LS
Lê Trọng Quát
-
Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính trị
-
Chính trị với người Việt ở hải ngoại
-
Chúng ta không thể làm ngơ được nữa
-
Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng
«Tôi không làm chính trị».
Câu trả lời ngắn gọn đã một thời ở đầu môi của
một số người Việt khi được mời hay được kêu gọi
tham gia một hoạt động, một công tác liên quan đến
cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của Miền Nam Việt Nam
trước tháng 05 năm 1975.
Cũng
câu trả lời ngắn gọn này được lặp lại bởi số
người ấy hay được xử dụng bởi một số người của
một thế hệ khác, lâu sau 1975, khi họ được gọi hổ
trợ hay tham gia cuộc tranh đấu nhằm dân chủ hóa và
hiện đại hóa nước Việt Nam, mang lại tự do cho mọi
người, công bằng trong xã hội, để xây dựng một vận
hội mới tươi sáng cho quê hương của họ.
Cả
trong hai giai đoạn trước và sau 1975, câu trả lời cô
đọng này hàm súc một ý nghĩa lớn, mang lại những hậu
quả lớn và vì vậy cần được bàn đến một cách
nghiêm chỉnh, tương xứng với tầm quan trọng của nó.
«Tôi
không làm chính trị» là gì ? Và ngược lại, « Vì sao
tôi làm chính trị, tôi tham gia chính trị ?» như nhiều
người khác quả quyết. Ở đây, tôi muốn hiểu tham gia
chính trị là làm chính trị dưới một hình thức và
trong một phạm vi nào đấy, chứ không có môt sự phân
biệt nào đáng kể giữa hai cụm từ này.
I
– Chính trị là gì?
Nhưng
trước hết, chính trị là gì mà người thích kẻ không
như vậy. Được định nghĩa khá rõ ràng ở các quốc
gia nhưng ngay ở những nước có văn hóa cao, người ta
vẫn có những nhận thức đôi lúc khác nhau về từ ngữ
này. Chúng ta sẽ không để mất quá nhiều thì giờ cho
việc định nghĩa từ ngữ mà chú trọng đến sự lựa
chọn một thái độ, của người Việt ở trong nước hay
đang ở nước ngoài : làm chính trị hay không làm chính
trị.
Chính
trị bao gồm một lãnh vực hết sức rộng lớn như nhiều
người hiểu và các tự điển đông tây đều gần cùng
một định nghĩa.
Trước
hết, chính trị là mọi việc liên quan đến công cuộc
trị nước an dân. Trong một phạm vi rộng hơn, chính trị
là các tương quan giữa nhiều quốc gia, giữa các quốc
gia và các định chế quốc tế.
Chính
trị cũng là các hoạt động liên quan đến công vụ
trong một nước. Các lý thuyết tổ chức một quốc gia,
các thể chế, các chủ nghĩa, các cương lĩnh của các
chính đảng đều ở tuyến đầu của địa hạt chính
trị.
Nhưng
chưa hết, chính trị còn là một khoa học, một nghệ
thuật chuyên về việc quản trị một quốc gia, tham gia
hay điều khiển một chính phủ, chính trị cũng là tổng
hợp những sự cố của một nước : tình hình chính trị,
sinh hoạt chính trị, bối cảnh chính trị, nền chính trị
v.v….
Theo
ngôn từ mác-xít, chính trị là phần chính của thượng
tầng kiến trúc(superstructure) (1), gồm những chủ thuyết
và cơ cấu đầu não của một quốc gia xây dựng trên hạ
tầng cơ sở (infrastructure) qui tụ những lực lượng và
tương quan sản xuất tạo thành căn bản vật chất của
xã hội. Tách khỏi cái ngôn từ sặc mùi đối đầu giai
cấp này, hạ tầng cơ sở là hệ thống đường sá, cầu
cống, phi trường, hải cảng….tất cả những phương
tiện và cấu trúc dùng cho việc giao thông vận tải và
rộng hơn cho sự hoạt động của một nền kinh tế quốc
gia.
Tóm
lại, ít có một từ ngữ nào rộng nghĩa hơn từ ngữ
chính trị, bao trùm nhiều lãnh vực quan trọng liên quan
đến một quốc gia, các định chế quốc tế và cả thế
giới nói chung.
II
– Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính
trị
Định
nghĩa rộng rãi và rõ ràng của từ ngữ chính trị được
thông dụng và chấp nhận khắp nơi, làm sáng tỏ vấn đề
tham gia hay không tham gia, làm hay không làm chính trị, đối
với môt người trong cộng đồng, trong quốc gia của họ,
trong thế giới (chính trị quốc tế), và đặc biệt đối
với chúng ta, người Việt ở trong nước hay người Việt
đang ở hải ngoại vì bất cứ môt lý do gì. Đặc biệt
vì chúng ta là một trong vài dân tộc bất hạnh nhất
trên địa cầu, đã phải chịu đựng một cuộc chiến
tranh lúc ác liệt, lúc tạm ngưng, ròng rã ba mươi năm
trời rồi , tiếng súng lặng im, chịu đựng tiếp một
chế độ hà khắc từ ba mươi năm nay và giờ đây thiết
tưởng đã đến lúc cần phải thay đổi.
Thế
nhưng, trước khi đề cập đến chuyện của chính chúng
ta, hãy tìm hiểu vì sao vấn đề làm hay không làm chính
trị, tham gia hay không tham gia chính trị cũng được đặt
ra ở khắp nơi trên thế giới. Tìm hiểu vì, ngoài những
lý do riêng của chúng ta, các lý do khác đều chung chung
giống nhau, loài người vẫn được mệnh danh từ lâu là
những “sinh vật chính trị“.
Thật
vậy, với định nghĩa vừa trình bày, không ít thì nhiều,
ở nước nào cũng vậy, ai cũng tham gia chính trị, trực
tiếp hay gián tiếp, dưới hình thức này hay hình thức
khác, qua những hành động trong cuộc sinh hoạt hằng
ngày. Ai cũng có những quan hệ ràng buộc mình với xã
hội, với quốc gia của mình, những bổn phận cũng như
những nhiệm vụ.
Hành
sử những quyền công dân trong một nước dân chủ như
bầu cử , ứng cử vào các chức vụ dân cử là một thể
hiện rõ rệt nhất của sự tham gia chính trị. Đại đa
số dân chúng các quốc gia dân chủ tham gia việc nước
qua hình thức thông dụng này.
Tranh
đấu chống lại gian lận bầu cử, đòi hỏi quyền ứng
cử, công khai vận động cho một hay nhiều ứng cử viên
tức là làm chính trị, dấn thân chính trị, phục vụ và
bảo vệ nền dân chủ của quốc gia. Không có những
thành phần năng động và can đảm này, nhiều nước kém
mở mang đã có thể trở thành nạn nhân của những chế
độ độc tài hay không thoát khỏi được các chế độ
quân phiệt. Sự biến đổi quan trọng trong chiều hướng
dân chủ hóa ở Châu Mỹ la-tinh trong ba thập niên vừa
qua là một bằng chứng không chối cải được của sự
kiện lịch sử này.
Phát
biểu một ý kiến, xác định một lập trưòng về một
vấn đề liên quan đến quyền lợi của xứ sở, của
dân tộc, của cộng đồng thế giới là tham gia chính trị
bằng sự bày tỏ một tư tưởng, một quan điểm của
một người dân trong một nước dân chủ, tự do.
Hoạt
động trong một tổ chức, một đoàn thể, một đảng
phái chính trị tức là làm chính trị với mức độ dấn
thân (engagement, commitment) để thực hiện và phục vụ
một lý tưởng, một hoài bảo, một mục đích vượt lên
trên quyền lợi cá nhân của mình. Sự cấu tạo một nền
dân chủ đích thực bắt nguồn từ đây vì sự học hỏi
và thực tập dân chủ đã được diễn ra phần lớn
trong khu vực, trong môi trường chủ yếu này.
Giữ
một trọng trách trong chính quyền, tham dự chính phủ, là
làm chính trị bởi sự san sẻ quyền hành và thụ lãnh
trách nhiệm trước những cơ cấu đại diện quốc dân.
Nói chung, khi con người đã tiến đến thời kỳ tổ chức
sinh sống thành một cộng đồng một xã hội, một quốc
gia thì hầu hết đều tham gia chính trị để góp phần
của mình vào sự tồn tại và phát triển của quốc gia
mình. Tham gia tích cực, tham gia với ý thức sâu xa hay
nhiều lúc tham gia mà không biết hay không cần biết mình
tham gia vì trong nhiều trường hợp một sự tán đồng
hay bất đồng, hay ngay cả sự giữ im lặng trước một
hành vi một sự cố xảy ra trong nước hay trong thế giới
đã là một thái độ chính trị, nghĩa là một sự tham
gia ở một mức độ nào đấy, công khai hay âm thầm,
lặng lẽ.
Bên
cạnh sự tham gia chính trị của đại đa số, cố nhiên
còn lại những người không muốn “dính” đến, không
muốn liên hệ đến bất cứ việc gì ngoài chuyện “làm
ăn” sinh sống của họ và chủ trương đóng kín cửa
với thế giới bên ngoài. Họ chỉ cần sống với họ
trong cái võ ốc mà họ tin là kiên cố, mặc cho “thời
tiết“ xã hội, chính trị bên ngoài đổi thay sau bức
tường cách nhiệt mong manh, giả tạo. Trong cái thế liên
lập (interdépendance, interdependence) của các quốc gia ngày
nay, một nước không thể tự tách riêng ra để tồn tại
một mình được thì một cá nhân càng không thể tự
giam mình trong cái vũ trụ tí hon của mình được. Vươn
ra khỏi cái phạm vi hạn hẹp của mình, kết hợp với
xã hội chung quanh mình, san sẻ những mối lo chung, những
hy vọng chung, thực hiện những dự án, những công cuộc
lợi ích chung, chia xẻ những ngọt bùi chung, đấy là
tham gia chính trị, làm chính trị. Và chính cái năng lực
chính trị tổ chức được thành xã hội, thành quốc gia
đã tạo nên sự phân biệt lớn lao giữa con người và
con vật dù cả hai đều là những sinh vật, một thời xa
xưa trong tiền sử không khác gì nhau mấy.
Thế
nhưng, qua bao nhiêu thời đại, từ khi ý thức chính trị
còn sơ đẳng cho đến khi phát triển đến cao độ, sáng
tạo nên những qui luật trị nước an dân thì bên cạnh
những người làm chính trị tốt có lý tưởng, năng lực
và đạo đức đã góp phần vào những công trình xây
dựng nên sự hưng thịnh của quốc gia, phúc lợi cho thế
giới thì cũng không thiếu những chính trị gia hoạt đầu,
những kẻ lợi dụng lòng tin của dân chúng gởi gắm nơi
mình, những kẻ dùng bạo lực tranh đoạt quyền thế hảm
hại đồng bào, những kẻ dùng tà thuyết lường gạt
nhân dân, những kẻ bất lương tham nhũng hợp tác với
những kẻ tòng phạm “không làm chính trị“ nhưng biết
làm tiền bằng mọi cách kể cả bán rẻ lương tâm và
danh dự.
Từ
xưa đến nay, từ Âu sang Á, ở các nước độc tài cũng
như ở các nước dân chủ, phường chính trị gia kể
trên không thiếu. Đành rằng trong nghề nào và ở bất
cứ đâu cũng có “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng con
sâu trong nồi canh chính trị càng lớn mạnh, hậu quả
càng tai hại cho một xã hội, một quốc gia. Thành kiến
bất lợi của một số người dành cho người làm chính
trị và cho cả việc chính trị theo nghĩa họ hiểu, bắt
nguồn một phần lớn từ loài sâu bọ này.
Nhưng
không phải vì hiện tượng sâu bọ này mà sự tham gia
chính trị, sự dấn thân chính trị giảm bớt hào quang,
một vầng hào quang kết hợp bằng lý tưởng phục vụ
công ích, bằng sự chấp nhận và thực thi những dòi hỏi
khắt khe về đạo đức, bằng những nỗ
lực làm việc và
phục vụ một chính nghĩa, bằng những đóng góp và hy
sinh vật chất và tinh thần, bằng sự chấp nhận những
hiểm nguy không thiếu, tất cả cho sự thành công của
một đại cuộc. Tham gia chính trị, làm chính trị là
chấp nhận một thách đố chống nghịch cảnh, vượt ra
khỏi cái tôi nhỏ bé của cá nhân mình, hoà mình với
mọi người để cùng nhau phục vụ cho cộng đồng, cho
xứ sở của mình, cho thế giới mà mình và đất nước
của mình phải là một thành phần xứng đáng và hửu
ích có khả năng
mang lại phần đóng góp chứ không chỉ ngửa tay xin xỏ
suốt đời.
Tham
gia chính trị, làm chính trị là tự ý gánh lấy một
phần trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, chống lại
thái độ đứng ngoài cuộc, đóng vai trò “quan sát viên
vô tư “ trong lúc đối tượng được quan sát chính là
xứ sở, quê hương mình đang ở trong cơn hoạn nạn và
đang khẩn thiết cần đến mình để vượt thoát và vươn
lên.
Lâu
trước 1975, trong thập niên năm mươi, thành phần“trùm
chăn này“ đã được ngụy trang dưới nhiều hình thức
để che đậy sự nhát sợ của một số người, làm giảm
thiểu phần nào khả năng chống Cọng để bảo vệ tự
do lúc bấy giờ. Họ không thích cộng sản, họ lo sợ
cộng sản chiếm hết Miền Bắc (trước hiệp định
Genève tháng 07, 1954 lực lượng Cộng sản còn được gọi
là Việt Minh chỉ chiếm giữ một phần lãnh thổ ở thôn
quê và một số ít tỉnh ở Miền Bắc và Miền Trung) và
Miền Nam Việt Nam nhưng họ không tham gia chính trị vì sợ
mang màu sắc chống Cộng, có thể bịết đâu một ngày
nào đấy bị trả thù. Tiếc thay cho họ, sự khôn ngoan
và phòng xa chu đáo không giúp họ tránh khỏi cảnh ngộ
chung của toàn dân, năm 1954 đất nước phân đôi, một
triệu người di cư từ Bắc vào Nam và từ tháng tư đen
năm 1975 hàng triệu người kể cả họ phải rời bỏ quê
hương, lần lượt ra đi khắp bốn phương trời …
III
– Chính trị với người Việt ở hải ngoại.
Khi
nói với người Việt ở hải ngoại về vấn đề này,
tôi muốn ám chỉ tất cả những người gốc Việt hiện
ở ngoài Việt Nam, dù họ mang quốc tịch nào, miễn là
họ còn tưởng nhớ đến quê hương, trung thành với
nguồn gốc và còn ấp ủ trong lòng tình đồng bào Việt
Nam ruột thịt. Và cũng trong phạm vi mở rộng của vấn
đề “ làm gì cho quê hương“, tôi sẽ không phân biệt
những người ra đi trước hay sau 1975 vì những lý do có
thể giống nhau , có thể khác nhau tùy theo hoàn cảnh, tùy
theo trường hợp của mỗi người, mỗi gia đình, và tùy
theo tình thế biến chuyển không ngừng của đất nước
trong hơn nửa thế kỷ khổ nạn với mấy lần vật đổi
sao dời.
Lắm
lúc trong một cuộc đời, người ta không làm chủ được
số phận của mình. Nhưng điều quan trọng là cố gắng
tối đa, không vội nản
lòng trước khó
khăn trở ngại, không chỉ biết lo cho mình mà còn phải
san sẻ nổi
lo chung của dân
tộc.
Tôi
muốn dành vài hàng ngắn ngủi để nhắc lại sơ qua một
việc nhỏ nhưng có ý nghĩa tương tự như câu chuyện
ngày hôm nay, tại mục này: chính trị với người Việt
ở hải ngoại. Hoàn cảnh có khác nhau và nhiều năm tháng
đã trôi qua nhưng câu chuyện như mới diễn ra ngày nào
vì nhiều người trong cuộc vẫn còn đây như giáo sư Lê
Mộng Nguyên và nơi hội họp vẫn còn đó, nguyên vẹn ở
đường Monge, quận 5 thành phố Paris. Tôi đến thủ đô
nước Pháp một ngày đầu thu 1959, chỉ một mình sau khi
phái đoàn Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa mà tôi là một
thành viên rời Nhã Điển (Athènes) thủ đô của Hy Lạp
và hội nghị Liên Hiệp Quốc Tế Nghị Sĩ vừa bế mạc.
Mục đích duy nhất là nói chuyện, đúng hơn là tranh
luận, với sinh viên Việt Nam mà một số đáng kể là
thân Cộng hay đảng viên cộng sản thật sự trong tổ
chức Liên Hiệp Việt kiều. Thời ấy, các sinh viên này
rất hung hãn nhất là đạo luật về an ninh quốc gia vừa
được ban hành ở Miền Nam để trừng trị các hoạt
động phá hoại, khủng bố. Mặt Trận giải phóng Miền
Nam thành hình sau đấy. Công tác này chỉ là một sáng
kiến của tôi, một hành động tự nguyện và được
Tổng thống Ngô Đình Diệm chấp thuận. Tôi muốn thực
hiện một cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa những người
Việt ở trong nước và ngoài nước, đặc biệt giữa
những người trẻ dấn thân ở bên này và bên kia chiến
tuyến, với sự mong ước, có lẽ là tham vọng, thuyết
phục những người trí thức trẻ tuổi đang nghiêng về
phía bên kia trở về với chính nghĩa quốc gia, trở về
với lý tưởng tự do dân chủ.
Còn
là một thanh niên chưa đến ba mươi tuổi lớn lên giữa
thời tao loạn, tôi đã và đang làm nhiều nghề (giáo sư,
luật sư, chủ bút và chủ báo,….) và cũng đã trải
qua nhiều thử
thách, tù đày, gian khổ. Có lẽ nhờ vậy chăng mà tôi
đã quen và vẫn muốn đương đầu với nghịch cảnh thay
vì tránh né khó khăn miễn là phục vụ được lý tưởng
của mình.
Sau
khi đắc cử Dân Biểu quốc hội và được bầu vào các
chức vụ Phó Trưởng Khối Liên Minh Xã Hội (từ năm thứ
hai của pháp nhiệm, tôi làm Trưởng Khối) và Chủ Tịch
Ủy Ban Lao Động- Xã Hội-Y Tế ( từ năm sau, tôi lần
lượt giử chức vụ Chủ Tịch các Ủy Ban Nội Vụ, Quốc
Phòng), tôi nhận thấy cần thừa dịp phó hội ở Hy Lạp,
sang thẳng Paris để thực hiện một công tác “giải
độc” ở hải ngoại chắc chắn không phải là dễ dàng
vì ai cũng biết nơi đây là trung tâm hoạt động mạnh
nhất của Cộng sản Việt Nam ở Âu Châu, đặc biệt của
giới sinh viên và thợ thuyền Việt kiều trong tổ chức
Liên Hiệp Việt kiều thời ấy.
Tôi
đã thảo luận công khai, trực tiếp với các sinh viên đủ
mọi thành phần, quốc gia, thân Cọng, cộng sản thực
sự, thảo luận mọi vấn đề liên quan đến tình hình
đất nước, đời sống của sinh viên, thảo luận trên
căn bản mà tôi đề nghị: quyền lợi chung của xứ sở
và tình tự dân tộc. Vì giới hạn của bài này và vì
không phải chỗ nên tôi không thể kể lại chi tiết ở
đây nhưng có thể tóm tắt là buổi họp rất sôi
nổi, “phe “ thân
Cộng và Cộng không áp đảo được như họ vẫn thường
làm trong các vụ hội thảo mà cuối cùng họ chịu lặng
im thấy rõ.
Đại
Sứ VNCH, bác sĩ Phạm khắc Hy mời tôi ở lại Pháp ít
lâu để tổ chức những buổi thảo luận tương tự ở
các tỉnh nhưng tôi phải về nước vì nhiều công việc
đang chờ đợi tôi.
Bao
nhiêu nước đã chảy qua dưới cầu từ độ ấy. Một
cuộc đổi đời đã diễn ra. Ngược lại với sự thay
đổi vị thế trong nước mà anh bộ đội ở rừng rú và
tên cán bộ công an nằm vùng ở Sài gòn đã trở thành
cảnh sát chỉ đường giao thông của thành phố tạm thời
mang tên “bác”, tại hải ngoại, trên toàn khắp thế
giới, con cháu của “ bác” biến đâu mất, kể cả các
đại diện ngoại giao cũng núp lén cố thủ trong các công
ốc của nhiệm sở.
Họ
cẩn thận tránh né cũng phải vì ba triệu người Việt ở
khắp nơi không thích họ, nhiều người còn hận thù,
chuyện rủi ro có thể xảy ra cho họ nếu ai đó thổi
mạnh hòn than đỏ ấp ủ dưới lớp tro tàn mỏng manh.
Mất chính quyền, mất chủ quyền ở trong nước bởi bạo
lực của một cuộc xâm lăng trắng trợn, ngược lại ở
ngoài nước, dân Việt Nam đã thành công lớn, đã thắng
lợi lớn trong cả hai phạm vi tinh thần lẫn vật chất.
Từ
Mỹ Châu, Úc Châu đến Âu Châu, Á Châu, cộng đồng
người Việt quốc gia đã hiên ngang công khai làm sáng tỏ
trở lại trước công luận thế giới, chính nghĩa của
cuộc đấu tranh bị hiểu lầm và bị xuyên tạc trước
đây bởi đạo quân thứ năm của cộng sản quốc tế,
bởi những trí thức và ngụy trí thức tả khuynh ở Tây
phương, đặc biệt trong giới truyền thông đại chúng,
báo chí và truyền hình của Hoa kỳ, của Tây Âu, nghĩa
là của cái được mệnh danh là Thế giới Tự do (!) thời
bấy giờ.
Tại
Hoa Kỳ, lần lượt gần bảy-mươi thành phố ở khắp
các vùng trong Liên bang chính thức công nhận lá cờ quốc
gia Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của
cộng đồng người Việt trong lúc vài thành phố quan
trọng có đông người Việt ở Nam California quyết định
không bảo đảm an ninh cho các viên chức của chính quyền
Hà Nội mà họ khuyến cáo không nên lai vãng đến. Hành
động có ý nghĩa đặc biệt này quả thật là hiếm hoi
trong lịch sử bang giao quốc tế mà Hoa Kỳ muốn dành cho
người Việt định cư trên đất nước của họ để bày
tỏ sự tôn trọng của họ đối với sự lựa chọn
chính trị hàng đầu của người Việt bất chấp qui lệ
nếu không phải là qui ước ngọai giao.
Cộng
đồng người Việt mà đại đa số là đồng bào tỵ nạn
cộng sản và con cháu của họ, lớn lên hoặc sinh trưởng
tại hải ngoại, đã thành công rực rỡ trên đất tạm
dung. Tư cách, tài năng của người Việt đều được
công nhận khắp nơi. Tỷ lệ học giỏi ở trung học và
đại học ở Hoa Kỳ cũng như ở Âu Châu ngang với hoặc
cao hơn tỷ lệ của dân bản xứ trong lúc tỷ lệ tội
phạm ít hơn hẳn so với mọi sắc dân khác. Khoảng ba
trăm ngàn chuyên viên đủ ngành đang hoạt động, lợi
nhuận tương đương với dân bản xứ cùng trình độ.
Nhưng
một điểm đáng chú ý- và cũng là một vấn đề cần
xét lại – là trong năm vừa qua người Việt ở hải
ngoại đã gửi hoặc mang về nước ba tỷ đô la Mỹ,
bằng tổng số ngoại viện và quan trọng hơn nữa là
bằng tiền mặt. Riêng khu vực thành phố Sài – Gòn cũ
đã chiếm hơn một tỷ tám trăm triệu. Một vấn đề
cần xét lại vì ngoài những trường hợp trợ giúp nhân
đạo hay bà con, bạn hữu túng thiếu cần giúp đỡ,
chúng ta không thể cung ứng phương tiện nuôi dưỡng một
chế độ độc tài, độc đảng, tham ô nhũng lạm, áp
bức, bất công, Một chế độ đang bị thế giới văn
minh lên án, môt chế độ mà chính những người cộng sự
còn lương tri, những nhà trí thức trong nước, những cựu
đảng viên cộng sản cao cấp đã thức tỉnh, những nông
dân nghèo khổ ở châu thổ sông Hồng, những đồng bào
sắc tộc ở Cao Nguyên thậm chí đến những chiến binh
đã chiến đấu hy sinh cho chế độ suốt một cuộc đời,
tất cả đã chống đối công khai, không sợ hãi, không
lùi bước. Vì tất cả đã đi đến giới hạn cuối cùng
của khả năng chịu đựng, của sự nhẫn nhục và trên
hết, vì tất cả đã nhận thức nguy cơ của một quốc
gia đang thoái hóa với các giá trị tinh thần đạo đức
truyền thống của dân tộc bị suy sụp trước sự đăng
quang thách thức của thế lực kim tiền,, một thứ kim
tiền thủ đắc một cách bất chính và bất lương trên
thảm cảnh của đại đa số sống chật vật dưới rất
xa mức nghèo khổ.
Đồng
bào chúng ta ở hải ngoại lẽ nào làm ngơ trước đồng
bào ruôt thịt trong nước đang bị gọng kềm của chế
độ xiết chặc, lẽ nào im lặng trước những người
bất chấp đe dọa hiểm nguy đang đứng lên tranh đấu
cho tự do, dân chủ và quyền sống xứng đáng của con
người.
Con
người của thế kỷ hai-mươi-mốt mà đời sống đang
được phát triển toàn diện, tinh thần và vật chất, ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay, con người
mà dân Việt đang mơ ước và có quyền mơ ước được
như vậy. Chính bạn ở hải ngoại là con người ấy mà
đồng bào ruột thịt của bạn ở quê hương đang mơ
ước.
Bạn
đang ở Hoa Kỳ, nước giàu mạnh nhất thế giới, với
tổng sản lượng nội địa tính theo đầu người
(produit intérieur brut par personne PIB – gross domestic product
per capita GDP) là 44.469 đô-la hay 34.207 euros tinh theo mãi
lực (parité du pouvoir d’achat PPA , purchasing power parity
PPP), bạn đang ỏ Âu Châu, khu vực đồng euro với 31.035
đô-la Mỹ hay 23.874 euros theo những con số chính thức vào
tháng giêng 2005 của những cường quốc phát triển nhất.
Trong cùng lúc, bà con của bạn ở quê nhà có lợi nhuận
trung bình một năm tính rộng nhất vẫn dưới 500 đô –
la Mỹ, thấp khoảng sáu lần lợi nhuận trung bình của
người dân Thái Lan kế cận và thấp hơn nhiều lần nữa
so với lợi nhuận của người dân Đại Hàn, Đài Loan,
khỏi phải sánh với ngưòi dân xứ Hoa Anh Đào mà lợi
nhuận (33.165 đôla Mỹ) cao gấp bảy-mươi lần lợi nhuận
của dân ta ! Cùng một giống người “da vàng mũi tẹt”,
cùng sinh sống trên miền Đông Á, họ đã vượt Việt
Nam ngày nay quá xa trên mọi lãnh vực, văn hóa, chính trị,
khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội …và không một ai
trong bọn họ muốn tranh dành cái “đỉnh cao của trí
tuệ loài người “ mà các vị lãnh đạo Cộng sản Bắc
Việt đã, không
cười rởn và rất
nghiêm chỉnh, tự gán cho mình vào cuối thập niên
bảy-mươi khi họ hoàn tất sự nghiệp cách mạng vĩ đại
đưa dân tộc Việt Nam trở về thời đại đồ đá!
Từ
cái hố sâu xa cách lợi nhuận thăm thẳm này, chúng ta
không còn phải ngạc nhiên trước tình trạng cơ cực của
đại đa số đồng bào ở khuất lấp trong nông thôn và
trong xó hẻm của các đô thị. Một tình trạng không thể
che đậy được bởi cái bề ngoài hào nhoáng và đồ sộ
của các khách sạn quốc tế, những tiệm ăn sang trọng
mùi vị thơm ngon, những khiêu vũ trưòng rực rỡ ánh đèn
màu, tất cả dành cho người ngoại quốc , một số ít
Việt kiều giàu có về thăm quê (số đông không đến
được những nơi này vì quá đắt ngay đối với họ) và
đặc biệt cho các nhà “tư bản đỏ “, cán bộ cao cấp
của “đảng ta “ và những kẻ làm ăn với chúng. Trên
vỉa hè trước mặt, các em bé đang tranh nhau xin tiền và
xin ăn chút dư thừa! Xa hơn, kín đáo hơn, các em bé khác
đang phải bán mình để nuôi thân và nuôi cha mẹ, những
bậc sinh thành đã không tìm ra được việc làm để nuôi
con, đành phải ăn vội bát cơm chan nước mắt tủi nhục
với con, căm hờn với chế độ đã tạo nên cuộc đổi
đời nhục nhã, tang thương này. Xa hơn nữa, ở nước
láng giềng Căm-Bốt, có những em bé Việt mới tám tuổi
hoặc lớn hơn nhưng vẫn còn vị thành niên đã được
cha mẹ bán đi hoặc đưa đến đây hiến dâng trinh tiết
rồi hành nghề mãi dâm để nuôi gia đình. Và càng xa hơn
nữa, ở tận Trung Đông, ở Đông Âu, ở tận Đại Hàn,
Đài Loan v.v….nhiều bà mẹ Việt Nam đã được xuất
cảng lao động đến đấy để làm người giúp việc ở
tư gia, một số còn bị lợi dụng tình dục, đau xót tủi
nhục đến tột cùng, thương nhớ chồng con không kể
xiết nhưng họ không còn sự lựa chọn nào hơn giữa ra
đi để kiếm sống, và ở lại để cả gia đình cùng
khốn đốn vì khó kiếm được việc làm. Người phụ nữ
Việt lại còn phải trải qua những ngày đen tối khác
khi nhiều thiếu nữ vì nghèo khổ phải chấp nhận lấy
chồng để cha mẹ được một số tiền nhỏ – vài trăm
đô la Mỹ- rồi theo chồng về Trung Hoa hay Đài Loan sống
như tôi tớ trong nhà chồng hoặc trong một số trường
hợp bị ép làm những điều đồi phong bại tục.
Tình
trạng chính trị , kinh tế, xã hội, vừa được tóm lược
không phải để bêu xấu một chế độ vì chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã không thể dấu diếm che
đậy gì được nữa mà chỉ để nhắc nhở và kêu gọi
đồng bào Việt ở hải ngoại làm một cái gì cho quê
hương, cho đồng bào ruột thịt trong nước, cho tương
lai của dân tộc.
IV
– Chúng ta không thể làm ngơ được nữa
Cùng
nhau chúng ta phải chung sức vận dụng khả năng tối đa
của mình để tranh đấu cho sự phục hồi tự do, dân
chủ, cho sự tôn trọng nhân quyền, cho sự tôn trọng tự
do tín ngưỡng và hành đạo của các tín đồ, hoàn trả
vô điều kiện tài sản của tất cả các giáo hội Phật
Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao
Đài Giáo, Đạo BàLa Môn …
Chúng
ta phải tranh đấu tại hải ngoại bằng mọi cách hữu
hiệu nhất, công khai hay tiềm ẩn, trực tiếp hay gián
tiếp,cả bề rộng lẫn bề sâu, để công luận thế
giới công khai nhìn nhận tình trạng của một dân tộc
tám-mươi triệu người bị khống chế và đàn áp bởi
một chế độ độc tài, độc đảng xây dựng bằng bạo
lực, một dân tộc trong suốt ba mươi năm nay, kể từ
ngày Cộng sản Bắc Việt thôn tính Miền Nam Việt Nam,
không được biết một cuộc bầu cử tự do và trung thực
nào cả. Một sự nhìn nhận và theo dõi của thế giới,
tạo áp lực mạnh trên chế độ, mở đường lúc cần
thiết cho một sự can thiệp như thế giới đã từng can
thiệp và sẽ can thiệp ở nhiều nơi mà dân chúng trong
nước bị đàn áp bởi chính quyền của nước họ.
Chúng
ta phải hổ
trợ tối đa các
hoạt động của đồng bào trong nước đòi hỏi tự do,
dân chủ, đặc biệt của những nhà trí thức, những
người cộng sản cũ đang thất vọng và phẫn uất với
chế độ đã phản bội họ, những nông dân ở Miền Bắc
đã đứng lên chống lại cán bộ cướp ruộng, cướp
đất của họ và đánh đuổi bọn Công An đến giải tán
họ.
Trước
cái khí thế đáng khâm phục của đồng bào đang dâng
lên chống lại cường quyền, chúng ta phải ngăn tránh
mọi hành động vô tình hay gián tiếp tiếp tay củng cố
một chế độ đã và đang tận tình khai thác cái thân
thể đã héo mòn và suy nhược của Đất Nước cho cái
túi tham không đáy của những kẻ cầm đầu và thừa
hành của chế độ.
Chúng
ta không để cho Cộng sản Hà Nội biến chúng ta thành
một loại con tin chỉ vì chúng ta muốn về thăm quê
hương. Nếu vì những lý do gia đình hết sức đặc biệt
mà phải về trong một thời gian ngắn thì mỗi một người
trở về ấy phải tìm mọi cách thuận lợi và hữu hiệu
nhất để thông báo cho đồng bào trong nước biết rằng
nhiều cường quốc và lực lượng dân chủ trên thế
giới đang tố cáo và cảnh cáo nghiêm khắc chính phủ Hà
Nội về những chánh sách và hành động thô bạo vi phạm
dân quyền và nhân quyền, kiểm soát chặt
chẻ và đàn áp
các tôn giáo. Các cường quốc và lực lựng dân chủ này
đứng đầu là Hoa Kỳ sẽ không ngần ngại tiếp tay hổ
trợ cho các dân tộc đứng lên tranh đấu cho tự do dân
chủ của họ như Tổng Thống Georges W. Bush đã tuyên bố
long trọng để mở đầu nhiệm kỳ thứ hai này của ông.
Hơn
bao giờ hết, đồng bào Việt ở hải ngoại phải đóng
góp công của, năng lực, tài trí của mình vào sự nghiệp
xây dựng một vận hội mới tự do, dân chủ, hoà bình
và tiến bộ cho Quê Hương .Hơn lúc nào hết, chúng ta
phải cảnh giác trước các mưu mô, các thủ đoạn của
Cộng đảng nhằm lung lạc tinh thần, chia rẻ hàng ngũ
chúng ta.
Chính
nghị quyết hớ hênh số 36 của bộ Chính trị Cộng đảng
Hà Nội đã tự vạch trần các âm mưu ấy khi đưa ra
những luận điệu tuyên truyền nịnh bợ rẻ tiền đối
với Việt kiều đồng thời xen lẫn một lời hù dọa
trẻ con lỗi thời và lạc chỗ với những người chống
lại họ đang ở nước ngoài và là công dân của các
nước ấy ! Và rất đỗi lạ lùng khi họ đòi giúp đỡ
cho Việt kiều , hầu hết ở Âu Mỹ, nơi mà người dân
có lợi nhuận trung bình từ sáu-mươi-lăm đến một trăm
lần nhiều hơn lợi nhuận của đồng bào ta ở quê nhà,
mà Đảng ta và Nhà Nước ta không hề đếm xỉa đến và
đành đoạn bỏ quên.
V
– Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng
Trong
cộng đồng người Việt ở hải ngoại, ngoài sự thành
công của các bậc cha anh, thế hệ trẻ trên dưới ba
mươi đã làm rạng danh cho dân tộc Việt ở Âu Châu cũng
như ở Mỹ Châu, Úc Châu trên phương diện học vấn và
cũng đã hội nhập khá dễ dàng các quốc gia nơi họ
trưởng thành.
Tôi
muốn nói thêm vài lời với các bạn trẻ ấy, với thế
hệ lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại. Nói thêm
vì các cháu chưa biết nhiều hay chỉ biết quê hương qua
những tin tức của báo chí và các phương tiện truyền
thông khác, qua những lời kể lại của những người nào
đấy, cố nhiên với những nhận định của họ, có thể
phản ảnh đúng sự thật, có thể không vì thiếu tính
khách quan. Hoặc có thể các cháu có về thăm quê hương
nhưng chưa đi đến nhiều nơi trong nước mà chỉ có thì
giờ thăm vài thắng cảnh, vài di tích lịch sử, thăm bà
con và sống vài hôm ở vài đô thị lớn như Hà Nội,
Sài Gòn, v.v … Nhưng các cháu không có đủ thì giờ và
người hướng dẫn để quan sát tận nơi và nhiều nơi,
đời sống thực, kham khổ, của nhiều giới đồng bào,
xa cách và tương phản với cảnh tượng phồn hoa, thịnh
vượng giả tạo, bề ngoài, phô trương lố bịch như một
sự thách thức không kiềm chế và kiêu căng đối với
thân phận hẩm
hiu của đại đa
số, của quảng đại quần chúng , nghĩa là của hơn
bảy-mươi triệu người tức hơn 87 % tổng số dân
tám-mươi triệu người trong nước.
Mười
triệu người may mắn hầu hết ở thành thị, một ít ở
nông thôn, gồm ở đỉnh cao nhất, giới “tư bản đỏ
“ giàu từ vài chục triệu đến nhiều trăm triệu đô
la Mỹ. Các nhà tư bản này là các cấp lãnh đạo đảng
Cộng sản và Nhà Nước, các cán bộ có quyền thế và
địa vị trong suốt hệ thống dọc và ngang của chính
quyền và trong các xí nghiệp quốc doanh. Bên cạnh tư bản
đỏ là giới tư bản “vòng ngoài” chỉ đường mách
nước, cộng tác làm ăn chia phần, cũng giàu có như tư
bản đỏ.
Không
như các cháu ở nước ngoài phải cố gắng học hành,
xin trợ cấp, học bổng, vay mượn và nhiều lúc phải
làm việc thêm đặng có đủ tiền “ăn học“ở bậc
đại học, không thiếu các con cháu của các nhà tư bản
nói trên đang ở bậc trung học phổ thông đã được gửi
đi du học ở Âu Mỹ, tiêu xài không giới hạn, vượt
hẳn con nhà giàu ngoại quốc, như muốn trả thù cho thời
kỳ bố mẹ còn là vô sản thứ thiệt, một thời kỳ mà
họ không dám nhắc đến nữa vì sợ bị các đồng chí
cũ lên án phản bội lý tưởng và bỏ rơi hàng
ngủ !
Trong
lúc ấy, tại Thái Bình ở Miền Bắc, Quảng Nam ở Miền
Trung, Cà Mau ở tận cuối Miền Nam và khắp các nơi khác,
nhiều chục ngàn em bé đang còn ở bậc tiểu học đã
phải bỏ học trong niên khóa 2004-2005 này vì cha mẹ các
em không “ chạy “ ra tiền để đóng góp cho trường!
Các
cháu đang ở kinh đô ánh sáng Paris, các cháu đang làm
việc ở trong một toà nhà chọc trời lộng lẫy ở New
York hay Chicago , làm sao các cháu quên đành đi được các
em bé đáng thương này và các em bé khác đang ăn xin trước
các khách sạn, đang chạy theo xin tiền các du khách hay
đang bán thân để nuôi cha mẹ già như đã kể trên. Cũng
như các cháu, các em bé bất hạnh này mang cùng với cháu,
với tất cả cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, một
giòng máu Lạc Hồng, nhưng vận số rủi ro đã để các
em ra đời dưới bầu trời xã hội chủ nghĩa của quê
hương.
Nhiệm
vụ của tất cả chúng ta, cao niên, trung niên và thanh nữ,
thanh niên như các cháu là phải góp phần tích cực và
đắc lực vào công cuộc tìm kiếm và thực hiện một
giải pháp khả dĩ mang lại tự do, dân chủ cho đất
nước, mở đường cho một vận hội mới tươi sáng cho
toàn thể dân tộc.
Không
có một cơ hội nào thuận lợi hơn, không có một vinh dự
nào xứng đáng hơn là được cống hiến mọi
nỗ lực và khả
năng của chúng ta vào sự nghiệp lớn lao này, vào lúc
này, khi mà trong nước cũng như ở khắp thế giới những
huyền thoại về Hồ Chí Minh, về chiến tranh chống Mỹ,
chống tư bản đế quốc, về thiên đàng hứa hẹn của
Đảng v.v … đã sụp đổ và tan biến như một luồng
gió độc thổi qua và những sự thật của lịch sử đã
được phơi bày và kiểm chứng mà không còn ai chối
cải được nữa ,
và đặc biệt hơn nữa, khi mà giờ đây diễn biến hoà
bình đang chuyển động mạnh, sẽ dẫn đến mục đích
cuối cùng: dân chủ hoá nước Việt Nam.
Ngoài
việc lo cho đời sống cá nhân và gia đình, mỗi một
chúng ta vẫn có thể luôn luôn vươn mình lên để theo
đuổi và thực hiện một lý tưởng cho cuộc đời , và
còn lý tưởng nào cao đẹp hơn, thiết thân hơn, thiêng
liêng hơn là phục vụ cho quê hương, cho giống nòi của
mình. Trưởng thành xa tổ quốc, các cháu sẽ gặp được
nơi môi trường phục vụ này những cơ hội gần
gủi với nguồn gốc,
xa tránh được nổi
lo âu lạc mất căn
tính (perte d’identité, loss of identity) điều mà bất cứ
ai lớn lên ở xứ lạ quê người cũng có thể cảm nhận
một ngày nào đó khi bơ vơ như lạc
lỏng giữa những
người có thể là bạn bè gần
gủi nhưng màu da,
chủng tộc khác nhau chưa kể phong tục tập quán nhiều
lúc không giống nhau và chắc chắn không cùng một ngôn
ngữ.
Tiếp
đến nhưng chưa phải là lý do cuối cùng, từ phương vị
một chuyên viên dù tài giỏi chăng nữa nhưng luôn luôn
thúc thủ trong địa hạt chuyên môn của mình ở nước
ngoài mà người tài không thiếu trong các quốc gia phát
triển, các cháu có thể trở thành những thành phần quan
trọng trong việc tái thiết và hiện đại hóa xứ sở,
trở thành những nhân vật góp phần hoạch định các kế
hoạch, các chính sách của Nhà Nước Việt Nam tương lai,
và biết đâu, và tại sao không, trở thành những người
lãnh đạo của một Nhà Nước mà các cháu và cha,mẹ,
anh, chị, em của các cháu sẽ cùng đồng bào trong nước
đứng lên xây dựng trong tiến trình dân chủ hóa quê
hương, một tiến trình đang được đẩy mạnh và không
một thế lực nào ngăn cản được.
Dân
số Việt Nam đã bắt đầu vượt quá tám-mươi triệu.
Nếu được dân chủ hoá, hiện đại hoá, canh tân hóa,
lành mạnh hóa, nếu được lãnh đạo bởi những người
yêu nước, thương dân, có khả năng, có đức độ, chắc
chắn quê hương của chúng ta sẽ chiếm được một địa
vị xứng đáng trong cộng đồng các nước văn minh tiền
tiến trong thế giới.
Các
cháu phải tham dự, phải dành chỗ trong cuộc hành trình
về nguồn và hướng tới bến vinh quang này, một cuộc
hành trình đòi hỏi nhiều nỗ lực nhưng đầy phấn khởi
và chứa chan hy vọng ở tương lai.
Hẵn
nhiên, các cháu tiếp tục như thường lệ công việc nghề
nghiệp của mình tại quốc gia các cháu đang cư ngụ cho
đến ngày các cháu tự quyết định lấy tương lai theo
tình hình mới của quê hương. Nhưng giờ đây, sự tham
gia hoạt động chỉ đòi hỏi ở các cháu quyết tâm đóng
góp tài trí và tâm huyết của các cháu vào công cuộc
chung của những người muốn biến đổỉ hiện trạng
của nước nhà bằng một đường lối tranh đấu quả
cảm, kiên trì, bằng những phương thức dân chủ công
khai trước thế giới đang nhìn thẳng vào Việt Nam và
sẵn sàng
hổ trợ khi cần
thiết.
Các
cháu không thể giam giữ tuổi trẻ của mình trong cái vỏ
ốc nhỏ bé để hưởng thụ và tự mãn với vài tiện
nghi vật chất rồi chôn vùi cả cuộc đời như một kẻ
vô danh lạc lõng trong cái xã hội mà các cháu đã hội
nhập.
Đã
đến lúc các cháu phải lựa chọn giữa một cuộc đời
tầm thường và phí phạm như vậy và một cuộc đời
hào hứng, đầy ý nghĩa và hữu ích cho các cháu, cho quê
hương của các cháu, một cuộc đời mà các cháu có
quyền hãnh diện và có thể mang lại vinh quang xứng đáng
cho chính các cháu.
*
* *
Làm
chính trị, tham gia chính trị hay không, giữa lúc quê
hương đang chờ đợi?
Thiết
tưởng chúng ta đã trả lời minh bạch.
Câu
trả lời của những người Việt ở hải ngoại mà tâm
tư luôn luôn hướng về quê hương, đất tổ, với niềm
tin bất diệt ở một tương lai sáng
lạng của nước
Việt Nam tự do, dân chủ, hòa bình, tiến bộ, nối tiếp
lại với những truyền thống nhân bản, hòa ái, đạo
đức, và quyết tâm mạnh tiến trên con đường canh tân
toàn diện sau khi cái vòng ngoặc tai ương của lịch sử
được khép lại vĩnh viễn.
Paris,
đầu Xuân Ất Dậu, 2005
LS.
Lê Trọng Quát
(1)
Vài danh từ có nghĩa chuyên môn được dịch kèm theo Pháp
ngữ và Anh ngữ thể theo lời yêu cầu của một số độc
giả không quen nhiều với các danh từ Hán Việt.