. Dưới trào cộng sản mở đầu câu chuyện là
câu láo khoét giả dối làm đầu nào ‘nhờ ơn Bác Đảng…mà em thế này… nhà u
nó ra sao?’
Hà
Nội đang rồng rắn lên mây, những giá trị ảo đó rồi cũng tan biến theo
thời gian, những hàng mã trong lễ hội càng tiêu nhanh, tất cả sẽ qua đi,
nhưng ‘văn hóa là những gì còn lại’, những giá trị nhân văn thể hiện
qua nhân cách, trí tuệ người Hà Nội sẽ còn mãi và không biến mất trong
máu huyết người Việt. Nhân sĩ và trí thức Hà thành đang cất cao tiếng
gọi, nhân quyền không còn là chuyện phê phán người khác, cũng không chỉ
với vài bài viết của một tờ tạp chí gọi là làm chuyện nhân quyền. Nhân
quyền là dấn thân, hành động thiết thực qua giáo dục để nhằm biến đổi
con người rồi tự thân con người biến đổi xã hội.
II.6 Các lực lượng xuyên quốc gia
Lý
thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các
lực lượng xuyên quốc gia trong vấn đề thành công hay thất bại
của một tiến trình chuyển tiếp.
Sự
chấm dứt chiến tranh lạnh cũng chấm dứt cái nhìn xem Đông Nam
Á là các quân bài domino trong cuộc tranh đấu ý thức hệ. Vì
thế, các nước này đã chịu sức ép từ Mỹ và EU quanh các vấn
đề nhân quyền và cai trị. Việt Nam cũng chịu sức ép này. Nhưng
mặt khác, dường như Việt Nam không đến mức dễ bị đe dọa trước
các luồng xâm nhập tư tưởng từ ngoài – khác với Lào, chẳng
hạn.
Vị
trí của Việt Nam ở Đông Nam Á và việc là thành viên của ASEAN
cũng đem lại một tấm đệm nhất định ngăn sức ép thay đổi từ
Mỹ và EU. Dù có sự khác biệt giữa hệ thống các nước trong
ASEAN, nhưng các thành viên đều bộc lộ một mức độ chuyên chế
nhất định và duy trì nguyên tắc không can thiệp chuyện nội bộ
của nhau.
Quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc góp phần củng cố chế độ tại Việt
Nam. Dù hai nước này có khác biệt thế nào, họ đều có chung
sự không tin tưởng trước quyền lực toàn cầu của Mỹ và cả hai
đều theo quan điểm cải tổ kinh tế mà không mất quyền kiểm soát
chính trị.
Ngoài
ra, một thiên hướng phổ biến là nhấn mạnh rằng trong thời đại
toàn cầu hóa, việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thường
bất lợi cho chế độ chuyên chế.Tuy nhiên, ở Việt Nam, tài
trợ nước ngoài và vốn tư bản đổ vào lại giúp củng cố quyền
lực nhà nước, vì chính các định chế và công ty nhà nước
thường là người hưởng lợi chính.
Năm
mươi năm qua vẫn chưa đủ đã làm nghèo đất nước này đến dường nào so với
mức tăng trưởng kinh tế thế giới, hãy bần cùng đến nhiều thế hệ hơn
nữa, cương lĩnh hứa hẹn ‘Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa’ !
Từ
định hướng đến phương hướng là phương nào khi báo cáo đưa ra 8 danh mục
cơ bản mà bất cứ một học sinh phổ thông nào cũng nói được có khi càng
bốc hơn, xin ghi lại nguyên văn cho rõ với phản đề ngắn gọn của người
dân trên chữ đậm, nghiêng:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Kinh tế tri thức: hiện nay Việt Nam là sân sau, một bãi rác của Trung Quốc!
-
Môi trường tài nguyên thiên nhiên: Thảm họa môi trường và an ninh quốc
gia qua bauxit Tây Nguyên vẫn đang ám ảnh người Việt Nam yêu nước! Rừng
vàng biển bạc đều dần dần rơi vào tay Trung Quốc trong một chiến lược
thôn tính lâu dài của Đại Hán!
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-
Lịch sử từ cổ chí kim chưa ai biết cái định hướng này là gì, sẽ đưa dân
tộc về đâu? Hiện chỉ thấy các cán bộ, đảng viên Cộng sản hành động càng
ngày càng xằng bậy!
Ba
là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội.
-Nghĩa
là Tàu sao ta vậy! Tàu cộng đưa ra ‘Xã hội hài hoà’, ta cũng ‘Hài hoà
xã hội và sáng tạo thêm chữ Hoà giải nữa! Nay Võ Tòng đả hổ, ta cũng đã
theo!
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
-Ra
đường là kẹt xe, tai nạn giao thông…đó là trật tự an toàn xã hội! Quốc
phòng và an ninh quốc gia đã có Trung Quốc lo vì trên căn bản những gì
đã ký kết ngầm với Tàu cộng ‘chỉ mong sao trở thành một khu tự trị như
Tân Cương, Tây Tạng…qua mô hình một quốc gia nhiều chế độ!
Năm
là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
-Cứ thỏa mái ký kết và không thi hành vì bản chất của CSVN là thế!
Sáu
là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
-Trong
lịch sử cũng chưa ai thấy dân chủ kiểu Việt cộng như thế này, sự thường
nhân loại gọi kiểu cai trị này là độc tài toàn trị!
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
-Pháp
luật chỉ là thứ trò chơi của giai cấp tư sản theo quan niệm của Mác,
như vậy kêu gọi tôn trọng pháp luật không khác gì chống lại học thuyết
Mác!
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
-Ngày
nay chống tham nhũng là chống đảng, vậy chỉ có thể diệt hết tham nhũng
khi đảng CSVN không còn, hay tồn tại trong chế độ đa đảng với sự cạnh
tranh lành mạnh giữa các đảng sẽ giảm bớt lạm dụng quyền lực để tham ô!
II.7 Sau chế độ một đảng sẽ là gì?
Từ
đầu, bài viết nhấn mạnh sự quan trọng của việc thoát ra khỏi
cách nghĩ rằng Việt Nam nhất định sẽ đi trên con đường lịch
sử hướng tới chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Như vậy, câu hỏi
trong bài đặt ra là còn hướng đi nào khác cho việc mở rộng
không gian chính trị tại Việt Nam?
Một
phần câu trả lời có thể nằm trong việc xem lại các quan niệm
như nhà nước và xã hội. Thay vì đi tìm sự xuất hiện của một
xã hội dân sự (civil society) lớn mạnh đối lập với quyền lực
nhà nước, bài viết muốn người ta tìm hiểu những gì xảy ra bên
trong nhà nước.
Một
số học giả khác đã theo quan điểm tương tự. Trong quyển Toward
Illiberal Democracy in Pacific Asia (1995), Daniel Bell và Kanishka
Jayasuriya viết:
“Động
lực cho cải tổ chính trị xuất hiện không phải từ việc khẳng
định các quyền lợi độc lập của các giai cấp xã hội, mà từ
xung đột bên trong nhà nước; cải tổ chính trị liên quan việc
đối phó với xung đột bên trong nhà nước, hơn là liên quan sự
tái cơ cấu căn bản quan hệ giữa nhà nước và xã hội.”
Martin
Gainsborough cho rằng điều này thể hiện các nhà nước tại châu
Á xây dựng trên một di sản triết học và văn hóa khác phương
Tây. Khi Lý Quang Diệu nói về nhu cầu hạn chế “cách người dân
dùng lá phiếu để mặc cả, ép buộc, xô đẩy” chính phủ, ngôn từ
đó không đơn giản là nói lấy được, mà thể hiện một cách
hiểu hoàn toàn khác về quan hệ giữa nhà nước và xã hội.
Đã
nhiều người nhấn mạnh đến các yếu tố như xã hội dân sự,
tầng lớp trung lưu, tôn giáo đối lập, trí thức phản kháng, bất
mãn của thanh niên, bất ổn ở nông thôn.
“Sự
mở rộng không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát
từ thay đổi bên trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự
xuất hiện của một xã hội dân sự năng động.”
Martin Gainsborough
Theo
Martin Gainsborough, tất cả những điều này đều là hiện tượng
có thật, nhưng ở Việt Nam, đấu trường chính là ở bên trong nhà
nước. Vì thế, nếu quan sát một số các cuộc tranh luận chính
trị liên quan mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, vai trò
Quốc hội, vấn đề tập quyền và tản quyền, hay cách thức điều
hành doanh nghiệp nhà nước, thì mức độ thay đổi hay việc mở
rộng không gian chính trị phải được xem trong quan hệ với các
định chế nhà nước. Ví dụ, đảng có thể vẫn giữ quyền tối
cao, nhưng phải chấp nhận cho phép các định chế chính quyền
mạnh mẽ hơn, một Quốc hội mạnh mẽ hơn.
Cũng
như vậy, các quan tâm của giới kinh doanh, thay vì tìm cách
biểu đạt qua một tổ chức tách khỏi nhà nước, thì lại chuyển
vào kênh của các tổ chức như Phòng Thương mại Công nghiệp hay
Hiệp hội ngân hàng. Ngay cả nếu người ta dự đoán một ngày nào
đó các tổ chức này sẽ tách khỏi nhà nước, thì có thể cho
rằng họ vẫn duy trì một cách hiểu khác phương Tây về mối quan
hệ giữa nhà nước và xã hội.
Thay
đổi chính trị ở Việt Nam tất yếu sẽ diễn ra, nhưng một bài
học từ châu Á là sự mở rộng không gian chính trị có nhiều
phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên trong các định chế nhà
nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã hội dân sự năng
động như tưởng tượng tại phương Tây.
Bài
viết kết luận: Liệu điều này có tạo ra sự thoát khỏi hoàn
toàn hệ thống độc đoán hay không còn là điều bàn cãi. Có thể
đoán rằng khả năng lớn hơn cả là sẽ có sự nới lỏng dần dần
những mặt cứng nhắc của hệ thống quản lý nhà nước.” [1]
Đất
nước Việt Nam đang đi trên con đường với những khái niệm mù mờ rất đáng
sợ, ngay chính những người soạn ra nó chắc chắn cũng không hiểu nó là
cái gì! Nên đã khiến mọi thứ khác xa tư tưởng Nguyễn Trãi ‘Hang cùng ngõ
hẻm không còn tiếng khóc than’. Lời vọng từ năm xưa, đó là mục tiêu của
một chính quyền vì dân, đạo đức của những nhà lãnh đạo đất nước - ‘Cái
Đạo làm Vua!
-
‘Hãy ngồi vào bàn ăn mới biết ngon hay dở’ như ngạn ngữ Phương Tây đã
viết! Người Việt chúng ta còn rất hoài nghi chưa chịu ngồi vào bàn, vì
những tỵ hiềm đố kỵ hận thù do lịch sử để lại quá nặng nề! Hãy ngồi vào
bàn để biết thật rõ bạo quyền là cái ác, độc tài đảng trị là gian trá,
biết rằng bàn ăn có nhiều món vẫn thích hơn chỉ một món lại là khoai mì,
nhất là loại khoai mì có tên Ấn Độ H34 gì đó vẫn mãi mãi là nỗi kinh
hoàng với các tù nhân trong các trại tù CSVN. Loại khoai đó ăn vào
thường ngộ độc ói mửa, tháo dạ nhưng phải cứ ăn!
Hãy
ngồi vào bàn có nhiều món vẫn thích hơn! Các anh muốn hạnh phúc và
chúng tôi cũng vậy ‘…tuy là khác giống nhưng chung một giàn’. Giàn bầu,
giàn bí, giàn nho…đều cần phải có những nhà kỹ thuật nông nhiệp hướng
dẫn việc cắt tỉa mới sinh hoa trái hầu được mùa. Không thể kêu chú đánh
trâu dạy kỹ thuật nông học, chăn trâu chỉ có thể thống lĩnh trâu bò,
càng không thể là lái bò, thiến heo lên làm lãnh đạo quốc gia! Một dân
tộc như thế dù cho có ít người vẫn đang rơi vào mạt vận!
II.8 Đất nước rồi sẽ chỉ còn trơ lại khung xương.
“Nghĩ
đến các mối quan hệ xã hội ngày nay, tương lai dân tộc VN trong 10, 20
năm nữa, Luật pháp không được thực thi, có tiền/ có quyền hoặc cả hai, Tiền/Quyền chính là công lý, là đạo đức. Thày
cô giáo, cha mẹ ngày càng ít nói đến những chụẩn mực đạo đức vì làm
không đúng như thế thì nói đến sao được? Thay vào đó là dạy cách kiếm
tiền, cách để đoạt quyền, cách hòa nhập với chung quanh, hoặc nói một
cách mơ hồ chung chung, biến dạng.
Các
em sẽ không còn nhận ra đâu là luật pháp, công lý, đâu là những giá trị
văn hóa đạo đức, công bằng ...cũng như trật tự của chính xã hội đang
sống mà sự bảo vệ hỗ tương dưới những hiến chế luật pháp thật cần thiết
vế an ninh cho con người!
Doanh
nghiệp Nhà nước là "két sắt" giấu tiền tham nhũng. Thậm chí nhiều khi
có cả doanh nghiệp của lực lượng vũ trang tham gia cạnh tranh thị trường
với doanh nghiệp tư nhân trong các dự án từ ngân sách nhà nước, thực
chất là tiền của dân được gọi là "dân chủ, công bằng". Kết quả là doanh
nghiệp tư nhân thua, lực lượng vũ trang thắng két sắt lại đầy. Làm kinh
tế dân chủ, công bằng kiểu gì lại mang cả lực lượng súng đạn ra cạnh
tranh thị trường thì ai thắng? Sau đó nghe thua lổ, giải thể, sát nhập.
Lại có một doanh ngiệp Nhà nước...mới... ra đời, mà không giải thích
được.
Muốn
tồn tại thì một số DN tư nhân buộc phải kết hợp với doanh nghiệp nhà
nước, tạo ra những nhóm lợi ích độc quyền, ngạo mạng nhưng đóng góp ngân
sách lại thấp nhất. Số DN tư nhân còn lại phải ngụp lặn, đơn độc với
vai trò thật bé nhỏ, nhưng đóng góp ngân sách lại cao nhất. Thật là khôi
hài !
Tham
nhũng ở VN đã trở thành quốc nạn từ lâu, nó xảy ra mọi lúc, mọi nơi,
mọi ngành nghề, mọi lãnh vực, nhiều mức độ, từ dưới lên, từ trên xuống,
không thể kể xiết! Chính quyền các cấp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
"dạy" cho mọi người dân ai cũng biết lo lót, hối lộ!”[1]
Và
chuyện làm luật của các cảnh sát giao thông với chủ xe diễn ra hằng
ngày trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, hành khách trên xe cũng như
người tham gia giao thông mỗi khi gặp xe phóng nhanh vượt ẩu, tất cả đều
mong chờ sự xuất hiện của cảnh sát giao thông, thế nhưng khi các quan
thường là bụng bự, tay bỏ túi quần, mắt nhếch nhìn cú vọ xuất hiện chỉ
kiểm tra giấy tờ... song nếu có đính kèm những tờ giấy thật mỏng thời
chuyện làm luật thông qua rất nhanh. Họ đã nhận hối lộ và bỏ qua mọi vi
phạm của nhà xe.
Trong trường hợp nếu bị bắt quả tang thì giữa cảnh sát giao thông, viện kiểm sát, tòa án... họ cùng bắt tay nhau làm trái những gì họ tự qui định gọi là pháp luật. Như cơ quan tỉnh ủy Bình Phước có văn bản gởi Toà án nhân dân tối cao về việc một chánh án Toà án nhân dân huyện với hàng loạt các sai phạm do ông này gây ra như hợp thức hóa hồ sơ xin giảm án cho bị can sớm ra khỏi trại giam, chỉ đạo cấp dưới kê khống nhằm rút tiền ngân sách chia nhau tiêu xài hàng trăm triệu... những vi phạm có liên quan đến các quan tham thuộc viện kiểm sát, chánh án, phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh và các cấp chính quyền cao hơn đều một phường tham ô, nhũng nhiễu dân lành.
Trên Quốc lộ Hai mươi xuất phát từ Sài Gòn đi về Tây Nguyên, một con đường nếu được bảo quản tốt chỉ mất có năm đến sáu tiếng đồng hồ, nhưng trước những năm chín mươi phải mất cả ngày và đầu thế kỷ hai mươi mốt vẫn còn đầy những ổ gà nên việc di chuyển bằng xe ô tô thật khó khăn, nhất là vào mùa mưa với bao tai nạn khi đổ đèo. Khi xe chạy ngang qua những vùng đường bộ do Lâm Đồng quản lý hành khách như ngồi trên các khối sắt bay nhảy chuẩn bị ra ngoài vũ trụ, có lúc nín thở đến cả tim muốn rớt ra ngoài, còn đoạn đường nào do tỉnh bạn Đồng Nai cai quản thì các chủ xe cũng như tài xế chuẩn bị sẵn tiền trong túi để hối lộ công an vì dù chạy kiểu gì chúng cũng thổi còi, may ra trong cả chặng đường chỉ có một, còn sáng ba chiều bốn cho mỗi vòng đi về như thế với ít nhất là hai mươi đô cũng là chuyện chưa có gì ấm túi các quan cảnh sát giao thông Đồng Nai. Và thấy Đồng Nai là biết phải hối lộ rồi, đó là một tâm lý chung bao trùm lên hết thảy mọi công dân ở đây, chuyện ấy xảy ra kể từ ngày đất nước thống nhất và cho dù có thay đổi ở cấp lãnh đạo đến tử hình Giám đốc Công an, thời Đồng Nai vẫn vậy.
Trong trường hợp nếu bị bắt quả tang thì giữa cảnh sát giao thông, viện kiểm sát, tòa án... họ cùng bắt tay nhau làm trái những gì họ tự qui định gọi là pháp luật. Như cơ quan tỉnh ủy Bình Phước có văn bản gởi Toà án nhân dân tối cao về việc một chánh án Toà án nhân dân huyện với hàng loạt các sai phạm do ông này gây ra như hợp thức hóa hồ sơ xin giảm án cho bị can sớm ra khỏi trại giam, chỉ đạo cấp dưới kê khống nhằm rút tiền ngân sách chia nhau tiêu xài hàng trăm triệu... những vi phạm có liên quan đến các quan tham thuộc viện kiểm sát, chánh án, phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh và các cấp chính quyền cao hơn đều một phường tham ô, nhũng nhiễu dân lành.
Trên Quốc lộ Hai mươi xuất phát từ Sài Gòn đi về Tây Nguyên, một con đường nếu được bảo quản tốt chỉ mất có năm đến sáu tiếng đồng hồ, nhưng trước những năm chín mươi phải mất cả ngày và đầu thế kỷ hai mươi mốt vẫn còn đầy những ổ gà nên việc di chuyển bằng xe ô tô thật khó khăn, nhất là vào mùa mưa với bao tai nạn khi đổ đèo. Khi xe chạy ngang qua những vùng đường bộ do Lâm Đồng quản lý hành khách như ngồi trên các khối sắt bay nhảy chuẩn bị ra ngoài vũ trụ, có lúc nín thở đến cả tim muốn rớt ra ngoài, còn đoạn đường nào do tỉnh bạn Đồng Nai cai quản thì các chủ xe cũng như tài xế chuẩn bị sẵn tiền trong túi để hối lộ công an vì dù chạy kiểu gì chúng cũng thổi còi, may ra trong cả chặng đường chỉ có một, còn sáng ba chiều bốn cho mỗi vòng đi về như thế với ít nhất là hai mươi đô cũng là chuyện chưa có gì ấm túi các quan cảnh sát giao thông Đồng Nai. Và thấy Đồng Nai là biết phải hối lộ rồi, đó là một tâm lý chung bao trùm lên hết thảy mọi công dân ở đây, chuyện ấy xảy ra kể từ ngày đất nước thống nhất và cho dù có thay đổi ở cấp lãnh đạo đến tử hình Giám đốc Công an, thời Đồng Nai vẫn vậy.
- Bất cứ tổ chức nào trên thế giới không đánh giá VN là nước tham nhũng "nhất thế giới", tổ chức đó chưa đủ "trình độ"!
Ở VN hiện nay, khi hỏi bạn nghĩ sao về tham nhũng, thú thật tiếng Việt đã cạn từ!
Ngành nghề nào ư? -Mọi ngành!
Từ địa phương tới trung ương!
Ở
địa phương thì cầu, đường, trường học, bệnh viện, hay bất cứ công trình
nào, nghiệm thu chừng một tháng là bắt đầu xuống cấp! Nó bị rút ruột
60%!
Ở
trung ương? -Nhỏ nhất là Vinashin: cả trăm ngàn tỉ đồng, chưa kể tiền
lời phát sinh, chưa kể vốn ban đầu, đem thí điểm môt thời gian ngắn chỉ
còn là "một đống sắt vụn" như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói tại
QH! Và hiện nay ông bị vạch trần như một ông trùm tham ô! Thiên hạ đồn
rằng còn bốn, năm cái Vinashin nữa chưa lộ diện! Nên các công trình có
vay tiền nước ngoài đổ vô cái gọi là doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn
là tham nhũng nhất vì không thể thanh tra được và không ai chịu trách
nhiêm bồi thường cả!
Tham nhũng là con quỷ mà ĐCS đã đẻ ra, nó càng ngày càng hung dữ hơn, nó sẽ không bao giờ ngừng cắn nát Tổ Quốc Việt Nam!
Khi người dân phải nai lưng ra làm và đều đều đóng thuế 10% VAT, đến đủ mọi thuế khác, kể không hết!
Công
nhân viên chức nhà nước từ đầu đến đuôi làm sao sống nổi với đồng lương
"nhà nước", vì thế VN ta mới có trò hề... bao cấp ngược, nông dân hay
doanh nghiệp tư nhân thì tự túc mà cày, mỗi lần đi xin cơ quan nhà nước
cho cái gì từ bằng lái xe, cho con đi học, giấy phép xây nhà... thì tự
động đưa phong bì cho các quan!
Các
ông trung ương thì sạch hơn, không ăn tiền đút lót bôi trơn, nhưng họ
rất thích hoa hồng của những chủ thầu những dự án tầm cỡ quốc gia ODA,
dự án Bauxite, thuê rừng, xây dựng nhà máy điện, buôn bán vũ khí, đường
sắt cao tốc...
Cuối cùng là con cháu dân đen sẽ phải gánh nặng cái món nợ khủng lồ và VN ta không bao giờ ngóc đầu lên được.
III. Thời điểm đã đủ để thay đổi - Time to change, time to say: That’s enough!
Từ
sự khác biệt của một chính phủ không do dân bầu, khởi đầu của chính
quyền xây dựng trên nòng súng và nay tồn tại trên sự tham nhũng, nên
công cuộc chống tham nhũng là một mỹ từ trong nền chính trị VN vì ai
cũng biết từ cửa miệng này của các quan chỉ để trang trí trên các diễn
đàn hội nghị mà thôi. Khi một vị quan lớn lên phát biểu điều này các
quan bé ngồi ở dưới hội trường có thể nhẩm tính bất động sản hay dự án
nào có tên của ông ta, con cái du học Anh, Mỹ bao năm mỗi năm tiêu tốn
mấy chục ngàn Mỹ kim. Những dự án nào ông ta đã hớt tay trên của mình
bao nhiêu phần trăm... Các quan bé so sánh: ta với ông ấy hơn kém gì
nhau mà tại sao quyền lực và tài sản mình chưa thể bằng ông ấy.
Chuyện
đang nóng tại Việt Nam, đó là việc tịch thu dinh thự được tạo dựng một
cách bất minh của ông nguyên Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền và
các đại quan tham khác đang nói lên “cộng sản đang đào mồ chôn chính
mình” qua các báo Người Cao Tuổi và Chân Dung Quyền Lực.
Thiên
đường Cộng sản như niềm mong ước của Mác đã dựng nên và ngày nay trở
thành giấc mơ của người dân Việt, đó là Nhà nước tiêu vong đã đến gần.
Tương
lai VN không lành mạnh được nền chính trị và xây dựng kỷ cương pháp
luật tam quyền phân lập cũng như đệ tứ quyền thì không thể nào thoát
khỏi cái bóng của Phi, Thái, chứ nói gì đến giấc mơ Hàn quốc và Đài
Loan.
Trong
xã hội, người nhân đức, chân chính thì không thể giàu có được; còn
người giàu có, xa hoa thì không thể là người có lòng nhân ái và liêm
chính- một câu nói của Tây phương tuy có vẻ hơi quá, nhưng cũng đáng cho
ta suy nghĩ.
Nguyễn Quang Hồng Nhân