http://www.tannamtu.com/?p=2822
Về học giả Nguyễn
Văn Vĩnh
Nguyễn Lân Bình
LỜI MỞ ĐẦU
Ngót 10 năm qua, kể từ buổi tọa đàm lịch sử tại bảo
tàng Cách mạng Việt Nam nhân ngày Nhà báo Cách Mạng Việt
Nam 20/6/2002, với nhan đề: “Tọa đàm về nhân vật
lịch sử Nguyễn Văn Vĩnh 1882- 1936” do Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam phối hợp cùng gia tộc học giả
Nguyễn Văn Vĩnh tổ chức, tôi đã theo sát những diễn
biến xã hội đối với đề tài cực kỳ đặc biệt
này.
Phạm vi hoạt động của Nguyễn Văn Vĩnh có ở hầu hết
các lĩnh vực xã hội, trong bối cảnh xã hội Việt Nam
đầu thế kỷ XX là giai đoạn tiếp nhận và hình thành
nhiều loại hình tư tưởng, nên việc nhìn nhận những
diễn biến của nó, cần có độ lùi về thời gian để
kiểm chứng và chiêm nhiệm. Bên cạnh đó, những di sản
của Nguyễn Văn Vĩnh có đến 50% viết bằng tiếng Pháp,
đó là rào cản tạo ra một số những nhận định mang
tính phiến diện, do người đọc không có điều kiện
nghiên cứu một cách đầy đủ, dẫn đến sự thiên lệch
trong việc đánh giá con người và sự nghiệp của
ông.
Tôi tin bài viết này như một sự tổng hợp để người
đọc hiểu Nguyễn Văn Vĩnh một cách đầy đủ hơn, qua
đó sẽ có được sự phản hồi cần thiết, nhằm giúp
những ai quan tâm và liên đới bớt trăn trở vì những
sự bất công, khi bàn đến đề tài Nguyễn Văn Vĩnh ở
những giai đoạn trước đây, từ đó có trách nhiệm hơn
với sự thật, với lịch sử.
Lịch sử và văn hóa là những yếu tố căn bản tạo nên
lòng yêu nước của bất cứ dân tộc nào. Để cụ thể
hóa, tôi xin nêu những kiến nghị đối với Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng hòa Pháp, cùng các tổ chức Quốc tế có chức năng
đánh giá những giá trị về lịch sử, văn hóa của nhân
loại, xem xét, kết luận những giá trị có tính ảnh
hưởng đến xã hội do Nguyễn Văn Vĩnh để lại.
I. THÂN THẾ và SỰ NGHIỆP
1. Xuất thân.
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15/6/1882 tại thôn Phượng Vũ,
xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là
huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Ông là con cả trong một gia
đình nông dân nghèo. Bố là Nguyễn Văn Trực. Đầu những
năm 80 thế kỷ XIX, gia đình đã bỏ quê ra Hà Nội, sống
nhờ ở nhà một người họ hàng bên vợ, tại 46 phố
Hàng Giấy.
Năm 1890, khi Nguyễn Văn Vĩnh 8 tuổi, gia đình cho Nguyễn
Văn Vĩnh đi chăn bò thuê ngoài bãi Long Biên (chân cầu
Long Biên, cây cầu mãi đến năm 1902 mới hoàn thành, còn
được gọi là cầu Paul Dumer). Do công việc chăn bò, cậu
bé Vĩnh thường thả bò ngược lên phía Bắc bờ sông
Hồng và được biết, tại đền Yên Phụ (Hiện vẫn còn
nguyên vẹn trong khuôn viên trường PTCS.Mạc Đĩnh Chi, số
66 phố Phó Đức Chính, quận Ba Đình) có lớp học do
người Pháp dạy, dành cho những ngưòi đã đỗ tú tài
và cử nhân, học để trở thành thông ngôn (phiên dịch).
Cậu Vĩnh ngỏ ý xin bố tìm cách để được vào làm
công việc gì đó cho ngôi trường này.
Thông qua gia đình ở nhờ (Chủ nhà làm công việc dạy
trẻ con trong địa bàn phố Hàng Giấy) tìm manh mối… và
cậu Vĩnh đã may mắn xin được làm chân kéo quạt mát
cho lớp học (thời đó chưa có điện). Vậy là, 8 tuổi,
cậu Vĩnh chia tay với việc chăn bò thuê, trở thành Thằng
nhỏ kéo quạt. Một khóa học 4 năm, khi Nguyễn Văn
Vĩnh vào làm, lớp đã học gần hết năm thứ hai. Trong
quá trình làm “thằng nhỏ” kéo quạt, cậu Vĩnh
mặc nhiên được cùng nghe giảng với 40 học viên. Nhiều
lần cậu đã bị phạt, thậm chí bị đòn vì nói leo
theo thầy giáo Tây, gây mất trật tự, và hay nhắc bài
các học sinh ngắc ngứ khi trả lời thầy giáo.
Năm 1892. lớp học của Thằng nhỏ kéo quạt mãn
khoá, dù bị đòn nhiều lần, nhưng cũng nhờ đó mà
Nguyễn Văn Vĩnh gây được ấn tượng đối với ông
giáo. Ông giáo có tên là A. D’argence, đã thử sức
“Thằng nhỏ kéo quạt” bằng việc cho phép cậu
được thi tốt nghiệp cùng với cả lớp, cậu đỗ thứ
12 trên 40 học viên.
Ngôi trường là nơi đào tạo thông ngôn (phiên dịch) cho
chế độ cai trị của người Pháp – Collège des
Interprêtes – mà sau được gọi là trường Hậu bổ,
nghĩa là sau khi tốt nghiệp, sẽ được bổ nhiệm đi
làm, không phải đệ đơn đi xin việc. Tuy nhiên, việc
Nguyễn Văn Vĩnh tốt nghiệp ở tuổi lên 10 là điều
khác thường, và 10 tuổi không thể bổ nhiệm làm viên
chức. Trước thực tế đó, nhà trường đã quyết định
cho Nguyễn Văn Vĩnh học lại chính khoá từ đầu.
“Thằng nhỏ kéo quạt” đã thưa chuyện với bố,
và được người bố trả lời như sau: “Học hành
cái gì, một là tiếp tục kéo quạt, hai là lại đi chăn
bò, tiền đâu mà đi học?!”. Chỉ vài ngày sau, ông
giáo Tây đã đến tận nhà để tìm hiểu, vì sao Nguyễn
Văn Vĩnh không đến trường?! Khi biết rõ lý do, ông giáo
đã khẳng định với gia đình, rằng học không mất
tiền!
Nguyễn Văn Vĩnh lại được đến trường. Sau 4 năm mãn
khoá, Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa năm 1896. Tuy nhiên, dù
Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa, nhưng ở tuổi 14, không
thể vào làm cho các cơ quan chính quyền thời đó. May
thay, ông D’Argence có người bạn thân làm việc ở Tòa
sứ Lao Cai. Nhiều lần, do vô tình đến thăm nơi ông A.
D’argence dạy học, người bạn này, đã tận mắt chứng
kiến sự khác thưòng của “Thằng nhỏ kéo quạt”,
bị ấn tượng mạnh, ông ta đã quyết định đứng ra
xin nhà cầm quyền được dùng Nguyễn Văn Vĩnh. Nguyễn
Văn Vĩnh trở thành thông ngôn cho Tòa sứ Lao Cai lúc 15
tuổi.
2. Đời Công chức
Những năm Nguyễn Văn Vĩnh làm việc cho Tòa sứ Lao Cai,
là những năm đầu tiên chính quyền Thực dân khởi công
xây dựng tuyến đường sắt Lao Cai – Vân Nam. Năm 1899,
chính quyền thấy công việc đã khởi động tốt, họ
điều Nguyễn Văn Vĩnh chuyển về làm tại Toà sứ Hải
Phòng. Ở Toà sứ Hải Phòng, Nguyễn Văn Vĩnh lần đầu
tiên đã tham gia viết bài cho tờ báo Tin tức Hải
Phòng in bằng tiếng Pháp “Courrier de Hai Phong”. Tại
đây, Nguyễn Văn Vĩnh đã học tiếng Hoa và tiếng Anh do
công việc luôn phải va chạm với các thủy thủ là người
nước ngoài. Cũng vào thời gian này, Nguyễn Văn Vĩnh đã
tự học hết chương trình phổ thông theo sách giáo khoa
tiếng Pháp, nhờ mua lại của một thuỷ thủ người Anh.
Đây chính là giai đoạn Nguyễn Văn Vĩnh đã lọt vào tầm
mắt của François-Henry Schneider1.
Năm 1903, Nguyễn Văn Vĩnh được điều chuyển về Toà sứ
Bắc Giang. Tòa sứ Bắc Giang nằm dưới quyền của Công
sứ Hauser. Năm 1905, Công sứ Hauser được điều chuyển
về làm Đốc lý Hà Nội. Chứng kiến năng lực và trình
độ khác thường của Nguyễn Văn Vĩnh, Đốc lý Hauser
quyết định kéo Nguyễn Văn Vĩnh cùng theo về Hà Nội.
Năm 1906, nước Pháp tổ chức Hội chợ thuộc địa (còn
gọi là Đấu sảo) tại thành phố cảng Mác Xây, Pháp.
Chính quyền giao việc này cho Tòa Đốc lý Hà Nội, Đốc
lý Hauser đã giao toàn bộ công việc chuẩn bị tham gia
hội chợ cho đích danh Nguyễn Văn Vĩnh. Nguyễn Văn Vĩnh
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này, và sau đó xin
lưu lại Pháp thêm 3 tháng.
Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị ngành
công nghiệp báo chí và xuất bản hấp dẫn và cuốn hút,
đồng thời ông kết thân với một số chí sỹ người
Pháp như: Pierre Vierge, Lhermite… Cũng giai đoạn này,
Nguyễn văn Vĩnh đã chính thức ra nhập vào Hội Nhân
quyền Pháp (Ligue des Droits de L Homme). Những diễn
biến này đã tác động mạnh vào tâm lý, tạo một động
lực mạnh mẽ trong con người Nguyễn Văn Vĩnh, hướng
đến sự nghiệp làm báo và xuất bản2.
Để thực hiện ý tưởng và lý tưởng của mình về
việc xây dựng nền báo chí bản địa, khi trở về nước,
Nguyễn Văn Vĩnh quyết định từ bỏ con đường công
chức để phục vụ mục đích: xây dựng nền văn hóa
của chữ Quốc ngữ, trên cơ sở ban đầu là phổ biến,
quảng bá chữ Quốc ngữ thông qua việc làm báo. Cho đến
cuối đời, Nguyễn Văn Vĩnh không tham gia bất kỳ một
cơ quan hành chính, hoặc nhận bất kỳ một chức vị nào
của bộ máy chính quyền đương thời.
Nghiệp làm viên chức của Nguyễn Văn Vĩnh chỉ vẻn vẹn
đúng 10 năm.
3. Sự nghiệp Báo chí
Thông qua những suy nghĩ của Nguyễn Văn Vĩnh trong bức
thư viết năm 1906 từ Mác Xây, gửi cho người bạn thân
là Phạm Duy Tốn (1881-1924), cùng với những diễn biến
của cách mạng tư tưởng của các chí sỹ cùng thời,
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn
Văn Vĩnh xác định, việc nâng cao dân trí phải là mục
tiêu hàng đầu3.
Theo ông, dân trí phụ thuộc căn bản ở nền văn hoá,
mà văn hoá lệ thuộc vào ngôn ngữ, trong khi Việt Nam
ngày đó, mọi giao dịch văn bản trong nền hành chính xã
hội đều sử dụng chữ Hán và chữ Pháp. Sự vay mượn
này đã đặt ngưòi Việt Nam đầu thế kỷ XX, ở tình
trạng nói một cách và viết một cách khác!
Nhận thấy đây là trở ngại lớn trong việc học tập
để nâng cao tri thức trong xã hội, các chí sỹ tiến bộ
đã lo lắng trước mặt bằng dân trí giai đoạn này ở
xã hội nước Nam quá thấp kém và mông muội, u tối, hậu
quả của lối sống phong kiến kéo dài. Chế độ giáo
dục khoa cử nghặt nghèo, việc dùng chữ Hán, Nôm, những
loại ngôn ngữ mà chỉ có một số ít người dân có khả
năng tiếp thu, đồng thời, tốn quá nhiều công sức
trong việc học:
“Xưa kia đàn ông dùi mài bao nhiêu lâu, tốn bao nhiêu
cơm cha mẹ, mới cầm được quyển sách, miệng ngâm đùi
rung, mà vị tất trong lòng đã được cái lý thú gì là
lý thú thực…”4
Nguyễn Văn Vĩnh đặt mục tiêu đầu tiên, là phải tháo
gỡ trở ngại này, bằng việc tìm cách quảng bá, khuyến
khích người dân dùng chữ Quốc ngữ, vì chữ Quốc ngữ
rất dễ tiếp thu. Ngoài ra, ông thúc đẩy nhà cầm quyền
ủng hộ chủ trương này, nhằm rút ngắn quãng đường
đến mục tiêu mình định hướng.
Phục vụ cho lý tưỏng này, Nguyễn Văn Vĩnh đã hợp tác
với F. H. Schneider. Cuộc hội ngộ này là sự trùng hợp
ngẫu nhiên, hệ quả của những đòi hỏi lịch sử,
trong một giai đoạn nhất định giữa mưu đồ và
ý đồ. Bên cạnh lý tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh,
muốn xây dựng một nền tri thức độc lập, trên cơ sở
tiếng nói mẹ đẻ với chữ viết được Latin hóa, nhưng
phía đối diện là chính sách cai trị của Chính quyền
Thực dân, cần phát triển chữ Quốc ngữ để phục vụ
cho việc tuyên truyền cho chủ trương đô hộ lâu dài.
Nguyễn Văn Vĩnh ngày đó mới hơn 20 tuổi, một người
chỉ với 2 bàn tay trắng, khó để có sự lựa chọn nào
khác, nếu không dựa vào sự hợp tác để thực hiện lý
tưởng của mình.
Nguyễn Văn Vĩnh hiểu rõ, muốn cho người dân học chữ
Quốc ngữ, nhất thiết phải có văn học chữ Quốc ngữ.
Vậy văn học chữ Quốc ngữ lấy từ đâu? Sau nhiều lần
thương thảo, giữa một bên có cơ sở vật chất và
chuyên môn (Francois Henri Schneider), với một bên chỉ có
trí tuệ và lý tưởng (Nguyễn Văn Vĩnh), để rồi trở
thành sự gắn bó lâu dài đến tận năm 1918.
Xác định được hướng đi, đặt được quyết tâm sống
còn của mình, cũng là lúc, Nguyễn Văn Vĩnh bắt gặp tư
tưởng của Phan Châu Trinh (1872-1926)5
. Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời, một trào
lưu tư tưởng hoàn toàn mới. Nguyễn Văn Vĩnh chính thức
bước chân vào nghề làm báo từ diễn biến lịch sử
này. Ông tin, đây là phương tiện văn hóa đầu tiên, tạo
được tác động mạnh vào cuộc sống tinh thần của xã
hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nguyễn Văn Vĩnh đã là Chủ bút các báo:
· 1907 Đăng cổ Tùng báo – (Tiếng nói của Đông
kinh Nghĩa thục) .
· 1908 Notre Journal (tiếng Pháp).
· 1910 Notre Revue (tiếng Pháp).
· 1913 Đông dương Tạp chí. (Tờ báo đầu tiên ở
Bắc kỳ quy tụ được hầu hết các chí sỹ cùng thời
nổi danh nhất Bắc và Trung kỳ trong Ban Biên tập)6.
· 1917 Trung Bắc Tân văn. (Nhật báo đầu tiên của
lịch sử báo chí Việt Nam).
· 1919 Trung Bắc Chủ Nhật.
· Học Báo.
· 1931 L’Annam Nouveau – Nước Nam mới (Tiếng
Pháp) – Tờ báo được giải thưởng Grand Prix tại Paris
1932).7
Người Pháp thực dân, đã không tính hết được sự lợi
hại của việc truyền bá chữ Quốc ngữ mà có lúc, họ
đã thoáng ân hận, dẫn đến việc dập vùi Phong trào
Đông kinh Nghĩa thục, cũng như tìm mọi biện pháp để
khống chế Nguyễn Văn Vĩnh. Kể cả về sau này, họ từng
lấp liếm những giá trị trong tư tưởng tiến bộ của
ông, những tư tưởng ông đã tiếp thu được nhờ ở
chính các tác phẩm, những quan điểm triết học kinh điển
của các triết gia Âu Châu hiện đại, của văn hoá Pháp,
cũng như nền báo chí phát triển tiến bộ của Tây
phương.
4. Sự nghiệp dịch thuật
Nguyễn Văn Vĩnh nhận thức rất sâu về vai trò của ngôn
ngữ đối với bản sắc văn hoá của một dân tộc, ông
đã ra công tìm kiếm, lựa chọn những tinh hoa trong kho
tàng văn hoá nhân loại, lấy đó làm hạt nhân để phát
triển trí tuệ cho đồng bào của ông, thực hiện lý
tưởng của chính mình và của các nhân sỹ tiến bộ
cùng thời. Ông xác định, muốn người dân học chữ,
cần có gì đó để đọc, muốn người dân có trí tuệ,
cần thu nhận những kiến thức tiến bộ của nhân loại,
và đó sẽ là vũ khí để đấu tranh đòi sự tôn trọng
lẫn nhau với Nhà cầm quyền, để đề đạt nguyện vọng
cần có một cuộc sống dân chủ, đồng thời cũng để
chứng minh tinh thần văn hóa của dân tộc mình, và Nguyễn
Văn Vĩnh đã dịch:
“Thư Trước tác hậu bổ” của Phan Châu Trinh gửi
Toàn quyền Đông dương“Lettre de Phan Chu –Trinh au
gouverneur général en 1906”. ngày 15 tháng 9 năm Thành
Thái thứ 18 (1906) từ Hán văn ra Pháp văn8
.
– Năm 1909, cùng Phan Kế Bính (1875-1921) dịch trọn bộ
tác phẩm“Tam quốc chí diễn nghĩa” từ Hán văn
ra Quốc ngữ. Ông là người hiệu đính và viết lời
tựa. Trong lời tựa, Nguyễn Văn Vĩnh lần đầu tiên đã
xác định vững vàng:
“Nước Nam ta sau này hay dở, cũng ở như chữ Quốc
ngữ”.
– Năm1911, tác phẩm“Quan Âm Thị Kính” lần đầu
tiên được in bằng chữ Quốc ngữ và người xuất
bản là Nguyễn Văn Vĩnh9.
– Từ số 15 của “Đông dương tạp chí” –
1913, trong mục Giáo dưỡng đạo lý, Nguyễn
Văn Vĩnh đã trích dịch từ Pháp văn ra Việt văn các bài
viết của những nhà tư tưởng Châu Âu như: J. J. Rousseau
(1712 – 1778), Blaise Pascal (1623-1662), Francois Rabelais
(1494-1553) … Từ số 28 trở đi, Nguyễn Văn Vĩnh dịch
các bài viết về triết học của các nhà triết gia cổ
điển nổi tiếng thế giới.
Trong những năm hai mươi của thế kỷ XX, Nguyễn Văn Vĩnh
đã dịch:
“Ba chàng ngự lâm pháo thủ” của A.Dumas
(1802-1870). “Telemaque phiêu lưu ký” của Fenelon
(1651-1715). Các vở hài kịch của Moliere (1622-1673). Tập
truyện thơ ngụ ngôn của Jean de La Fontaine
(1621-1695).“Lesage” của Gil-Blas de Santillane
(1715-1735). “Manon Lescaut” (Mai nương Lệ cốt) của
Abbé Prevots. Sách in năm 1731 bị cấm ở Pháp. “Những
kẻ khốn nạn” – Les misérablés – của V.Hugo
(1802-1885). “Miếng da lừa” – LaPeau de chagrin
– của H. De Balzac (1799-1850). “Sử ký thanh hoa” –
Le Parfum des humanités – của E. Vayrac.“Ba chàng ngự
lâm pháo thủ” – Les Trois Mousquetaires – của A.
Dumas (1802-1870). “Truyện trẻ con” của Charles
Perrault (1628-1703). “Tục ca lệ” – Turcaret – của
René Lesage (1668-1747). “Chuyện các bậc danh nhân Hy Lạp
và La Mã” – Les vies parallèles des hommes illustres de la
Grèce et Rome – của Plutarque (Plutarch).“Dulivê du
ký” – Les voyages de Gulliver – của Jonathan Swift
(1667-1745). “Tiền Xích bích và Hậu Xích bích” từ
Hán văn ra Pháp văn của Tô Thức – Tô Đông Pha
(1037-1101), Toàn bộ “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du ra tiếng Pháp10,
và còn rất nhiều nữa…
Các tác phẩm nêu trên, đều là những tác phẩm được
xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam. Một số được
xuất bản theo phương thức in nhiều kỳ trên những tờ
báo do Nguyễn Văn Vĩnh là Chủ bút, một số ít được
xuất bản ngay thành sách bán ra thị trường. Giá trị
không thể chối bỏ của Nguyễn Văn Vĩnh trong lĩnh vực
dịch thuật, đó là việc đã chứng minh được khả năng
chuyển tải những tinh hoa trí thức của kho tàng văn hóa
thế giới, và tính phong phú có thật của tiếng Việt,
đập tan quan niệm cho rằng chỉ có tiếng Hán mới thể
hiện được đầy đủ tinh thần của tác phẩm11
.
Thành viên hội Khai trí
tiến đức – Ảnh lấy từ blog PhamTon
Hội Khai Trí Tiến Đức, còn được gọi là hội
AFIMA (viết tắt nguyên tên tiếng Pháp của hội
l’Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des
Annamites)
Thành tựu đáng ghi nhớ nhất của Hội là việc soạn
cuốn từ điển tiếng Việt mang tựa Việt-Nam Tự-điển
do nhà in Trung-Bắc Tân-Văn xuất bản năm 1931. Tiểu ban
phụ trách soạn thảo gồm các ông Phạm Quỳnh (chủ
bút), Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn
Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Đôn Phục, và Đỗ Thận.
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG và ĐÓNG GÓP XÃ HỘI.
Năm 1906 – Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam đầu
tiên gia nhập Hội Nhân quyền Pháp (Ligue des
Droits de l’homme). Nghi thức kết nạp ông, được thực
hiện tại Paris12.
Năm 1907 – Nguyễn Văn Vĩnh đứng đơn xin phép Nhà
Cầm quyền mở trường Đông kinh Nghĩa thục ở số 10
phố Hàng Đào, Hà Nội, do Lương Văn Can (1854-1927) là
Thục trưởng13.
Là người từ chối búi tó, mặc áo the, đội khăn
xếp và đi guốc, để thể hiện tính cải cách – Tân
học. Ông chính thức lấy bút danh là “Tân Nam tử”
khi viết báo. Là người đầu tiên đứng ra thành lập
“Hội dịch sách” tại Hội quán Trí tri ở 47 phố
Hàng Quạt, Hà Nội14.
Năm 1908 – Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam duy
nhất đứng ra ký đơn gửi Toàn quyền Đông Dương
(Haut-commissaire de France en Indochine) đòi thả Phan
Châu Trinh khi bị bắt, vì Phan Châu Trinh vô tội15.
Ông cũng là người bảo lãnh cho Phan Kế Bính thoát án
tử hình do tham gia Đông kinh Nghĩa thục16.
1918 – Là người từ chối nhận Kim khánh của
Triều đình Huế17.
1920 – Là người đầu tiên dàn dựng, đạo diễn
các vở hài kịch của đại văn hào Pháp Moliere, do ông
dịch sang tiếng Việt. Ông đã cùng các con trai của mình,
thủ vai trong một số vở hài kịch của Moliere, diễn
trên sân khấu Nhà Hát lớn Hà Nội.
1922 – Là người đầu tiên quyết định xây dựng
việc in ấn trở thành ngành công nghiệp18.
1924 – Là người đầu tiên thực hiện việc sản
xuất phim điện ảnh (cinematographie) với tác phẩm Kim Vân
Kiều (phim câm)19.
1926 – Là người Việt Nam đầu tiên hợp tác với
E. Vayrac thành lập Trung tâm phát hành các ấn phẩm văn
hóa mang tên “Âu Tây tư tưởng”.
Là người phát động phong trào cải tiến chữ Quốc
ngữ20.
1930 – Là người từ chối Bắc đẩu Bội
tinh của Chính phủ Pháp.
1931 – Từ chối làm Thượng thư cho Triều Đình
Huế.
1935 – Là người từ chối mọi ân sủng của Chính
phủ Thuộc địa, không chấp nhận thỏa hiệp khi bị cấm
viết. Ông chấp nhận “đi đày” ở Sê Pôn – Lào21,
với danh nghĩa đi tìm vàng để trả nợ ngân hàng.
http://www.tannamtu.com/?p=2842
23/11/2016 11:04 pm
III. NHỮNG HỆ LỤY CHÍNH TRỊ QUA CÁC THỜI KỲ.
Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam sớm có tư tưởng
dân chủ. Ông phải chứng kiến và bị giày vò trước sự
lạc hậu cùng cực của một dân tộc nô lệ, ông đã
quyết định làm mọi khả năng theo cách tư duy trí tuệ
mình có, để giải thoát sự khủng hoảng xã hội. Theo
Nguyễn Văn Vĩnh, xã hội bế tắc, lối sống lạc hậu,
cuộc sống lầm than của người dân là hệ quả của tư
duy và lối sống của xã hội phong kiến. Xã hội đã đẩy
người dân đến chỗ thiếu hiểu biết, không có tri
thức, và đó là nguyên nhân chính của sự khổ cực.
Nguyễn Văn Vĩnh tham gia mạnh mẽ vào các phong trào xã
hội, chống lại những hủ tục cổ, bài trừ các tệ
nạn của chế độ Phong kiến, theo phương thức viết bài
và tổ chức diễn thuyết trước công chúng, nhằm phơi
bày những căn cốt xấu xa của xã hội đương thời, vì
điều này, ông đã tự biến mình thành kẻ “đáng ghét”
trong con mắt của những thành phần được hưởng lợi
từ bộ máy cai trị. Nguyễn Văn Vĩnh mặc nhiên là đối
tượng bị phản bác gay gắt trong từng giai đoạn, và
từng bộ phận các quan lại của xã hội cùng thời.
Song song với việc đó, ông từng là viên chức trong bộ
máy các cơ quan đại diện của người Pháp, nói thạo và
giỏi tiếng Pháp, thường xuyên giao dịch với những nhân
vật quyền thế của hệ thống cai trị, tác phong sinh
hoạt phóng khoáng, ảnh hưởng phương Tây, Nguyễn Văn
Vĩnh đã bị nhìn bằng con mắt ác cảm, thậm chí đến
mức trở thành định kiến của một bộ phận quan lại
trong bộ máy chính quyền đương thời.
Triều đình Nhà Nguyễn.
Năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh là ngưòi làm công việc giảng
dạy Quốc ngữ và tiếng Pháp, diễn giả của các buổi
diễn thuyết và hội giảng trong Đông kinh Nghĩa thục.
Việc ca ngợi sự tiện lợi và tiến bộ của chữ Quốc
ngữ, đã làm mếch lòng một số các nho sỹ, sản phẩm
của nền giáo dục khoa cử Hán học. Quan điểm của Nhà
nước Phong kiến Việt Nam: Chữ Quốc ngữ là sản phẩm
của ngoại bang, của bọn Tây, bọn xâm lược! Mặc
nhiên, việc Nguyễn Văn Vĩnh ca ngợi chữ Quốc ngữ, ủng
hộ nền văn minh phương Tây, là theo Tây!
Chân dung các quan lại Việt
Nam trong phẩm phục năm 1915.
Ở các buổi diễn thuyết, Nguyễn Văn Vĩnh từng lên án
thậm tệ các tệ nạn và các tập tục lạc hậu của xã
hội, ông chứng minh, điều đó không phải chỉ là gánh
nặng đối với người dân, mà còn là cơ hội để những
kẻ có chức quyền bòn rút, bóc lột dân thường. Phát
biểu trong Đông Kinh Nghĩa Thục, ông từng nói:
“Kẻ thù của chúng tôi khá đông đảo. Các hội
giảng của chúng tôi về việc ăn của đút, về các hủ
tục trong làng xã cũng khiến nhiều quan lại, thông ngôn
và kỳ hào chống lại chúng tôi”22.
Mặc nhiên, Nguyễn Văn Vĩnh trở thành kẻ thù của bộ
máy vua quan. Rõ ràng, ông đã chặn đường vơ vét của
họ, đồng thời tố cáo sự xấu xa của hệ thống quan
lại phong kiến.
Những năm 1910, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là những
chí sỹ thành danh, có uy tín với cộng đồng xã hội,
đồng thời đều là những đối tượng nguy hiểm dưới
con mắt của Chính quyền Thực dân. Song, vào thời điểm
đó, hai con người này đi theo hai khuynh hướng chính trị
khác nhau trong đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc.
Phan Bội Châu chủ trương bạo động và cầu viện ngoại
bang để giành tự do cho dân tộc. Phan Châu Trinh chủ
trưong cải cách xã hội theo con đường dân trí để xây
dựng một quốc gia thịnh vượng, và Nguyễn Văn Vĩnh tán
thành khuynh hướng của Phan Châu Trinh23.
Sự khác biệt này, cộng với tính cách bộc trực của
ông, đã trở thành lý do để một bộ phận các nhân sỹ
nho học kết án Nguyễn Văn Vĩnh, là kẻ chống lại Phan
Bội Châu! Với tính cách và tư chất riêng của mình, qua
một số bài viết trên tờ báo do chính Nguyễn Văn Vĩnh
chịu trách nhiệm24,
ông đã thẳng thắn đến mức trần trụi trong việc bài
bác phương thức động viên cách mạng gây đổ máu của
Phan Bội Châu, cùng một số vụ bạo động trong dân
chúng.
Ở một mặt nhất định, Nguyễn Văn Vĩnh nhìn nhận
rằng, vai trò người Pháp ở Việt Nam là hy vọng lớn
nhất để phá huỷ hệ thống truyền thống này (phong
kiến), chứ không phải là phương tiện để duy trì hệ
thống đó!
Năm 1913, thực hiện tiến trình trong chủ trương khai dân
trí, Nguyễn Văn Vĩnh tận dụng những cơ sở vật chất
và ý đồ của nhà cầm quyền trong chính sách cai trị,
ông đã cùng F.H.Schneider, một nhân vật có quyền và có
lực, thành lập tờ “Đông dương Tạp chí”.
Nguyễn Văn Vĩnh vốn vẫn lo lắng, thậm chí bất bình
trước những diễn biến mang tính bạo động của xã
hội, chẳng những sẽ không đạt được thắng lợi cần
thiết trong việc thay đổi đất nước, mà có thể tạo
nên sự hỗn loạn, cản trở con đường và lý tưởng
cải cách mà Nguyễn Văn Vĩnh theo đuổi, vốn đòi hỏi
sự kiên nhẫn và ổn định.
Nguyễn Văn Vĩnh đã có những bài viết phê phán các cuộc
bạo động nhỏ lẻ, là hệ quả của cách suy nghĩ thiển
cận và nóng vội, không thể hy vọng giành được thắng
lợi bền vững. Thật đáng tiếc, vì ông đã không kịp
giúp dư luận và các lực lượng yêu nước khác nhau
trong xã hội hiểu đúng tư tưởng của mình, nhất là
khi Phan Châu Trinh, người đã xác định:
“Vô bạo động, bạo động tắc tử, vô vọng ngoại,
vọng ngoại tắc ngu”.
Cách ứng phó đơn thuần này của Nguyễn Văn Vĩnh, đã
dẫn đến những phản ứng bất lợi cho ông, và là lý
do để dư luận nhận thức về lý tưởng cách mạng của
Nguyễn Văn Vĩnh một cách méo mó. Họ cáo buộc ông thân
Pháp, tạo ra thực trạng tình ngay, lý gian. Trong khi, thực
chất, các vụ bạo động lúc đó đều đã thất bại,
sự trả giá đắt là xương và máu của người dân do sự
bất cân đối về lực lưọng, trong khi lịch sử dân tộc
đã từng mất quá nhiều máu xương rồi.
Ngài Toàn quyền và quan
địa phương Bắc kỳ thăm xưởng làm gốm của ông
Nguyễn Văn Tân
Hải Phòng, ngày 16 tháng 3
năm 1926
Tờ Đông Dương Tạp Chí 1913 do Nguyễn Văn Vĩnh là
Chủ bút, bao hàm rất nhiều lĩnh vực mà đối với xã
hội Việt Nam lúc đó đã được khẳng định, là những
sự mới mẻ và tiến bộ. Nội dung căn bản của tờ báo
là phổ biến việc phổ cập chữ viết của người Việt
được La tinh hóa, hướng đến việc xây dựng một xã
hội có nền chính trị dân sự, nền hành chính dân chủ
và các khái niệm mới về quyền làm chủ cuộc sống của
mỗi một cá thể sống trong xã hội.
Vào giai đoạn cuối những năm 10 ở thế kỷ XX, chế độ
phong kiến Việt Nam luôn thể hiện sự đối lập với tư
tưởng dân chủ. Triều đình Huế là đại diện cuối
cùng của Chủ nghĩa Phong kiến Việt Nam, lúc này, Nhà
Nguyễn nhìn nhận Nguyễn Văn Vĩnh như một đối tượng
phản diện, vì rõ ràng: Phong kiến là bảo thủ và Nguyễn
Văn Vĩnh là tân học. Việc các quan trong triều dâng sớ
trình Vua Khải Định đòi chém Nguyễn Văn Vĩnh (1918) vì
mắc tội khi quân do dám bắt tay Vua, để những người
bảo thủ lấy đó là cái cớ loại bỏ Nguyễn Văn Vĩnh
một cách hợp pháp ra khỏi đời sống chính trị, cũng
là việc làm dễ hiểu25.
Hệ thống chính trị mang nặng định kiến và mặc cảm
về một người Tân học, Nguyễn Văn Vĩnh, kẻ luôn đòi
cải cách, đòi loại bỏ những cái cũ lạc hậu trong xã
hội, thường xuyên chứng minh tính bù nhìn của bộ máy
vua quan, thậm chí sau sự kiện trên, mâu thuẫn đôi bên
ngày càng sâu sắc. Từ đó, ông đã từ chối cả việc
nhận Kim khánh do Vua ban, một điều xa lạ với xã hội
đương thời, với lý do: “Xin giữ cho cái ngực được
‘trinh’ suốt đời”26.
Năm 1930, sau hàng loạt những năm tháng hoạt động tích
cực trong lĩnh vực báo chí và xuất bản, cộng với sự
trau dồi những kiến thức tiến bộ về dân chủ và tự
do theo xu hướng đối lập với chính sách thuộc địa
già cỗi của chính quyền thực dân, vô hình chung, Nguyễn
Văn Vĩnh đã thực sự trở thành vật cản trong
chính sách cai trị của Vương triều. Hàng loạt các cuộc
mặc cả giữa chính quyền với Nguyễn Văn Vĩnh, yêu cầu
ông phải chấm dứt việc truyền bá những tư tưởng
tiến bộ và dân chủ, thông qua các sản phẩm văn hoá
của mình. Đặc biệt, họ kiên quyết đòi Nguyễn Văn
Vĩnh không được viết các bài đả phá bộ máy quan lại
của Triều đình Huế!27
Chính quyền đương thời đã phải dùng cả chiêu bài bổ
nhiệm Nguyễn Văn Vĩnh làm Thượng thư (Bộ Trưởng)
trong Triều đình, nhằm kéo ông xa rời sự nghiệp cầm
bút. Nguyễn Văn Vĩnh đã từ chối tất cả!
Một số các sỹ phu, sản phẩm của nền giáo dục Nho
học Phong kiến, đã từng đả phá Nguyễn Văn Vĩnh gay
gắt, và họ cũng đã thất bại vì không ngăn cản được
sự nghiệp Tân học của Nguyễn Văn Vĩnh, đi tới chỗ
oán giận và kết án Nguyễn Văn Vĩnh là kẻ phản bội
lại truyền thống dân tộc, cắt đút mạch văn hoá Hán
Nôm, mà họ tuyệt nhiên không nhận thức rằng, việc
động viên cuộc cải cách văn hoá đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu, mang tính quy luật
của sự phát triển đối với lịch sử dân tộc28
(28).
Kết luận: Triều đình Nhà Nguyễn không chấp
nhận Nguyễn Văn Vĩnh!
Người Pháp thực dân và Chính phủ Thuộc địa.
Việc xuất hiện Nguyễn Văn Vĩnh trong xã hội Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là điều
hoàn toàn không có tính dự báo, bởi lẽ, xuất thân của
Nguyễn Văn Vĩnh thật sự là hiện tượng trái với thông
lệ, “tập quán” xã hội. Gia đình sinh ra Nguyễn Văn
Vĩnh hoàn toàn là những người dân thường, không có ai
trong dòng họ từng đỗ đạt, hoặc có chân trong hệ
thống quan trường của xã hội đương thời.
Trong con mắt cai trị của các chế độ xã hội ở bất
kỳ giai đoạn lịch sử nào, quan niệm:“con vua thì
lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”, đã
trở thành “quy luật” trong quan niệm dân gian. Việc
Nguyễn Văn Vĩnh trở thành con người xuất sắc trong học
hành, là sự ngẫu nhiên vượt ra khỏi sự tưởng tượng
của xã hội đương thời. Nguyễn Văn Vĩnh đã không mảy
may được quan tâm, hậu thuẫn bởi bất kỳ một lực
lượng xã hội nào đó, mang tính “chăm sóc”, hoặc
“nuôi dưỡng” đào tạo, để phục vụ những mục
đích cụ thể cho thể chế.
Chuyến công du sang Pháp
của vua Khải Định năm 1922.
Chính quyền Thực dân cũng đã vô cùng ngạc nhiên khi sử
dụng Nguyễn Văn Vĩnh29.
F.H.Schnaider có mặt ở Việt Nam từ 1882, đã từng tiếp
cận và hợp tác thử nhiệm với cả Trương Vĩnh Ký
(1837-1898) và Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) của Đàng Trong,
với mục tiêu phát triển nghành báo chí và xuất bản,
song ông ta đã thất bại, vì không xây dựng được văn
hoá chữ Việt được La tinh hóa trở thành phổ thông.
Cho đến 20 năm sau (1902),
F.H.Schnaider mới “giật mình” phát hiện ra Nguyễn Văn
Vĩnh. Từ 1904 đến 1906 là giai đoạn căng thẳng trong đời
tư của cậu thanh niên mới qua tuổi hai mươi, khi phải
đối mặt với sự lựa chọn một con đường sự nghiệp
mang tính sinh tử của mình, do cậu “được”
F.H.Schneider tiếp cận và thuyết phục.
Nguyễn Văn Vĩnh chỉ có quyết định dứt khoát việc lựa
chọn con đường làm báo, sau khi dự Hội chợ đấu xảo
Mác Xây (1906). Ông đã tự nguyện từ bỏ cuộc đời là
công chức trong bộ máy hành chính lúc 24 tuổi (Toà Đốc
lý Hà Nội), để bắt đầu sự nghiệp làm báo, chính
xác là: Làm báo tự do! Chỉ có làm báo tự do, ông mới
không bị quá lệ thuộc vào sự sai khiến của hệ thống
chính trị. Việc phải hợp tác với Schneider, người có
đầy đủ những nền tảng như: nghiệp vụ, cơ sở vật
chất, nhà in, nguồn tài chính… và ông ta là người
Pháp, trong khi Nguyễn Văn Vĩnh là ai?! Một viên chức thôi
việc, không tài sản, không văn bằng chứng chỉ, không
con ông cháu cha….
Cái duy nhất Nguyễn Văn Vĩnh sở hữu: đó là trí tuệ,
sự thông minh kiệt xuất và lòng huý tâm văn hoá, cùng
với tình yêu bất diệt đất nước An Nam của mình. Vì
thế, ông đã thai nghén một mục đích quá lớn, là xây
dựng một bản sắc văn hoá riêng cho đồng bào của ông,
cho người dân An Nam. Cuộc “kết hôn văn hoá” này, như
2 nửa cần nhau, dựa vào nhau để… sử dụng, tận dụng
và lợi dụng lẫn nhau. Một bên là lý tưởng chói sáng
của Nguyễn Văn Vĩnh, một bên là sứ mạng của bản hợp
đồng mà Schneider đã ký và đã nhận tiền.
Sau sự kiện đàn áp phong trào Đông kinh Nghĩa thục
(1907), Nguyễn Văn Vĩnh đã bị nhà cầm quyền đe dọa
rằng: “Đảo Côn Lôn còn rộng chỗ lắm đấy …!”
Việc kết án và bắt Nguyễn Văn Vĩnh lúc đó là không
thể, vì ông là hội viên Hội Nhân quyền Pháp! Bắt
Nguyễn Văn Vĩnh sẽ động chạm đến rất nhiều các
nhân sỹ, các tổ chức tiến bộ của Pháp. Hơn nữa, dù
sao mâu thuẫn giữa Nguyễn Văn Vĩnh và Bộ máy cai trị
chưa đến mức phải huỷ hoại mối quan hệ đôi bên, và
cuộc chơi “lợi dụng” lẫn nhau mới chỉ là bắt đầu…
Đó là chưa nói đến khả năng tự bảo vệ, cũng như
các mối quan hệ cá nhân mà Nguyễn Văn Vĩnh đã dành
được thiện cảm với một số gương mặt người Pháp
có uy tín trong quá trình làm công chức ở các toà sứ,
vào những giai đoạn khác nhau trước đó.
Trước những căng thẳng diễn ra trong biến cố Đông
kinh Nghĩa thục, Nguyễn Văn Vĩnh luôn sẵn sàng đối mặt
với bộ máy cai trị, bởi lẽ Nguyễn Văn Vĩnh vẫn tin
một cách giản dị (cũng như Phan Châu Trinh), rằng: Đông
Kinh Nghĩa Thục là để nâng cao dân trí, mở mang văn hoá,
và đó cũng chính là cam kết của Chính phủ Bảo hộ!!!
Không dễ dàng để Nguyễn Văn Vĩnh dám kết án việc đàn
áp Phong trào Đông Kinh Nghĩa thục của Chính quyền với
ngài Hause – Đốc lý Hà Nội rằng:
“Tôi xin phép được nói, là biện pháp vừa thi hành
(của Nhà Cầm quyền) là vô chính trị!”30.
Phải nhiều năm sau, những người quan sát mới được
thấy sự dối trá trong đường lối chính trị thực dân.
Rất có thể, ngày ấy, vào giai đoạn đó, cả Phan Châu
Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh cũng chưa có “cơ hội” để
hiểu rõ bản chất của Chủ nghĩa Thực dân.
Bất chấp những sự cố chính trị đó, F.H.Shcneider vẫn
kiên nhẫn duy trì mối quan hệ với Nguyễn Văn Vĩnh. Hai
tờ báo tiếng Pháp ra đời năm 1908 và 1910 là minh chứng
cụ thể. Cho dù, cả hai tờ báo này đều không đạt
được thành công như mong muốn của cả đôi bên. Nguyễn
Văn Vĩnh có phần thất vọng, cụ thể là chấp nhận vào
Sài Gòn tham gia vào Ban biên tập tờ “Lục tỉnh Tân
văn”.
Nhưng nhiệt huyết của Nguyễn Văn
Vĩnh vẫn luôn luôn ở cao độ (Shcneider nắm bắt được
điều này), và khi có thời cơ, Shcneider đã hướng tới
việc tổ chức tờ “Đông Dương Tạp chí” 1913.
Tờ báo định mệnh “Nước
Nam mới”, ra đời năm 1931, bằng chứng cho sự đối đầu
giữa Nguyễn Văn Vĩnh và Nhà Cầm quyền Thực dân. Trang
nhất báo L’Annam Nouveau số 1 ra ngày 21.1.1931
Báo L’ANNAM NOUVEAU tôn trọng chính quyền đã
được lập nên, trọng con người của tất cả những
đại diện của nó, nhưng không sợ ai và không nịnh ai.
(L’ANNAM NOUVEAU Respecte l’autorite Étabelie danns la
personne ces tous ses representants mais ne craint personne et
neflatte personne).
Những gì Nguyễn Văn Vĩnh đã thể hiện trong 6 năm trước
đó, đã hấp dẫn được đa số các chí sỹ cùng thời.
Đông Dương Tạp chí là bước ngoặt lớn của lịch
sử báo chí bản địa, chứa đựng đầy đủ ý đồ của
cả đôi bên, thể hiện cuộc sống trí thức của xã
hội, và là “nhu cầu” của cả hai phía. Đó là
lý do mà Ban trị sự của tờ báo đã quy tụ được toàn
bộ các nhân sỹ hàng đầu của Bắc và Trung kỳ tham
gia. Giá trị của Đông dương Tạp chí còn được
Chính quyền thuộc địa duy trì cả đến sau khi Nguyễn
Văn Vĩnh qua đời, và họ đã dùng làm con bài xoa dịu
nỗi đau sau cái tang Nguyễn Văn Vĩnh 1936, bằng việc đặt
người con trai thứ hai của ông là Nguyễn Giang (1904-
1965) làm chủ bút tờ tạp chí này.
Sau năm 1915, xuất hiện sự phân hoá trong bộ máy Ban biên
tập “Đông dương Tạp chí”, Nguyễn Văn Vĩnh
càng thể hiện bản lĩnh của một người làm báo đích
thực. Ngoài việc tiếp tục cho ra những tờ báo mang đậm
bản sắc riêng của người Việt như:“Trung Bắc Tân
văn”, “Học báo”, “Trung Bắc Chủ Nhật”.
Nguyễn Văn Vĩnh đã dám bộc lộ tính độc lập, không
chịu sự chi phối gắt gao của chính thể. Kết quả này
đã dẫn Nguyễn Văn Vĩnh đi xa hơn, say mê hơn trong sự
nghiệp làm báo và xuất bản.
Năm 1922, một lần nữa, Nguyễn Văn Vĩnh lại có cơ hội
đến Pháp, cũng để dự Hội chợ Thuộc địa. Đạt
được những kết quả liên tiếp trong lĩnh vực văn hoá,
đặc biệt là ngôn ngữ và xuất bản, Nguyễn Văn Vĩnh
đã không có thái độ thoả mãn, trái lại, ông càng tự
tin hơn. Ông quyết định cách mạng công nghệ, thiết bị
in ấn và phát hành. Trong chuyến đi lần thứ hai này,
Nguyễn Văn Vĩnh đã tìm đến nước Đức để hiểu, để
học, thậm chí dám đặt hàng mua dây chuyền kỹ thuật
công nghệ in ấn thế hệ mới, nhằm thay thế dây chuyền
kỹ thuật cũ, do Schneider đã sử dụng qua hàng chục năm.
Cũng năm 1922 này, F.H.Schneider đã chính thức từ giã Việt
Nam, sau gần 40 năm tồn tại.
Những diễn biến vừa nêu, đã trở thành sự cộng hưởng
trong lý tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh, vì sau một quãng
đường dài trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Văn Vĩnh
đã yên tâm rằng, lý tưởng khai dân trí của mình đang
được thực hiện có kết quả. Ông luôn nhắm tới nhận
thức giống như Phan Châu Trinh rằng: chúng ta nghèo khổ
và mất tự do, không phải vì số phận, mà vì dân ta
thiếu tri thức. Hãy giúp mọi người có được tri thức,
có tri thức, họ sẽ tìm được con đường hạnh phúc
cho chính mình. Tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh ngày càng
trở nên phấn khích, vì các kết quả đạt được trong
đời sống văn hoá xã hội, cụ thể như:
– Chữ Quốc ngữ đã được sử dụng chính thức trong
cả nước. Văn học chữ Quốc ngữ đã hình thành, thông
qua việc hàng loạt các tờ báo in tiếng Việt của các
tổ chức khác nhau xuất hiện trong cả nước31.
– Những tác phẩm văn học, lý luận, triết học, phê
bình… của nền văn hóa Pháp và thế giới được dịch
ra tiếng Việt, đã chứng minh được sức sống của ngôn
ngữ mẹ đẻ. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ đủ sức thay thế
chữ Hán và chữ Nôm, kể cả văn xuôi, văn vần và các
tác phẩm nghệ thuật sân khấu đỉnh cao. Tất cả đã
trở thành chất kích thích, sinh sôi nảy nở ra hàng loạt
các loại hình văn hóa nghệ thuật như: Thơ mới, kịch
nói, điện ảnh, sách, báo…. Quan trọng hơn cả, những
cái mới này, đã trở thành cao trào, cơ sở cho sự phát
triển của nghành công nghiệp in ấn và xuất bản.
Những thành quả này, đã thúc đẩy Nguyễn Văn Vĩnh táo
bạo nghĩ đến việc cho ra đời, nghành công nghiệp tri
thức ở một đất nước nông nghiệp truyền thống.
Nguyễn Văn Vĩnh quyết định thành lập Trung tâm Âu
Tây tư tưởng – La pensée de l’Occident32.
Suốt cả cuộc đời, sự nghiệp, Nguyễn Văn Vĩnh luôn
coi mục tiêu tối thưọng, là hãy giúp mọi người hiểu
và nhận thức được thế nào là “Tư duy lô zích
Châu Âu”33.
Ông lấy Trung tâm làm cái nôi để phát triển trí
tuệ cho người dân bản xứ, thông qua việc trau dồi tri
thức. Việc dồn mọi nỗ lực vào quyết tâm xây dựng
Trung tâm, là quyết định táo bạo và tai hại nhất trong
sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh, vì ông đã không quan
tâm tới:
– Bản chất của Chủ nghĩa Thực dân với việc ngu dân
hóa, đó là một chiến lược.
– Mục đích ban đầu trong chính sách cai trị của Thực
dân Pháp, họ muốn chữ Quốc ngữ thay thế Hán Nôm, vì
họ đã thất bại trong việc phổ cập Pháp văn đối với
người bản xứ. Thực tế, chữ Quốc ngữ dễ học và
điều này giúp việc cai trị người dân bản xứ thuận
lợi hơn.
– Chính quyền thực dân cần kìm hãm sự phát triển trí
tuệ của dân tộc An Nam, mà Nguyễn Văn Vĩnh đã ngồi
được lên chiếc ghế của một kẻ cầm đầu, vượt xa
những toan tính ban đầu của chính họ.
– Chính quyền Thực dân đã nhìn thấu tâm can của
Nguyễn Văn Vĩnh, kẻ đã sống mái trong quyết định
thành lập một trung tâm nuôi dưỡng và phát triển tri
thức, cây cầu nối với văn minh nhân loại, để rồi từ
đó, kẻ bị trị sẽ có khả năng nhìn thấu tâm đen của
kẻ cai trị, điều này sẽ đe dọa, làm lung lay vị thế
của kẻ cai trị. Với bản chất quỷ quyệt, Nhà Cầm
quyền, thay vì ngăn cản Nguyễn Văn Vĩnh như một kẻ
“thân Pháp”, họ đã đồng ý để Nguyễn Văn Vĩnh vay
một khoản tiền khổng lồ từ hệ thống tài chính của
hệ thống cai trị.
– Bộ máy cai trị phát hiện chính xác, sự liều lĩnh
của Nguyễn Văn Vĩnh, khi dồn toàn bộ cơ sở vật chất
và tài chính do F.H.Schneider giao lại, đem thế chấp với
Ngân hàng Đông Dương34,
đầu tư cho việc đổi mới về căn bản toàn bộ dây
chuyền công nghệ in ấn, xuất bản, mục đích để có
những sản phẩm mới chất lượng hơn, số lượng lớn
hơn, phục vụ cho mục tiêu truyền bá kiến thức của
Trung tâm. Nhà cầm quyền đương nhiên đã giành vị thế
của kẻ nắm đằng chuôi về tài chính trong quan hệ với
Nguyễn Văn Vĩnh.
– Nguyễn Văn Vĩnh chưa bao giờ thể hiện là người
muốn làm chính trị, và biết làm chính trị, “Nguyễn
Văn Vĩnh, nhà báo có tài nhưng lại là nhà chính trị
vụng về”
(Albert Sarraut)35.
Nguyễn Văn Vĩnh chỉ thuần túy lao theo lý tưởng của
mình, tuyệt nhiên không hề tính đến những ý đồ chính
trị nham hiểm của Nhà Cầm quyền. Thời nay, ngưòi ta có
thể kết luận, đó là sự ngây thơ của Nguyễn Văn
Vĩnh.
Suốt giai đoạn cuối những năm 20, Nguyễn Văn Vĩnh dồn
toàn tâm, toàn ý vào việc xây dựng Trung tâm. Ông ra sức
dịch, xuất bản và viết bài, làm nguyên liệu cho chủ
trương khai hóa của mình. Ông càng viết, càng chứng minh
vốn tri thức uyên thâm, tư duy ngay thẳng, ông càng va đập
mạnh với đường lối và chủ trương cai trị của Chính
phủ Thuộc địa và Triều đình Nhà Nguyễn.
Năm 1930, trước hàng loạt những hệ quả trong đời sống
văn hoá và tư tưởng mà Nguyễn Văn Vĩnh tạo nên trong
xã hội, thông qua việc xuất bản, truyền bá các tư
tưởng triết học tiến bộ phương Tây, mà ông tiếp thu
được từ chính nền văn minh và kho tàng tri thức của
nước Pháp, Chính quyền Thục dân hết bình tĩnh, đã
quyết định dùng mọi biện pháp ngăn chặn, bẻ gẫy
ngòi bút của Nguyễn Văn Vĩnh.
Năm 1931, trước sự dồn ép, thương lượng, thậm chí đe
dọa từ phía Nhà Cầm quyền, Nguyễn Văn Vĩnh đành chọn
việc viết bằng tiếng Pháp. Ông cho ra đời tờ báo định
mệnh “L’Annam Nouveau – Nước Nam mới”
(In bằng tiếng Pháp không phải xin phép)36
Nguyễn Văn Vĩnh, thông qua tờ báo tiếng Pháp này làm mặt
trận sống còn, để bày tỏ chính kiến, quan điểm chính
trị của mình với công chúng và chính thể. Ông hoàn
toàn tự tin vào những lập luận chính trị của mình,
khi viết hàng loạt bài phê phán xã hội, phê phán đường
lối của Chính phủ, đến mức không hề bận tâm tới
sự “cay cú” của Nhà Cầm quyền.
Với tờ báo này, cuộc đấu tranh nghị trường giữa
Nguyễn Văn Vĩnh với Nhà Cầm quyền đạt đến mức báo
động. Vì in tiếng Pháp, ở mức độ nào đó, tờ báo
đã bộc lộ sự hạn chế trong việc chia sẻ chính kiến
với độc giả là người Việt, nhưng là sự đối mặt
trực diện với Chính phủ Thuộc địa cũng như Triều
đình Huế. Nó đã trở thành diễn đàn tố cáo trước
dư luận và chính trường nước Pháp, những chính sách
cằn cỗi và bần cùng hoá dân tộc Annam. Vậy nên, mẫu
thuẫn giữa ông và Nhà Cầm quyền về chính trị đã đạt
đến tột đỉnh.
Năm 1935, Chính quyền đương thời coi đó là giọt nước
tràn ly, đã ra tối hậu thư đòi Nguyễn Văn Vĩnh phải
đi tù với lý do nợ quá hạn! Chính quyền Thực dân đã
sử dụng vai trò nắm đằng chuôi trong vấn đề tài
chính, điều mà họ đã dự kiến từ khi đồng ý để
Nguyễn Văn Vĩnh ký khế ước vay nợ ngân hàng Đông
đương năm 1926. Việc xiết nợ là vũ khí lợi hại của
giới tài phiệt thực dân, mặc dù khế ước có thời
hạn 20 năm.
Chính phủ Thuộc địa còn sảo quyệt đến mức tạo ra
việc xuất hiện một nhân vật có tên là Amédée
Climente, người Pháp có gốc ở đảo Coóc, lấy vợ ngưòi
Việt ở tỉnh Hưng Yên, và cũng đang trong cơn nợ nần
bê bối, tìm đến Nguyễn Văn Vĩnh “rủ nhau sang tìm
vàng ở Sê Pôn – Lào”
theo gợi ý của Chính quyền!37.
Sự việc Nguyễn Văn Vĩnh đi “tìm vàng để trả nợ”,
tạm thời chấm dứt các hoạt động xã hội, mà hệ
trọng nhất là việc dừng viết, diễn ra đầu năm 1936.
Trong lúc Nguyễn Văn Vĩnh đang “tưng bừng” với 11 bài
phóng sự “Một tháng với những người tìm vàng”38,
nguời vợ ba là Suzanne Vĩnh, đã gửi một bức thư vào
tận Sê Pôn, đề nghị ông quay về Hà Nội khẩn cấp,
nhanh chóng rời bỏ công việc tìm vàng, vì: đã “thoả
thuận” xong với những nhân vật tai mắt trong bộ
máy cầm quyền, sẽ thoát được việc xiết nợ, thậm
chí cũng sẽ không phải ngồi tù!
Chính vào thời khắc này, người ta đã thấy sụ vắng
mặt “vô tình” của Climente (bạn đường với Nguyễn
Văn Vĩnh) ở Sêpôn. Ngày 1.5.1936, người ta đã tìm thấy
sau một đêm mưa gió thân xác Nguyễn Văn Vĩnh, trên chiếc
thuyền độc mộc, một thân một mình, cơ thể tím
đen, đến mức, khi người nhà đến nơi, còn không
nhận ra được?!
Người ta loan báo rằng, Nguyễn Văn Vĩnh đã chết vì sốt
rét và kiết lỵ!39.
Chính phủ Thuộc địa đã đồng
ý để Hội Tam điểm (Franc-Maconnerie) đứng ra tổ chức
đưa thi hài Nguyễn Văn Vĩnh về Hà Nội để làm tang.
Cùng thời gian đó, Chính phủ đã nhanh chóng hoàn tất
việc bán hoá giá toàn bộ tài sản cùng những cơ sở
vật chất của Trung tâm Âu Tây tư tưởng, toà soạn báo
L’Annam Nouveau, đẩy toàn bộ gia đình Nguyễn Văn Vĩnh
vào chỗ khổ đau, tan nát. Họ đã kết thúc sự nghiệp
của Tân Nam tử khi ông mới 54 tuổi!
Như vậy, Chính phủ Bảo hộ đã thực sự thất vọng
với Tân Nam tử Nguyễn Văn Vĩnh, vì sau một chặng
đường dài, sự “hợp tác” đã không “thuần dưỡng”
được Nguyễn Văn Vĩnh, để trở thành công cụ đắc
lực cho chính sách cai trị lâu dài, đặc biệt trong lĩnh
vực văn hoá tư tưởng. Ngược lại, đã “giúp” Nguyễn
Văn Vĩnh thành công trong việc xây dựng nền văn hoá chữ
Quốc ngữ cho người dân An Nam, tạo tiền đề để phát
huy tính trí tuệ, mở ra xu hướng đòi độc lập cho dân
tộc mình, làm tăng khả năng nhận thức về giá trị của
xã hội khoa học, của triết học, và biện chứng học,
tác động mạnh đến tư duy đòi bình đẳng, nhân quyền,
đe doạ sự tồn vong của Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại
Việt Nam.
Chính quyền thực dân đã thực sự lo lắng về Nguyễn
Văn Vĩnh từ 1926, khi Nguyễn Văn Vĩnh đã vô tư bộc lộ
nguyện vọng chính trị của mình với điều tra viên của
Chính phủ Thuộc địa – ngài Bertrand – trong buổi
câu lưu của nhà cầm quyền, vào hồi 8h30, ngày 15/5/1926.
Ông đã nói như sau:
“Trong chuyến thăm Huế tháng Một vừa rồi
(1926), tôi đã gặp cụ Phan Bội Châu và nhiều nhân vật
chính trị An Nam. Chúng tôi đã thoả thuận thành lập ở
Đông Dương một Đảng Cộng hoà tiến bộ. Chúng tôi đã
soạn thảo Điều lệ và đã trình lên quan Toàn quyền để
ngài chuyển tới quan Thống sứ Bắc kỳ và quan Khâm sứ
Trung kỳ để xem xét…”40.
Kết luận: Việc Chính quyền Thực dân phải loại bỏ
Nguyễn Văn Vĩnh, là chuyện dễ hiểu!
http://www.tannamtu.com/?p=2855
1. Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đảng Cộng sản Đông dương ra đời năm 1930, hợp với
bối cảnh khi Chính phủ Thuộc địa và Triều đình Nhà
Nguyễn lâm vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng về
chính sách cai trị, cộng với tình hình thế giới và
nước Pháp lâm vào suy thoái kinh tế nặng nề. Hàng loạt
các biến động xã hội, có tính phong trào, đòi tự do,
dân chủ và giải phóng khỏi chế độ cai trị của Thực
dân, là thể hiện sự khát khao của một dân tộc bị đè
nén, áp bức kéo dài.
Các phong trào phản kháng do những gương mặt ái quốc
khác nhau lãnh đạo, đều theo các phương thức riêng lẻ.
Để quy tụ được các lực lượng đòi cách mạng xã
hội, việc một cá nhân hay một tổ chức tìm cách giành
lấy vị thế độc tôn, trở nên một yêu cầu sống còn.
Trong hoàn cảnh của một đất nước đang thoát thai khỏi
chế độ Phong kiến cực kỳ lạc hậu, lại chịu sự
cai trị của chế độ Thực dân kiểu cũ hà khắc, đặc
biệt khi nền văn hoá bản xứ đang hình thành theo mô
hình mới đầy lực hấp dẫn, đã tạo nên những giằng
xé dữ dội trong cuộc sống chính trị hàng ngày. Cuộc
giằng xé này, đã tạo ra những nhận thức và những
đánh giá vội vàng, phiến diện của một số trào lưu
có tính tổ chức, đối với nhiều gương mặt có danh
của những khuynh hướng chính trị khác. Đặc biệt đối
với những nhân sỹ có những xuất xứ khác với hệ tư
tưởng của những ngưòi theo chủ thuyết Vô sản, lực
lượng đang thai nghén một cuộc cách mạng nổi dậy.
Cần nhận thấy, trong quá khứ, kể cả những phong trào
khác nhau, có cùng mục đích đấu tranh nhắm đến yêu
cầu giải phóng đất nước khỏi vòng nô lệ, mong muốn
xây dựng một cuộc sống tự do, một xã hội dân chủ,
đều đã không được những ngưòi theo chủ thuyết Vô
sản thừa nhận.
Toàn cảnh ngôi đình Yên
Phụ số 66 phố Phó Đức Chính, quận Ba Đình, Hà Nội.
Đây từng là Trường Hậu bổ (Thông ngôn) những năm
cuối thế kỷ XIX, và Nguyễn Văn Vĩnh là “Thằng nhỏ
kéo quạt” từ năm 1890 đến 1892
Tóm lại, khái niệm: mỗi người có một cách yêu nước
riêng, là một khái niệm xa lạ! Chính vì tồn tại quan
điểm như vậy, nên tất cả những gương mặt hoạt động
xã hội theo những chủ thuyết khác, không cùng với quan
điểm của những người theo tư tưởng và học thuyết
Vô sản, đều đã bị coi là theo Chủ nghĩa Cải lương
(Văn kiện Đảng CS Đông dương)41.
Những đánh giá vội vàng này, đã tạo một nhận thức
tiêu cực đối với các tầng lớp quần chúng ít có điều
kiện nhìn nhận xã hội ở một bình diện rộng và sâu,
nhất là các chí sĩ cùng thời như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Vĩnh… Vì vậy,
thực tế này, một mặt phủ nhận những dâng hiến của
những con người điển hình trong hoạt động cách mạng
nói chung đối với lịch sử dân tộc. Mặt khác, tạo sự
ngờ vực trong nhận thức của người dân về lòng yêu
nước của họ.
Trong văn kiện Đảng 1930-194542(42),
Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng lại đã xác định một
lần nữa, tính đối lập của nhóm các nhà yêu nước
này. Những đánh giá đáng tiếc đó, đã trở thành định
kiến trong một bộ phận những người làm công tác tư
tưởng của Đảng cầm quyền. Điều này, đã tồn tại
dai dẳng trong quá trình vận động của lịch sử, tạo
ra một cách nhìn sai lệch về quá khứ sự thật. Sự
hiểu biết sai lệch do không nhìn toàn cục những diễn
biến lịch sử, không phải chỉ gây tổn hại về danh dự
của những danh sỹ đó ở từng giai đoạn, mà còn ảnh
hưởng đến cả sự nhận thức về quá trình hình thành
lịch sử đấu tranh văn hoá của một đất nước (Văn
học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930)43.
Thậm chí cho đến năm 1999, trên tờ “Nhân dân cuối
tuần”, số 35 (552), ngày 29.8.1999, trong mục trao đổi
ý kiến của tác giả Nguyễn Thành, khi nêu những nhận
định về Nguyễn Văn Vĩnh, có đoạn viết: “… Nguyễn
Văn Vĩnh đả kích đích danh Phan Bội Châu, Kỳ Đồng…
lại cũng là người yêu nước sao?”. Rồi tác giả
tự kết luận:“Vẫn một luận điệu trước sau như
một: bảo vệ thực dân, chống người yêu nước!”.
Cách tư duy thiếu tính biện chứng, mang nặng tính chụp
mũ như vậy của tác giả bài viết, thật là sự trớ
trêu và đáng buồn cho sự hiểu biết của các thế hệ
đi sau, vì nó mâu thuẫn với bản chất của mối quan hệ
Nguyễn Văn Vĩnh – Phan Bội Châu.
.
Ngôi nhà 25 phố Nguyễn
Gia Thiều, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội của gia tộc Nguyễn
Văn Vĩnh. Tại đây, năm 1955, người con trai thứ năm của
Nguyễn Văn Vĩnh là Nguyễn Phổ (1913-1997) bị bắt và ở
tù 17 năm. Năm 1982, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng các
quyền lợi chính trị cho ông, vì Nguyễn Phổ là Nhà tình
báo ngoại tuyến của QĐND VN
Gần đây, những ai từng quan tâm đến mối quan hệ đặc
thù Nguyễn Văn Vĩnh – Phan Bội Châu (hai người cách
nhau 15 tuổi), đều biết đến bài điếu khóc của Phan
Bội Châu, gửi từ Huế ra đám tang Nguyễn Văn Vĩnh ngày
8.5.1936 tại Hà Nội, bằng cả chữ Hán và bằng cả chữ
Quốc ngữ, đã bắt đầu bằng câu:
“Tôi đau cảm quá…”.
Tác giả bài báo và những người có cùng suy nghĩ như
ông ta, làm sao biết được, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị điều
tra viên Bertrand, một chuyên gia khét tiếng về an ninh của
Phủ Toàn quyền Đông Dương, đã nghi ngờ và xét hỏi
Nguyễn Văn Vĩnh về mối quan hệ với Phan Bội Châu ra
sao không? Nguyên văn như sau:
Bertrand:
“Vì sao ông xem Phan Bội Châu như một người đứng
trên các quan lại?”
Nguyễn Văn Vĩnh:
“Ngày xưa các quan lại là “phụ mẫu” của dân,
nhưng ngày nay họ là viên chức, nghĩa là người làm công
ăn lương của người đóng thuế, nhưng họ không phục
vụ dân, không phục vụ nhà nước Bảo hộ, ngược lại
họ là những kẻ lừa dân. Bằng những việc xấu xa đó,
họ đã làm dân chúng căm phẫn Chính quyền. Tôi không
thể tôn trọng họ chút nào. Tôi nghĩ rằng, những bậc
khoa bảng nói chung, và cụ Phan Bội Châu nói riêng, là
những người đứng trên những kẻ đó.
Cụ Phan Bội Châu là một vị anh hùng, bởi lẽ cụ
bao giờ cũng chỉ đi theo lý tưởng của mình và không
bao giờ chịu khuất phục cường quyền”44.
(TT Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp CAOM – Mã số SPCE
374)
Một trong những nghi ngại lịch sử mà những người theo
lý tưởng Vô sản đã từng đặt vấn đề về tư tưởng
chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh, đó là thuyết: Trực
trị. Song song với Phạm Quỳnh là thuyết: Quân chủ lập
hiến.
Thực chất, Nguyễn Văn Vĩnh đã theo đuổi học thuyết
Trực trị vào một bối cảnh mà người đời sau rất
khó để chia sẻ, vì nó hoàn toàn là sản phẩm tư duy
của bối cảnh xã hội chính trị lúc đó. Sau này, khi xã
hội nằm trong những biến chuyển khác hẳn với thời
đại mà Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tồn tại, người
ta đã đứng ở hoàn cảnh xã hội khác hẳn đó, để
phán quyết. Đó là một sự khập khễnh.
Suốt hàng thập kỷ qua, nhiều nhà chuyên môn đã luận
bàn về học thuyết này của Nguyễn Văn Vĩnh, song chưa
có nhà khoa học nào đưa ra nhận định một cách cụ
thể. Gần đây, trong một sự kiện mang tính cục bộ,
diễn ra tại quê hương của Nguyễn Văn Vĩnh, vào ngày
05/12/201045,
nhà nghiên cứu và phê bình văn học Lại Nguyên Ân, đã
lý giải trước diễn đàn như sau:
“Cụ Vĩnh đề xuất thuyết Trực trị. Nghe nói, nhiều
người hiểu rằng, cụ lệ thuộc vào nước Pháp! Theo
tôi, cụ Vĩnh đã biết dựa vào chế độ chính trị thực
tế ở Việt Nam lúc đó, tức là: Đặt trực tiếp sự
cai trị, không thông qua trung gian là bộ máy quan chức của
chế độ quân chủ, vì nó vừa cồng kềnh, vừa ít hiệu
quả, và quá nhiều sự nhũng lạm. Nam kỳ là Trực trị,
guồng máy hoạt động được, chứ Bắc kỳ không hoạt
động được. Đặt chế độ Trực trị thời điểm đó,
sẽ được nhiều sự tự do hơn, dân chủ hơn, ảnh hưởng
tiến bộ của nước Pháp được rộng rãi hơn. Cụ Vĩnh
là người có tính thực tế và tiến bộ sâu sắc… Cụ
đã có được một tư tưởng sáng suốt và cấp tiến
hơn nhiều các chính khách khác cùng thời!”.
Nhìn lại quá trình tồn tại lịch sử, Đảng Cộng sản
Đông Dương, cũng như tiếp theo là Đảng Lao động Việt
Nam, đều có quan điểm nhìn nhận sự nghiệp văn hoá,
cuộc sống chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh theo nguyên tắc
của một góc chiếu, và đó không phải là sự đối đầu!
Việc có những cách nhìn tiêu cực về Nguyễn Văn Vĩnh,
đã chỉ diễn ra trong những bối cảnh nhất định, do
những cá nhân giữ trách nhiệm từng lĩnh vực, của từng
thời kỳ trong đời sống văn hoá xã hội, các vị đó,
đã không có điều kiện để bao quát các diễn biến
lịch sử, nên đã có những đánh giá thiếu công bằng,
kèm theo cả những định kiến chủ quan. Thực tế này đã
không chỉ sảy ra với một mình Nguyễn Văn Vĩnh.
Thời gian đã tạo điều kiện để Đảng Cộng sản Việt
Nam (Đảng kế nhiệm Đảng Cộng sản Đông Dương và
Đảng Lao động Việt Nam), thực hiện việc điều chỉnh
những nhận định chưa thấu đáo của mình, về các danh
sỹ trong đời sống chính trị và xã hội của quá khứ.
Đây là điều không chỉ diễn ra đối với lịch sử
Việt Nam, mà cả trong lịch sử Thế giới.
Mặt khác, hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong suốt thời kỳ
từ khi Nguyễn Văn Vĩnh qua đời, đến khi chấm dứt
chiến tranh 1975, hoàn toàn là giai đoạn khắc nghiệt với
hai cuộc chiến tranh tàn khốc, mà ưu tiên của Đảng cầm
quyền là động viên toàn xã hội, dành mọi quan tâm đến
việc giành được thắng lợi khi kết thúc chiến tranh,
vì vậy, việc xem xét và điều chỉnh những đánh giá
lịch sử chưa công bằng trong quá khứ đã không thực sự
được chú trọng!
Kết luận: Đảng Cộng sản Đông Dương với
Nguyễn Văn Vĩnh, thực chất không phải là sự đối đầu,
nhưng là sự khác biệt về tư duy trong phương thức động
viên cách mạng của lịch sử.
2. DƯ LUẬN, PHẢN ỨNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM và QUỐC TẾ
về ĐỀ TÀI NGUYỄN VĂN VĨNH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.
Với độ lùi của thời gian, với những tình cảm sâu
nặng của thế hệ cùng thời Nguyễn Văn Vĩnh, với sự
biết ơn của những nhóm trí thức của thế hệ kế
tiếp, và với những thiện cảm hình thành thông qua những
di sản hiện hữu do Nguyễn Văn Vĩnh để lại, năm 2001,
Đại sứ quán nước Cộng hoà Pháp tại Việt Nam đã
quyết định:
Chương trình Hỗ trợ xuất bản (PAP) được triển khai
từ năm 1990, với mục tiêu trợ giúp các nhà xuất bản
Việt Nam, thực hiện chính sách dài hạn trong việc xuất
bản các ấn phẩm văn học bằng tiếng Pháp, tiếng Việt
hoặc song ngữ… từ nay mang tên NGUYỄN VĂN VĨNH. Lý do
Đại sứ quán Cộng hoà Pháp quyết định việc Quỹ mang
tên Nguyễn Văn Vĩnh có đoạn viết:
“Thông qua các bài báo và các công trình dịch thuật
của mình, Nguyễn Văn Vĩnh đã góp phần vào cuộc cách
mạng chữ viết tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, và
biến chữ Quốc ngữ thành chữ viết Quốc gia. Nhờ
Nguyễn Văn Vĩnh, nhiều thế hệ trẻ Việt Nam đã có thể
tiếp xúc với tư tưởng và văn hoá Pháp… dựa trên sự
hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau”.
Tháng 6 năm 2002, lần đầu tiên, Hội Khoa học lịch sử
Việt Nam đã kết hợp với gia tộc của nhà báo Nguyễn
Văn Vĩnh, tổ chức buổi tọa đàm về: “Nhân vật
lịch sử – Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh”
tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Buổi tọa đàm đã trở thành một dấu mốc quan trọng
trong dư luận, đặc biệt với những nhà nghiên cứu lịch
sử, văn hoá.
Bàn thờ các nhân sĩ Đông
Kinh Nghĩa Thục tại Văn Miếu
Nhân dịp 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919), và 80 năm (1924)
quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy tại cấp tiểu
học ở Việt Nam, báo Quân đội Nhân dân số 15657, ra
ngày Chủ Nhật 28/11/2004, trên trang Văn hoá, đã trang
trọng đăng bài “Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh và sự ra
đời của chữ Quốc ngữ”
của tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình
Đăng, có đoạn viết:
“… Hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong sự
yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà
ga để đưa tiễn ông – con người bằng tài năng và sức
lao động không biết mệt mỏi của mình đã góp phần
làm cho chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân
Việt”.
Cũng trong năm 2004, Nhà xuất bản Thế giới đã cho ra mắt
“Từ điển Văn học – Bộ mới”. Bình luận về
nội dung cuốn từ điển này, ngày 18/5/2005, Đài phát
thanh BBC đã nhận định:
“Việc ra đời cuốn từ điển
Văn học bộ mới cho thấy, sự thay đổi của Việt Nam
trong việc nhìn nhận lại những nhân vật lịch sử, mà
cụ thể là trường hợp Nguyễn Văn Vĩnh được nêu
trong từ điển”.
Báo An ninh Thế giới cuối tháng, số 44 ra tháng Ba năm
2005 với bài “Học giả Nguyễn Văn Vĩnh – Ta tắm ao
ta” của tác giả Hoàng Nguyên, cũng nhìn nhận sâu
sắc về vai trò nổi bật của Nguyễn Văn Vĩnh trong lịch
sử văn hoá nước nhà.
Tạp chí Văn Hiến số 4(48), ra ngày 20/5/2005, trong trang Di
sản,
đăng bài phân tích khá sâu sắc với nhan đề:
“Nguyễn Văn Vĩnh – Từ ‘Bản
năng chữ’ đến ý thức về một công cụ văn hoá”
của cố giảng viên Học viện Báo
chí tuyên truyền Trần Hoà Bình. Trong bài viết, đã phân
tích một cách khoa học tư duy bản năng của Nguyễn Văn
Vĩnh khi nhận thức được giá trị của chữ viết đối
với sự phát triển nền văn hoá của một dân tộc. Tác
giả nhận định:
“…Tất cả những tờ báo tiếng Việt (của Nguyễn
Văn Vĩnh), đã chứng minh cho một nỗ lực thường xuyên
của Nguyễn Văn Vĩnh về phương diện truyền bá chữ
Quốc ngữ – điều mà trước đó, trong lời tựa của
cuốn sách Tam quốc chí diễn nghĩa (1909) do ông cùng với
Phan Kế Bính dịch từ Hán văn ra Việt văn, ông đã viết:
‘Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở chữ Quốc
ngữ!’. Nói ra điều ấy trong bối cảnh một đất nước
có đến 90% dân số mù chữ, đủ thấy tầm nhìn văn hoá
của Nguyễn Văn Vĩnh”.
Lần đầu tiên, dư luận ở Việt Nam đã đặt câu hỏi
lịch sử đối với trách nhiệm của cả hai Chính phủ
Việt Nam và Pháp, về cái chết bất bình thường của
Nguyễn Văn Vĩnh ngày 1/5/1936, qua bài viết của nhà báo
Xưân Ba, đăng trên Văn nghệ Trẻ – Tết Đinh Hợi
(2007), xin trích đoạn:
“… Cụ đã vỡ nợ rồi gục ngã theo nghĩa đen với
cái chết ở bên Lào, bởi sự phối hợp cấu kết nhịp
nhàng của thực dân với giới tài phiệt thuộc địa. Có
lẽ mai hậu, cái chết của nhà văn hoá, học giả Nguyễn
Văn Vĩnh ngày 1/5/1936, vẫn còn là một nghi án?! … Khéo
khen thay cho sự giàn xếp của Toàn quyền Pháp lẫn hệ
thống cai trị ở Đông dương khi ấy!”.
Năm 2007, với nỗ lực cùng sự đau cảm bất tận, hậu
duệ trong gia tộc nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, đã lao tâm
khổ tứ, bằng kinh phí tự túc, đã hoàn thành việc xây
dựng bộ phim tài liệu dài 4 tập mang tên “Mạn đàm
về Người Man di hiện đại”, tổng thời lượng 215
phút, nói về cuộc đời và sự nghiệp của nhà báo
Nguyễn Văn Vĩnh. Bộ phim ra đời, đã lập tức dành được
sự quan tâm rộng lớn của nhiều tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là những người quan tâm và yêu mến lịch
sử, văn hoá nước nhà, không phải chỉ ở trong nước
mà cả trong dư luận quốc tế. Nhiều tổ chức xã
hội đã tiếp cận với bộ phim theo những điều kiện
riêng của mình. Bộ phim đã được mời trân trọng,
chiếu tại Tỉnh uỷ Tỉnh Quảng Nam, tháng 12/2007 (quê
hương Phan Châu Trinh), với tình cảm vô cùng quý hóa của
người xem.
Giáo sư Chương Thâu, Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Đinh Xuân Lâm thắp hương
tại bàn thờ cụ Vĩnh (Từ trái sang phải )
Bộ phim cũng được trình bày tại Viện Nghiên cứu Văn
học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, khoa Báo chí trường Đại
học Quốc gia, khoa Việt Nam học, khoa Ngữ văn trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, khoa Sáng tác trường Đại
học Văn hoá… với cả ngàn lượt sinh viên tham dự. Qua
các buổi chiếu, bao giờ những người làm phim cũng nhận
được sự chia sẻ chân thành, xúc động, và đầy tự
hào, khi các sinh viên được biết, trong quá khứ, Việt
Nam ta có người tài xuất chúng như Nguyễn Văn Vĩnh.
Tháng Ba năm 2008 , bộ phim đã được Ban Tổ chức kỷ
niệm ngày Quốc tế Pháp ngữ (Francophonie), mời trình bày
tại Các Viện Đại học, thuộc thành phố Montpellier –
Cộng hoà Pháp, với sự có mặt của đại diện Đại sứ
quán Việt Nam tại Pháp.
Long trọng hơn nữa, tại buổi chiếu phim, Ban Tổ chức
đã công bố bức thư của ngài Tổng Thư ký Hiệp hội
các quốc gia nói tiếng Pháp ABDOU DIOUF, gửi tới Hội
nghị, ca ngợi Nguyễn Văn Vĩnh. Trong thư có đoạn:
“…Và thật may mắn, khi để kết giao tinh thần của
hai thứ ngôn ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh, người chiến sỹ
trên mặt trận trao đổi kiến thức, đã chọn những tác
phẩm mà qua nhiều thế kỷ vẫn giữ nguyên vẹn tính đại
chúng .”
Ngày 15 Tháng Tư năm 2009, được sự nhất trí của các
bên liên quan, Đại sứ quán nước Cộng hòa Pháp tại Hà
Nội, đã quyết định trình chiếu bộ phim tài liệu “Mạn
đàm về Người Man di hiện đại”
tại Trung tâm Văn hoá Pháp L’Espace. Buổi chiếu diễn ra
trong bầu không khí đặc biệt trang trọng, và thiêng
liêng. Hầu hết các báo giấy ở khắp cả ba miền, và
các trang tin điện tử ở trong nước, đều đưa tin, hoặc
bình luận về sự kiện văn hoá này.
Bộ phim tài liệu về con người và sự nghiệp của nhà
báo Nguyễn Văn Vĩnh, đạt được sự thành công, hoàn
toàn là nhờ vào sự nhiệt tình, sự kính trọng, và lòng
ngưỡng mộ của những nhà khoa học, các học giả, những
người trân trọng giá trị thực của sự nghiệp văn hóa
của Nguyễn Văn Vĩnh, như các vị: Giáo sư Sử học Phan
Huy Lê, giáo sư Sử học Đinh Xuân Lâm, giáo sư Sử học
Chương Thâu, giáo sư Nguyễn Đình Đầu, giáo sư Âm nhạc
Trần Văn Khê, cựu Đại sứ Việt Nam ở Italia – bà
Phan Thị Minh (tức Lê Thị Kinh), giáo sư sử học Trịnh
Văn Thảo – Đại học Aix Provence, và nhiều nhân sỹ có
uy tín khác ở Việt Nam cũng như ở Pháp.
Những phản ứng tích cực của xã hội, thể hiện sự
suy nghĩ trân trọng của tầng lớp trí thức Việt Nam
trước nhân vật lịch sử đặc sắc của văn hoá nước
nhà. Đồng thời, đã tác động một mặt nào đó đến
công tác giáo dục, đào tạo của đất nước. Trong ba
năm liên tiếp, đã có ba nghiên cứu sinh làm luận văn
bảo vệ Thạc sỹ về đề tài Nhà báo Nguyễn Văn
Vĩnh:
“Nguyễn Văn Vĩnh trong sự hình thành và phát triển
báo chí Việt Nam” của nhà báo Nguyễn Văn Yên (Yên
Ba), báo Quân đội Nhân dân. Luận văn được bảo vệ
tháng 12.2007 tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
– ĐH QG Hà Nội.
“Sự nghiệp văn học của Nguyễn Văn Vĩnh và vấn đề
tiếp nhận các tác phẩm của ông” của giảng viên
Tạ Anh Thư, trường Đại học Sư phạm Bình Dương. Luận
văn được bảo vệ tại trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn ĐH QG TP HCM năm 2009.
Đặc biệt, tháng 10. 2010, tại Học Viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, nghiên cứu sinh, nhà báo Mai Thành Chung,
đã đạt 9,7/10 điểm khi bảo vệ đề tài “Nguyễn
Văn Vĩnh trong bối cảnh văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ
XX”.
Cũng trong dòng chảy này, báo Nhân dân ngày
21/4/2009, đã nhìn nhận, bộ Truyện Kiều do Nguyễn
Văn Vĩnh dịch sang tiếng Pháp do nhà xuất bản Alexander
de Rhodes ấn hành năm 1942, là hiện vật quý của Quốc
gia.
Đó là chưa nói đến trên trường quốc tế, Tiến sỹ
Christophe Goscha, một giáo sư người Mỹ, giảng viên Đại
học Montreal – Canada, với bài viết năm 2001, gồm 26
trang, nhìn nhận tổng quát vai trò lịch sử trong văn hóa
Việt Nam của Nguyễn Văn Vĩnh. Chủ đề mang đậm quan
điểm lịch sử khoa học có tên: “Nguyễn Văn Vĩnh và
tính phức tạp của công cuộc hiện đại hóa thuộc địa
ở Việt Nam”.
Năm 2006, cô Emanuelle Effidi, một
người Pháp, đã bảo vệ thành công luận văn tiến sỹ
tại đại học Paris VII, với đề tài: “Nghiên cứu
Đông dương tạp chí 1913”.
Cũng cần phải nói đến tấm lòng của người dân thành
phố Hồ Chí Minh, Hội đồng ND TP năm 1999, đã ghi danh
Nguyễn Văn Vĩnh khi quyết định đặt lại tên một con
đường ở quận Tân Bình, mang tên ông.
Điểm lại các bản báo, trong 10 năm qua đã có gần 50
bài viết, hầu hết đều ca ngợi vai trò của Nguyễn Văn
Vĩnh gắn liền với lịch sử báo chí và văn hoá Việt
Nam ở thế kỷ XX.
Sự tóm tắt trên đây về thái độ của xã hội trước
chủ đề Nguyễn Văn Vĩnh, thật khó có thể nói khác nếu
không kết luận, rằng: Xã hội đã tôn vinh Nguyễn Văn
Vĩnh theo bản năng của mình. Sự thật này, đã thể hiện
đúng bản chất cao quý của loài người, rằng dù sống
trong hoàn cảnh xã hội nào, thì cũng không thể thiếu
lòng biết ơn của hậu thế đối với những dâng hiến
của các bậc tiền nhân, trong sự nghiệp xây dựng đất
nước thành một Quốc gia độc lập, tiến bộ!
Đành rằng, trong đời sống hàng ngày, có nhiều sự việc
chớ trêu đến mức vô tình, cản trở hoặc làm méo mó
nhận thức của xã hội và dân chúng trước một sự
thật, hoặc một con người cụ thể của lịch sử, và
đó chính là trường hợp nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh!
Bất chấp những thăng trầm của lịch sử dân tộc,
những xô đẩy của thời gian, kể cả những tính toán
có chủ ý trong các bối cảnh chính trị qua từng giai
đoạn nghiệt ngã của đất nước Việt Nam, vai trò của
nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, những cống hiến hiện hữu
trong lĩnh vực văn hoá xã hội mà Nguyễn Văn Vĩnh để
lại, vẫn in đậm trong tình cảm, ý thức của các tầng
lớp dân chúng ở mọi giai đoạn lịch sử, suốt thế kỷ
XX đầy máu và nước mắt ở đất nước Việt Nam.
Nguyễn Văn Vĩnh là nguyên khí của quốc gia!
1
François Henry Schneider sinh ngày 1.12.1851 tại Paris. Ông là
chuyên gia về in ấn và xuất bản. Đến Việt Nam tháng
8 năm 1882 theo Hợp đồng ký với Hải quân Pháp, lúc đầu
là 3 năm. Điểm đến của ông là Nam kỳ. Trong những
năm đầu, Schneider đã từng hợp tác với Trương Vĩnh
Ký và Huỳnh Tịnh Của, nhưng không đạt được kết
quả như dự định trong lĩnh vực phát hành báo chí và
xuất bản. F.H.Schneider chính thức chuyển ra phía
Bắc đầu thế kỷ XX, bằng một thoả thuận miệng với
Toàn quyền de Lanessan, F.H. Schneider cho xuất bản tờ công
báo bằng chữ Hán đầu tiên tại Bắc Kỳ, tờ “
Đại-nam Đồng-văn Nhật-báo”(1891-1907), tiền thân của
tờ báo đầu tiên in bằng chữ Quốc ngữ ở Hà Nội “
Đăng cổ Tùng báo”, và cử Nguyễn Văn Vĩnh là Chủ
bút. Đến năm 1918, F.H.Schneider ở VN đã quá lâu, nền
công nghiệp xuất bản tại VN đã thành hình, ông quyết
định dừng các công việc kinh doanh để trở về Pháp.
Năm 1920, ông bán lại cơ sở báo “Lục Tỉnh Tân văn”
trong Sài Gòn cho ông huyện Của (Nguyễn Văn Của) và
trao lại toàn bộ cơ sở vật chất ở Hà Nội cho Nguyễn
Văn Vĩnh với lý do tạ ơn! Theo Nguyễn Văn Vĩnh,
F.H.Schneider mất tại Pháp khoảng năm 1923 hay 1924 gì đó.
2
Ngày 27/6/1906, nhân chuyến đi lần đầu tiên tham dự Hội
chợ Thuộc địa, Nguyễn Văn Vĩnh gửi thư cho Phạm Duy
Tốn từ Mác-Xây, bộc lộ khát vọng này.
Chữ Quốc ngữ là hồn
trong nước
Phải đem ra tính trước
dân ta
Sách Âu Mỹ, sách Chi
Na
Chữ kia, chữ nọ dịch
ra tỏ tường
Nông, công, cổ trăm
đường cũng thế
Họp bàn nhau thì dễ
lo toan
Á Âu chung lại một
lò
Đúc nên tư cách mới
cho rằng người.
5
Không tìm thấy tài liệu nào nói về những cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh,
nhưng hoạt động của ĐKNT thể hiện mối quan hệ này.
Nguyễn Văn Vĩnh nhận dịch toàn bộ thư Trước tác hậu
bổ sang tiếng Pháp do Phan Châu Trinh viết bằng tiếng
Hán gửi cho Toàn quyền Đông Dương – Jean Beau ngày
15/9/1906 (năm Thành Thái thứ 18). Năm 1931, trong bối cảnh
mâu thuẫn đỉnh cao giữa NVV và Chính quyền, ông đã
đăng lại trên báo “L’Annam Nouveau- Nước Nam mới”
số 223, 224 và 225 ngày 26,30/3 và 02/4 năm 1933. Đặng Thai
Mai dịch từ chữ Hán sang Quốc ngữ đăng trên tuần báo
“Tân Dân” ngày 24/3/1949 tại Hà Nội, số Đặc biệt
Kỷ niệm ngày giỗ Phan Châu Trinh.
6
Số đầu tiên của “Đông Dương tạp chí” ra ngày
15/5/1913, Ban biên tập gồm: Nhóm Tân học: Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn, Trần
Trọng Kim. Nhóm Cựu học: Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục,
Phạm Huy Lục, Hoàng Tăng Bí, Dương Phượng Dực, Tản
Đà…
7
Tờ báo được giải thưởng GRAND PRIX tại Paris 1932. Tờ
báo ra đời là hệ quả của sự mâu thuẫn chính trị
cao độ giữa NVV (với đường lối Trực trị), và Phạm
Quỳnh (với chính sách Quân chủ Lập hiến), Nhà Cầm
quyền phản đối khuynh hướng chính trị của NVV. Tổng
số bài viết trên “ L’Annam Nouveau” ký tên Nguyễn
Văn Vĩnh khoảng gần 500 bài, bao gồm tất cả các lĩnh
vực trong đời sống xã hội như: chính trị, văn hóa,
giáo dục, thể thao, y tế, nông thôn, thuỷ lợi, ngân
hàng, phong tục tập quán, tệ nạn xã hội, công nghiệp
thuỷ sản, biển đảo, ngành nghề thủ công, tổ chức
hành chính và những nhận định về một số gương mặt
chính khách của chính quyền đương thời.
8
Xem chú thích 5.
9
Truyện thơ Quan Âm Thị Kính bản in đầu tiên bằng Quốc
ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911. Bản này gồm
có 788 câu thơ lục bát và một lá thư của Kính Tâm
viết cho cha mẹ (http://chuaphatquang.com/quan_am_thi_kinh.htm).
10
Nguyễn Văn Vĩnh dịch Truyện Kiều từ chữ Nôm ra Quốc
ngữ – 1913. Người giữ bản gốc Nhà giáo Nguyễn Vinh
Phúc. Bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp được Nhà
xuất bản “Alexandre de Rhoder” xuất bản lần đầu
1942 tập I và 1943 tập II.
11
Trong cuốn “Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp
thuộc” do Nhà xuất bản Nam Sơn – Sài Gòn ấn hành
năm 1974, trang 69 tác giả Nguyễn Văn Trung lập luận:
“Chữ Quốc ngữ chỉ ghi âm, không ghi ý, không thể
dùng để diễn tả văn chương được. Theo Bonifacy (đăng
trong Revue Indochinoise in năm 1905 trang 206) người Việt chỉ
biết chữ Quốc ngữ cũng tựa người Pháp chỉ biết
chữ tốc ký Duployé và không thể đọc được ngay cả
truyện Cổ tích Perrault. Do đó, cần giữ lại nền học
vấn cũ bằng chữ Nho.”
12
Thông cáo báo chí của Đại sứ quán Cộng hòa Pháp tại
Việt Nam ngày 09/4/2009.
13
Quan điểm của GS. Đinh Xuân Lâm, GS. Chương Thâu và Nhà
Giáo Nguyễn Vinh Phúc phát biểu trong Bộ phim Tài liệu
“Mạn đàm về Người Man di Hiện đại” – 2007.
14
Bài đăng trên “ Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo”, số
813, ngày 15–8–1907, và số 814, ngày 22-8-1907.
15
Ý kiến của GS. Âm nhạc Trần Văn Khê và GS. Sử học
Nguyễn Huệ Chi, phát biểu trong Bộ phim Tài liệu “Mạn
đàm về Người Man di Hiện đại” – 2007.
16
Theo lời kể của ông Lưu Văn Thành (cháu ngoại Phan Kế
Bính), là người trông coi nhà thờ Phan Kế Bính
(1875-1921) hiện ở số 4 /19/ngõ 123A phố Thụy Khuê, Ba
Đình, Hà Nội, được phát trên VTV2-THVN năm 2006, trong
chương trình “ Danh nhân Văn Hóa”.
17
Theo lời kể của Phạm Huy Lục (con trai nhà Nho Phạm Huy
Hổ).
18
Sau khi Chính phủ Thuộc địa phá vỡ Công ty Nhà in Phúc
Vĩnh Thành – 1925, năm 1926 Nguyễn Văn Vĩnh buộc phải
thế chấp toàn bộ tài sản được định giá 2.000.000
đồng Đông Dương (Hai triệu đồng) để vay 1.000.000
đồng (Một triệu đồng) Thành lập Trung tâm Âu – Tây
tư tưởng.
19
Báo Tuổi trẻ Chủ nhật 31/12/1995, tác giả Quốc
Anh.
20
Báo “L’Annam Nouveau” từ số 115 đến 118 tháng 3/1932.
Tiếng Việt hiện dùng trong điện tín là kết quả của
sự cải tiến chữ Quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh chủ
trương.
21
“…Tôi nhớ lại lúc ông Nguyễn Văn Vĩnh sắp lên
đường sang Lào để tìm vàng, công nợ ngập đầu, mà
cứ cố sống cố chết bám vào tờ “Trung Bắc”, “Học
báo” và “L’Annam Noveau” để viết. Toàn quyền
Pasquier, một hôm, gặp Nguyễn Bá Trác (lúc ấy vừa ở
Nhật về), hỏi theo ý Trác thì nhà Cách mạng Việt Nam
nào nguy hiểm nhất. Trác trả lời “Nguyễn Văn Vĩnh”.
Toàn quyền Pasquier nhờ Sở Mật thám điều tra xem ông
Vĩnh còn nợ Ngân hàng và tư nhân chừng bao nhiêu tiền.
Số nợ ấy, so với lúc ấy, thật lớn: từ 60 đến 80
nghìn đồng. Toàn quyền Pasquier nhờ một người thân
tín của ông Vĩnh bắn tiếng đến tai ông : nếu ông
Vĩnh bằng lòng ngưng công kích Bảo Đại và bút chiến
với Phạm Quỳnh, gấp đôi số nợ ấy cũng sẽ được
trang trải êm ấm mà không cần phải bận tâm gì hết”.
Trích trong “40 năm nói láo” của Vũ Bằng – NXB Văn
hóa Thông tin năm 2001, ở trang 261 và 262.
22
Trích thư Nguyễn Văn Vĩnh gửi Hauser, Đốc lý Hà Nội
ngày 11/12/1907 trình bày sự tan vỡ của Đông Kinh Nghĩa
Thục. Nguồn TT Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp (CAOM)
23
Xem chú thích 5.
24
Đông Dương tạp chí số 5, ngày 12/7/1913.
25
Theo lời kể của Phạm
Huy Lục (con trai nhà Nho Phạm Huy Hổ). Luật pháp nghiêm
cấm việc động chạm đến thân thể nhà vua, và quy
định đó là tội khi quân.
Nguyên nhân sự việc rất
đơn giản: thay vì “vái” theo luật lệ của Triều
đình, Nguyễn Văn Vĩnh đã dám bắt tay Vua Khải Định,
khi nhà vua tới Hà Nội yết kiến Toàn quyền Đông dương
Anber Sarraut (1872-1962), thay vì “vái” theo luật lệ của
Triều đình. (Phản ứng của vua Khải Định khi nhận
bản tấu của các quan trong triều về việc phải chém
kẻ mắc tội khi quân, nhà vua nói:“Chuyện có thế mà
các ông đòi chém người ta, thật kỳ quá!”).
– Kỷ niệm sự kiện
này, Nguyễn Văn Vĩnh đã đặt tên người con trai thứ
sáu của mình là Nguyễn Kỳ.
26
Xem chú thích 25.
27
Trong cuốn “40 năm nói láo”, trang 81:“… (Ông) dịch
miệng “Telemac phiêu lưu ký” cho Đông Lĩnh Dương
Phượng Dực ngồi ám tả, trong khi chính ông quay sang nói
chuyện với ông Tụng về chuyện Thống sứ Pháp có ý
muốn giúp ông tiền bất cứ lúc nào, bao nhiêu cũng
được, miễn là ông (Vĩnh) tạm gác ý kiến đả kích
Pháp và ngừng chống nhà Vua”.
28
Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2007, TT Văn Miếu Quốc
tử giám và TT Minh Triết Việt, đã tổ chức Lễ tưởng
niệm 100 năm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Trong
diễn văn khai mạc có viết:”Họ là những sĩ phu yêu
nước thắp sáng tư tưởng Chấn hưng – Duy tân – Dân
tộc, là những bậc thầy góp sức đặt nền móng xây
dựng một triết lý giáo dục tự lập, tự nguyện, học
tinh hoa dân tộc và thế giới để dạy nên những con
người Việt Nam hiện đại.”
29
Vayrac – viên chức cao cấp phụ trách báo chí Phủ toàn
quyền Đông Dương đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh trong
một một báo cáo gửi toàn quyền Đông Dương năm 1937
có viết:”Sự thiếu hiểu biết của người Pháp đối
với người Annam chắc chắn là ghê gớm, còn sự thiếu
hiểu biết của người Annam đối với chúng ta thì thật
kỳ dị, hoang đường, không thể tưởng tượng được
… tôi đã có may mắn kết bạn với một số người
Annam xuất chúng, nhất là đối với Nguyễn Văn Vĩnh,
nhà văn Annam lớn nhất trong thời đại chúng ta. Chính
ông đã khiến cho tôi dần ước lượng được cái vực
thẳm ngăn cách chúng ta với nhân dân Annam và chúng ta tự
hỏi bằng cách nào để đi tới chỗ xóa được sự
không thông cảm toàn diện này” (người dịch Đào Hùng
– 2007).
30
Xem chú thích 22.
31
– Tạp chí Nam phong 1917
– Đại
Việt tạp chí 1918
– Ngọ
báo và Thực nghiệp Dân báo 1920
– Tạp
chí Hữu Thanh 1921
– Trung
lập báo 1923
– Annam
tạp chí 1926
– Báo
Tiếng dân 1927
– Báo
Đông Pháp 1930..
32
Nhóm Tự lực Văn đoàn
33
Tòa nhà Hồng Vân – Long Vân, số 1- 3 phố Hàng Gai, quận
Hoàn Kiếm, nhìn ra quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục –
Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội.
34
Ngân hàng Đông Dương Thành lập năm 1875. Lãi suất năm
1928 là 56 triệu Franc (Tạp chí Xưa và Nay số 71 tháng
1/2000).
35
Albert Sarraut – Toàn quyền Đông Dương lần thứ II,
1917-1919.
“Người
ANNAM sẽ xuất bản một cơ quan ngôn luận viết bằng
tiếng Pháp:
Để tự mình làm cho dân
chúng Pháp biết mình rõ hơn.
Để nói lên những điều
mình suy nghĩ và những điều mình được quyền mong
muốn.
Để đảm bảo những
quyền lợi của mình.
Để tạo ra mối quan hệ
bạn bè và đoàn kết giữa tất cả những người nói
và viết tiếng Pháp.
Để đem lại sự giúp
đỡ thẳng thắn, nhưng xứng đáng với công lao của
nước Pháp, đồng thời làm việc để giành lại Độc
lập cho nhân dân An Nam.
Để đấu tranh chống
những lạm quyền bất cứ từ đâu đến.
Để làm sáng tỏ cho dư
luận Pháp biết về những thực tế ở đất nước An
Nam, mà vì chính trị và quyền lợi của một số người,
lúc nào cũng bị làm sai lệch đi.
Báo L’ANNAM NOUVEAU
tôn trọng chính quyền đã được lập nên, trọng con
người và tất cả những đại diện của nó, nhưng
không sợ ai và không nịnh ai”
37
Bài “Cuộc gặp gỡ tình cờ” trên “L’Annam Nouveau”
số 528, 529 ngày 08/3/1936.
38
Báo “L’Annam Nouveau” từ số 530 ngày 15/3/1936 đến số
538 ngày 12/4/1936.
39
Báo “L’Annam Nouveau” ngày 05/5/1936.
40
TT Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp (CAOM) mã số –
SPCE 374, người dịch Nhà giáo Đỗ Ca Sơn – 2011 (chiến
sỹ Đồi A 1- Điện Biên Phủ)
41
.“Văn kiện Đảng Cộng Sản Đông Dương, từ 27/10/1929
đến 07/4/1935” – NXB Sự thật 1964, trang 290.
42
.“Văn kiện Đảng 1930-1945”, Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng. NXB Hà Nội 1977, trang 52.
43
. “Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930”,
NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp – 1988, trang
41.
44
Xem chú thích số 40.
45
Phát biểu trong buổi lễ gặp gỡ giữa các Nhà Nghiên
cứu Văn hóa với Chính quyền Địa phương và Đại biểu
các tầng lớp nhân dân xã Phượng Dực – Phú Xuyên, Hà
Nội ngày 05/12/2010.