Lâm Lễ Trinh
BÀI
HỌC LƯU VONG VÀ PHỤC QUỐC
« Hãy hành động như không thể nào
thất bại »
(Winston
Churchill)
Trong
lịch sử oan nghiệt của Miền Nam Việt Nam, Dương Văn Minh là nhân vật duy nhứt
được thời cuộc đưa hai phen lên ngôi Quốc trưởng. Lầân đầu, vào tháng 11.1963,
với sự hổ trợ của Hoa kỳ, sau khi chỉ huy cuộc đảo chính thành công chống Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Lần thứ hai, tháng 4.1975, dựa vào áp lực của Cộng sản Bắc
Việt. Ôâng tại chức không đầy ba hôm.
Trên ba triệu người Việt đã bỏ xứ
ra đi và hiện sống trong giấc mơ hồi hương. Nhiều đoàn thể quốc gia ở hải ngoại
đang tích cực đấu tranh để giải thể chế độ CS. Việt Nam có một Dương Văn Minh
đóng vai trò Pétain bạc bẻo nhưng chưa tìm ra một anh hùng giải phóng với tầm
vóc De Gaulle. Nghiên cứu cuộc đời đấu tranh sóng gió của vị tướng lưu vong này
qua những thử thách nước Pháp trực diện, chúng ta thu thập nhiều bài học bổ ích
cho công cuộc phục hồi Quê hương.
De Gaulle liên hệ khá sâu với VN:
Tháng 2.1941, De Gaulle và Uûy ban Alger hội nghị ở thủø đô Congo và cho phổ
biến bản Tuyên cáo Brazzaville hoạch định chính sách thuộc địa mới của nước
Pháp và hứa cho năm xứ Đông Dương (Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ, Lào và Miên) được
hưởng quy chế tự trị rộng rải trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Mặt khác, để thay
thế Bảo Đại thoái vị cuối tháng 8.1945
trao quyền cho Mặt trận Việt Minh, De Gaulle chuẫn bị phục hồi phế đế Duy Tân bị
đày năm 1916 ra đảo La Réunion với vua cha Thành Thái. Hai kế hoạch nêu trên bị
hủy bỏ vì bản Tuyên cáo Brazzaville trở thành lỗi thời, các thuộc địa đòi độc
lập hoàn toàn, hơn nữa Hoa kỳ can thiệp trực tiếp vào VN với giải pháp Ngô Đình
Diệm. Mặt khác, ngày 26.12.1945, Duy Tân tử nạn, chiếc máy bay chở ông rớt tại
Bassako, thuộc Cọng hoà Trung Phi, trong trường hợp đầy nghi vấn.
Năm 1965, Chính phủ Thủ tướng Nguyẽn
Cao Kỳ đọan giao với Pháp, tại Sàigòn chỉ còn Văn phòng Tổng lãnh sự Joseph
Lambroschini hoạt động. Tại Hoà đàm Paris, de Gaulle chẳng những không tiếp vợ
chồng Phó Tổng thống Kỳ mà còn hỏi khinh thị: « Qui est Kỳ ?
Kỳ là ai? » Năm 1966. Quốc vương Sihanouk tiếp đón trọng thể Tổng thống de
Gaulle tại Cam bốt. Từ Phnom Penh, de Gaulle kêu gọi trung lập hoá Đông Dương
để chấm dứt chiến tranh. Nguyễn Cao Kỳ tổ chức biểu tình chống đối rầm rộ ở Sàigòn.
Kinh nghiệm Charles de Gaulle nên
được xét dưới hai khiá cạnh: 1) De Gaulle, người công dân yêu nước và nhà
nghiên cứu quân sự. 2) De Gaulle trong
vai trò lãnh tụ phục quốc có viễn kiến.
A-
De
Gaulle, người công dân yêu nước và nhà nghiên cứu quân sự
De Gaulle (1890-1970) sanh tại Lille,
trong một gia đình quý tộc khiêm nhường, thiếât tha hãnh diện về nước Pháp, cha
là Henri de Gaulle, giáo sư dạy Triết và
Toán, mẹ là một tín đồ Công giáo thuần thành, tậân tâm giáo dục bốn con trai và
một gái. Tác người cao lớn, mũi hếch giống Cyrano de Bergerac, lầm lì ít nói,
chàng thanh niên Charles de Gaulle mê say đọc hồi ký Mémoires d’outre-tombe
của Chateaubriand và, như các bạn đồng thế hệ, chịu ảnh hưởng sâu đậm của những
nhà văn thuộc khuynh hướng ái quốc như Maurice Barrès, Charles Péguy, Henri
Bergson, Kant, Nietzsche…Tuy có khiếu về triết học và văn chương, De Gaulle
không do dự chọn con đường binh nghiệp để trả nợ núi sông. Năm 1912, tốt nghiệp
trường Quân sự Saint Cyr, thiếu úy De Gaulle được bổ về Tiểu đoàn 33 Lục quân
dưới quyền của đại tá Philippe Pétain. Giữa hai sĩ quan nảy sinh một sự tương
kính thành thật, de Gaulle khâm phục những sáng kiến chiến thuật của cấp chỉ
huy; Pétain nể trọng trí thông minh của viên sĩ quan đàn em đôi khi tỏ ra quá
tự tin và ngạo mạn. Trong Đệ nhứt thế chiến, bị thương ba lần năm 1917 tại
Verdun, bị bắt làm tù binh tại đồn Ingolstadt và ba lần mưu toan vượt ngục, de
Gaulle tỏ ra can đảm một cách lạnh lùng trước những tình huống nguy kịch, khiến
các đồng đội khâm phục. Năm 1924, De Gaulle xuất bản tác phẩm đầu tiên «La
Discorde chez l’ennemi, Mối bất hòa phiá địch thủ » ghi lại
những bài học từ sự thất bại của Đức quốc. Từ đó, de Gaulle bắt đầu lưu ý đến
chính trị. Đối với ông, Quân đội chỉ là một phương tiện cai trị, vấn đề cai trị
mới là chính yếu.
Sau Đệ nhứt thế chiến, Đại úy de
Gaulle được gới qua Varsovie trong phái đoàn quân sự của tướng Maxime Weygandù.
Ông dạy môn chiến thuật lục quân tại Ba Lan và sau đó, tại Saint Cyr. Năm 1920,
ông lập gia đình với Yvonne Vendroux,
bảo vệ quyết liệt đời sống riêng tư và có ba con, Elisabeth, Philippe và Anne.
Từ 1920 cho đến 1944, De Gaulle
tranh đấu hăng say để cải tổ bộ máy Quốc phòng bệ rạc Pháp. Những phát biểu của
ông cổ võ cho phương pháp tấn công uyển chuyển, thích hợp cho một hình thức
chiến tranh tương lai di động và chớp nhoáng, không gây nhiều cảm tình trong
giới giảng viên.
Thập niên 30, de Gaulle nổi danh với
một số tác phẩm chính trị lẫn quân sự như «Le Fil de l’Eùpée » (1931),
«Vers l’armée de métier » (1934), « La France et son armée »
(1945)….Ông thúc dục Chính phủ thành lập một quân đội cơ giới hoá với những sư
đoàn thiết giáp đặc biệt, chỉ huy bời sĩ quan chuyên nghiệp. Theo ông, một
Không lực hùng hậu cọng với đơn vị chiến xa di động mau lẹ sẽ giúp phòng vệ hữu
hiệu hơn các chiến lủy lọai Maginot. Chủ trương của de Gaulle gặp sự chống đối
của giới quân sự và các lãnh tụ tả khuynh vì họ ngại một quân đội chuyên nghiệp
có thể trở thành một khí cụ chính trị nguy hiểm.
B - De Gaulle, nhà lãnh tụ lưu vong phục
quốc có viễn kiến
Đệ nhị thế chiến bùng nổ trong lúc
đại tá de Gaulle chỉ huy một trung đoàn thiết giáp ở Alsace. Tháng 4.1940, với
cấp bực thiếu tướng, de Gaulle được giao trách nhiệm điều chỉnh gắp Sư đoàn 4
Thiết giáp để chận (một cách vô vọng ) làn sóng xâm nhập của Đức quốc xã. Ngày
6.6.1940, Thủ tướng Paul Reynaud – người từng ủng hộ nồng nhiệt kế hoạch canh
tân của de Gaulle khi ông là Dân biểu Hạ viện – bổ nhiệm de Gaulle vào chức thứ
trưởng Quốc phòng. De Gaulle chống đối việc đầu hàng địch và đề nghị Chính phủ
rút qua Bắc Phi để tiếp tục chiến đấu.
Thống chế Pétain thay
Reynaud. De Gaulle
đào thoát qua Luân đôn. Ngày 17.6.1940, từ Vichy, Pétain xin đình chiến. Hôm
sau, 18 tháng 6, lúc sáu giờ chiều, trên đài BBC, với gương mặt tái xanh, de
Gaulle tuyên bố nước PËháp chưa thua hẳn và kêu gọi dân Pháp tiếp tục chiến
đấu. Tháng 7.1940, một Toà án Quân sự Pháp tuyên án tử hình de Gaulle.
De Gaulle lẽ loi. Phần đông còn tin nơi
Pétain hay – như Jean Monnet – nơi Hoa kỳ. Cô đơn hay không, de Gaulle nhận
thức rỏ sứ mạng của mình: «Trong giờ phút này, tệ hại nhứt của lịch sử, tôi
có trách vụ đứng ra gánh vát nước Pháp. » 27 năm sau,de Gaulle viết: « J’ai
épousé la France en 1940. » « Gánh vát nước Pháp» có nghĩa
bảo toàn danh dự, chủ quyền và các lãnh địa của Pháp. Một trách nhiệm quá nặng
đối với một người tị nạn vô danh, không có phương tiện trong tay, không có đồng
chí. De Gaulle không muốn đặt Tổ quốc trong một hoàn cảnh nhục nhã, dưới sự che
chở của Anh quốc, theo lệnh Winston Churchill. Giài pháp duy nhứt của kẻ yếu
thế, theo ông, là tỏ ra cương nghị, quyết tâm không lay chuyển. « Bằng
cách hành động như kẻ vô địch bảo vệ không nhân nhượng chủ quyền Quốc gia, tôi
mới có thể dành được sự nể trọng của ngoại bang.» (Hồi ký).
De Gaulle tiếp tục chiến đấu nhân danh một
nưóc Pháp Tự do chưa hình thành. Ông phải tạo nó ra, giữ gìn nó qua tất
cả bao nhiêu nổi thất vọng, kiên trì bảo vệ nó chống đồng minh lẫnø kẻ thù; và
khi cuộc chiến kết thúc, chuyển nó thành một Chính phủ lâm thời đủ sức mạnh để
tránh cho nước Pháp những xáo trộn hiểm nguy trong giai đọan và sau ngày Giải
phóng. Thực hiện được kỳ công này, de Gaulle bị tất cả ghét bỏ, ngay cả trong
hàng ngũ gaullistes. Không ai ngạc nhiên vì de Gaulle không có thói quen chạy
tìm sự ngưỡng mộ của quần chúng.
Từ những bước đầu, de Gaulle đụng
chạm với các bạn người Anh. Chính phủ Luân-đôn mộ lính gốc Pháp để sung vào
Quân đội Hoàng gia, vì thế gây trở ngại cho việc thành lập Lực lượng Pháp Tự
do. Tháng 8.1940, Lực lượng này chỉ có 7000 tay súng, đặt dưới quyền Bộ Quốc
phòng Anh quốc, các chiến hạm Pháp đào tẩu cũng phải nhập vào Hải quân Royal
Navy, thật là một cảnh não lòng ! Mùøa hè 1940, tổ chức France Libre
gồm võn vẹn vài ngàn chiến sĩ và le ngoe một số thầy rùa quây quần xung quanh
một lãnh tụ cao nhồng nhồng như cây tre miểu. Qua mùøa thu, các thuộc địa Phi
châu và Océanie bắt đầu hàng phục de Gaulle, gây thêm uy thế. Một Uûy ban Bảo
vệ Lãnh thổ và tiếp theo một Bộ Tổng Tham mưu được thiết lập. Chính phủ Pétain,
chi phối bởi Đức quốc xã, bị xem như vi hiến. Trong lúc chờ đợi tuyển cử, Hội
đồng (lưu vong) Quốc gia Kháng chiến Pháp là cơ chế hợp pháp duy nhứt. Điều này chưa hẳn có tính cách thuyết phục
phe Đồng minh.
Bang giao de Gaulle – Winston Churchill không mấy thân
mật. Cơ hội bất hoà không thiếu: việc tuyển mộ các ngừơi Pháp Tự do, Hải quân
Hoàng gia đánh chìm một hạm đội Pháp tại Mers-el-Kébir, sư can thiệp khả nghi
của quân Anh trong các thuộc địa Pháp….Churchill đặt Anh quốc trên quyền lợi
Pháp. Dư luận Anh từ chối xem de Gaulle như nhà lãnh đạo Chính phủ Pháp. Cho
đến ngày Paris
được giải thoát, Churchill không tin phong trào gô-lít thật sự lớn mạnh.
Về phần Roosevelt, ông vẫn coi Chính phủ Pétain như hợp pháp và
không thích de Gaulle ra mặt. Roosevelt thường
chế diễu de Gaulle như một nhà độc tài tập sự, một xếp phát-xít “bao vây bởi
một nhóm điệp viên nazis.” Sử liệu còn tiết lộ Roosevelt
ra lịnh cấm thông tri cho de Gaulle hay kế hoạch Đồng minh đổ bộ tháng 11.1942
ở Bắc Phi (thuôc chủ quyền Pháp) và ngay cả Normandie. De Gaulle đã phản ứng với lời lẽ bực dọc
{“La France n’est pas une colonie! Nước PËháp không phải là một thuộc
địa!”), đặc biệt khi chủ quyền Pháp bị xem thường. Mối giao hảo với Anh và Mỹ trở nên nặng nề.
De Gaulle cực lực chống quyết định
Anh-Mỹ bổ Đề đốc Jean Francois Darland (đại diện của Chính phủ Vichy) làm Tổng
Quản trị Bắc Phi. Hoa Thịnh Đốn công khai ủng hộ tướng Giraud thay Darland bị
ám sát. Giraud không thiện cảm với de
Gaulle mà ông gọi một cách khinh miệt “mon petit de Gaulle…”. Tháng
5.1943, de Gaulle dời tổng hành dinh về Alger và tổ chức Hội đồng Giải phóng
Quốc gia đại diện cho tất cả các người Pháp Tự do. Hai vị tướng này đồng chủ
tọa. Mười tháng sau, de Gaulle loại Giraud ra khỏi Hội đồng, lôi cuốn về phía
mình một số ủng hộ viên thượng thặng của đối thủ như Jean Monnet và Couve de Murville.
Các Tổng trưởng và Uûy ban Tư vấn của
Hội đồng Giải phóng Quốc gia nghiên cứu
các cải tổ xã hội và kinh tế của Cọng hoà Pháp tương lai.Nhưng de Gaulle bắt
đầu nói tới một bản Hiến pháp lý tưởng khả dĩ bảo vệ “một chính phủ mạnh và
sự ổn định đòi hỏi bởi uy quyền Quốc gia và thanh danh nước Pháp.” – một
Hiến pháp dành nhiều quyền cho Tổng thống
thay vì cho một Viện Dân biểu bất lực và chia rẽ.
De Gaulle phản ứng giận
dữ khi hay Roosevelt định đặt nước Pháp dưới
sự quản trị của “Chính phủ Quân sự Đồng minh tại những Lãnh thổ chiếm đóng, Allied
Military Government in Occupied Territories hay AMGOT”.
Roosevelt viết thơ cho Churchill: “Về de
Gaulle, tôi không biết phải làm gì? Ông có thể bổ nhiệm y Thống đốc Madagascar hay
không?” Mọi giông tố đổ dồn trên đầu Churchill. Bựïc mình, vị Thủ tướng Anh
nổ to: “Cho ông biết: giữa Roosevelt và ông, tôi sẽ luôn luôn chọn Roosevelt!” Nhân viên AMGOT không có thời giờ nhậm
chức. Tại những vùng giải phóng, các đại diện gaullistes thay thế dễ dàng và
mau lẹ các đại diện vichystes. Quần chúng Paris
tiếp đón ngày 25.2.1944 de Gaulle như một cứu tinh dân tộc và tặng cho ông biệt
danh “Người của 18 tháng 6”. Nhiều tự ái, bướng bỉnh và đầy hấp lực, de
Gaulle là một biểu tượng làm cho nước Pháp hãnh diện.
Quyết định đầu tiên của de
Gaulle là giải tán các đơn vị kháng chiến Cộng sản. Đồng minh vẫn chưa đối xử
công bằng: de Gaulle không được mời dự ngày D-Day Đồng minh đổ bộ Aâu châu và
cả hai Hội nghị Yalta
và Postdam. Ngày 14.6.1945, de Gaulle đến Âu châu, một tuần sau Đồng Minh. Anh
và Mỹ chỉ công nhận chính phủ de Gaulle vào tháng 10.1945. Trong một buổi họp báo, de Gaulle
xỏ ngọt: « Chính phủ Pháp vưà ý được người ta vui lòng gọi chính
danh ! » Pháp có một bản
Hiến pháp mới không đúng theo ý niệm của de Gaulle vì trao nhiều quyền cho một
Viện Dân biểu đa đảng. De Gaulle được bầu làm Tổng thống với đa số tuyệt đối.
Tuy có những yếu tố để trở thành một
lãnh tụ độc tài, de Gaulle không quan niệm thể chế toàn trị thích hợp với nước Pháp.
Ngày 21.1.1946, ông từ chức: «Thể chế đa đảng chuyên chế tái xuất. Tôi không
đồng ý. Tôi rút lui ». Quyết định này chứng minh tinh thần dân chủ của
de Gaulle. Lãnh tụ CS Maurice Thorez phê bình khâm phục: « Đó là một sự
ra đi không thiếu tính cách cao thượng ! » Thật ra sự từ
chức này là một kế sách. De Gaulle về mài gươm chờ thời 12 năm tại
Colombey-Les-Deux-Eùglises, viết hồi ký L’appel (1954), L’Unité
(1956) và Le Salut (1959), ông thành lập đảng Rassemblement du Peuple
Français hay RPF.
Đệ tứ Cọng hoà Pháp càng ngày càng tuột dốc:
lạm phát nặng, mất thuộc địa Đông Dương, tướng lãnh tại Algérie nổi lọan, nguy
cơ nội chiến bùng nổ năm 1958…Vói những lý do khác nhau, cách thành phần xã hội
Pháp – một lần nữa - hướng về anh hùng de Gaulle. Tháng 6.1958, tình hình nguy
kịch. Tổng thống Đệ tứ Cọng hoà kêu cứu. De Gaulle tái xuất giang hồ, đặt điều
kiện: Viện Dân biểu phải đích thân mời thỉnh và de Gaulle nhận chức chỉ trong
sáu tháng, thời gian cần để ban hành Hiến Pháp mới. Mọi đòi hỏi được chấp nhận.
Ba
tháng sau, Hiến pháp ra đời. Đệ ngũ Cọng hoà là một cọng hoà theo Tổng thống
chế, quyền hạn của Quốc hội bị giới hạn, Đảng Gaulliste chiếm đa số, Michel
Debré làm Thủ tướng. De Gaulle hưởng nhiều đặc quyền như bổ nhiệm Nội các, giải
tán Quốc hội, cho trưng cầu dân ý các dự án luật nếu cần, chỉ huy trực tiếp Bộ
Ngoại giao và Quốc phòng, có toàn quyền trong trường hợp nguy khổn quốc
gia..v…v.. Dư luận quốc nội và hải ngoại tỏ ra quan ngại về việc tập trung quá
nhiều quyền trong tay Tổng thống. Tuy nhiên de Gaulle không lợi dụng và chỉ hành động theo nhu cầu tình thế. Nhóm sĩ
quan bất phục tùng thành lập Tổ chức bí mật của Quân đội, Organisation
secrète de l’Armée hay OAS. Bị mưu sát hụt nhiều lần, De Gaulle không nao núng.
Dưới vỏ ngoài cứng rắn, bất chấp dư luận, ẫn nấp một de Gaulle chân thật, có
nhiều nhân tính, dễ chán nản, rất trí thức…
Công lớn của de Gaulle
đối với Tổ quốc là cứu vãn danh dự nước Pháp năm 1940, bảo đảm dân chủ năm 1944
(từ chối trở nên đôc tài và vô hiệäu hoá đảng Cộng sản) và tránh cuộc nội chiến
năm 1958. Tháng 6.1968,tuy không mấy sốt sắng, cử tri tái bầu cho de Gaulle và
đảng RPF, thành trì chống hỗn loạn. De Gaulle chủ trương Pháp lãnh đạo Aâu châu để thể hiện sứ mạng văn minh của mình.
Theo ông Pháp phải độc lập đối với Aâu châu và Hoa kỳ (điều mà nhiều người Pháp
coi như không tưởng), tự do quyết định chính ngoại giao (= công nhận Trung cộng
nếu muốn) và tự do điều khiển quốc phòng (như chế tạo bom nguyên tử của mình).
De Gaulle không thích cho Pháp tham gia Tổ chức phòng thủ chung Aâu châu hay
OTAN và Thị trường chung Aâu châu hay Marché Commun vì Pháp không được ngang hàng quyết định về
chính trị, ngoại giao và chiến thuật.
Trong vòng 50 năm hay
một thế kỷ tới, di sản và con người de Gaulle sẽ được hai cánh ủng hộ và chống
đối thẩm định công minh. De
Gaulle lo âu về tương lai. Ông mong đã đẩy nước Pháp lên đủ cao để khi rơi
xuống, đất nước mến yêu của ông ít nữa cũng ở vào một vị trí có thể chấp nhận.
C - Lưu vong trui rèn người tân lãnh tụ Việt Nam.
Người tân lãnh tụ đuợc
dân VN chọn lựa trong thời kỳ hậu CS để lèo lái quốc gia sẽ là – mong thay -
một gương mặt đấu tranh già dặn xuất thân hoặc từ hàng ngũ chiến sĩ dân chủ
trong nước, hoặc từ nhóm lưu vong ở hải
ngoại. Tôi không nghĩ y bắt buộc thuộc thành phần võ biền. Giai đoạnï phục quốc
sắp tới, thật vậy, không hẳn đòi hỏi một cuộc đổ máu mới mà dân Việt và thế
giới ngao ngán sau nhiều thập niên Nam, Bắc phân tranh. Trong thế giới
tân tiến ngày nay, có nhiều phương thức hữu hiệu hơn súng ống nếu xử dụng đúng
mức. Trường hợp chúng ta không phải là trường hợp “mất nước” như Pháp năm 1940
mà là trường hợp phục hồi chủ quyền phe quốc gia dân chủ trong tay của chế độ
toàn trị Cộng sản Việt nam.
Để giúp Đất nước phát
triển (vì phát triển là vấn đề sống chết đối với dân tộc VN), một lãnh tụ lão
luyện về kinh tài và chính trị rất cần thiết trong tương lai. Kinh nghiệm những
năm gần đây cho thấy tại nhiều xứ vừa thoát khỏi nội chiến và ách toàn trị, thế
hệ lãnh đạo phần đông thuộc về loại này.
Hậu thuẩn của quần chúng
chưa đủ, phải có thêm cái thế quốc tế.
Muốn được dân trong nước và thế giới bên ngoài công nhận, người lãnh tụ
cần chứng minh những đặc tính về đạo đức lẫn trí tuệ. Một nhà lãnh đạo thành
công phải vừa là một diễn viên và một nhân chứng, lắm khi một nạn nhân của lịch
sử, trui rèn trong thử thách. Winston Churchill từng nhận xét: “Thành công
là đi từ thất bại này qua thất bại khác mà vẫn không mất sự hăng say.” Mỗi
vấp ngã là một bài học mới. Nhà lãnh đạo đối đầu với nghịch cảnh mà không buông
xui, thắng cuộc mà không ỷ lại, gắn liền thân phận cá nhân với sự tồn vong của
xứ sở. Vẫn sáng suốt bám chặt vào cái gốc nhân dân mà sự phúc thịnh tạo ra
chính nghĩa. Cần thấy xa, hiểu rộng và có viễn kiến chính trị. Không tự phụ xem
mình là con người toàn hão, không có không được, “sau tôi là Đại hồng thủy”.
Cá nhân Charles de Gaulle
hộäi nhiều đặc tính hiếm quý nêu trên. Giai đọan lưu vong là giai đọan khó khăn
nhứt. Cử chỉ tuyệt đẹp của de Gaulle là một khi tái lập an bình cho Đất nước,
ông tuân thủ quyết định tối thượng của Quốc dân. Năm 1969, bất mãn về một loạt
thất bại kinh tế, ngoại giao và giáo dục của Chính phủ qua nhiệm kỳ ba Thủ
tướng bổ nhiệm là Michel Debré, George Pompidou và Maurice Couve de Murville,
cử tri Pháp bác bỏ đề nghị của Tổng thống de Gaulle tu chính Hiến pháp.
Ngày 28.4.1968, de
Gaulle từ nhiệm, rút lui một lần nữa về Colombey-les-Deux-Eùglises như năm
1946. Phen này, để vĩnh viễn gác kiếm.
Hoàn tất quyển Hồi ký chót như lời trối cuối cùng với nước Pháp, De
Gaulle qua đời ngày 9.11.1970.
LÂM LỄ
TRINH
Thủy Hoa Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1- World War II
Commemoration, Charles de Gaulle by Joel Colton, Duke University (Internet)
2-
Gallerie
de 12 portraits contemporains
by Lucette Rollet Kenan. NY, Penguin
collection, 1995
3-
Charles
de Gaulle, Political
Leader, WW II figure, Internet
Tiểu
sử Luật Sư Lâm Lễ Trinh
Cử nhân và Cao học Luật khoa
(ĐạI hoc Luật khoa Hà Nôi). Tiến sĩ Luật khoa và Tiến sĩ Giáo dục Hoa kỳ.
Chánh Nhất Tòa Thượng thẩm Saigon,trước khi tham gia Chính Phủ Ngô Đình Diệm với
chức vụ Bộ trưởng NộI vụ (1955-1959). Đai sứ VNCH tạI Trung Đông và Ý Đai lợI
(1960- 1964).
Luật sư Tòa Thưởng thẩm
Saigon, Giáo sư Học viện Quốc gia Hành chính, và trường Chính trị, Kinh Doanh
Đà Lạt (1965-1975).
Định cư tại Californie
năm 1975.
Chủ nhiệm/chủ bút Tạp chí song
ngữ Anh, Pháp Human Rights / Droits de l’Homme từ năm 1998. .Tác giả nhiều bài
bình luận đăng trên báo chí Hoa kỳ, Canada và Âu châu. Đã xuất bản bốn
tác phẩm:VỀ NGUỒN, Sinh lộ cho Quê Hương (2006),THỨC TỈNH, Quốc gia và Cộng sản
(2007), VIETNAM, A PAINFUL TRANSITION (2007) và VIETNAM, TÉMOIGNAGES (2008).
Cố vấn Hệ thống Việt Nam
TV/Truyền thanh Hải ngoại, Washington
DC.
Điều hợp chương trình phỏng
vấn truyền hình « Mạn đàm với Lịch sử »
Cử nhân và Cao học Luật khoa
(ĐạI hoc Luật khoa Hà Nôi). Tiến sĩ Luật khoa và Tiến sĩ Giáo dục Hoa kỳ.
Chánh Nhất Tòa Thượng thẩm Saigon,trước khi tham gia Chính Phủ Ngô Đình Diệm với
chức vụ Bộ trưởng NộI vụ (1955-1959). Đai sứ VNCH tạI Trung Đông và Ý Đai lợI
(1960- 1964).
Luật sư Tòa Thưởng thẩm
Saigon, Giáo sư Học viện Quốc gia Hành chính, và trường Chính trị, Kinh Doanh
Đà Lạt (1965-1975).
Định cư tại Californie
năm 1975.
Chủ nhiệm/chủ bút Tạp chí song
ngữ Anh, Pháp Human Rights / Droits de l’Homme từ năm 1998. .Tác giả nhiều bài
bình luận đăng trên báo chí Hoa kỳ, Canada và Âu châu. Đã xuất bản bốn
tác phẩm:VỀ NGUỒN, Sinh lộ cho Quê Hương (2006),THỨC TỈNH, Quốc gia và Cộng sản
(2007), VIETNAM, A PAINFUL TRANSITION (2007) và VIETNAM, TÉMOIGNAGES (2008).
Cố vấn Hệ thống Việt Nam
TV/Truyền thanh Hải ngoại, Washington
DC.
Điều hợp chương trình phỏng
vấn truyền hình « Mạn đàm với Lịch sử »