Thái Công Tụng
Môi
trường và con người ở miền Sông Tiền, sông Hậu
1.Nhập
đề
Ngày
nay, với thế kỷ 21, nhiều vấn đề môi sinh được đặt
ra, vì dân số tăng, vì ô nhiễm, vì tài nguyên thiên
nhiên thì có hạn mà sự tiêu thụ thì vô hạn; mãi đến
những năm cuối cùng của thế kỷ 20, vào năm 1992, nhiều
xứ họp tại Rio kí bản thoả ước về bảo vệ tài
nguyên trên trái đất, rồi đến hiệp ước Kyoto về
giới hạn các sự phát thải các khí trên bầu trời ...
Bài
này chỉ giới hạn trình bày một góc nhìn môi sinh tại
đồng bằng sông Cửu long (ĐBCL), quê hương của người
dân sông Tiền, sông Hậu và tương tác giữa các yếu tố
môi sinh và các vấn nạn môi sinh ngày nay.
2.Các
hệ sinh thái
Hệ
sinh thái bao gồm cả quần thể với môi trường quanh ta
như như đất :đất phù sa ven sông, đất phèn, đất mặn,
đất cát ven biển.., như nước : lụt lội, hạn hán,
chất lượng của nước như nưóc mặn, nước lợ, nước
ngọt, như không khí ta thở :không khí trong lành, không
khí ô nhiễm. Cả ba yếu tố nước, đất, không khí có
tác động hỗ tương lên nhau.
Có
bốn thành tố quan trọng trong môi sinh là : thạch quyển
tức đá đất, thủy quyển như sông nước, sinh quyển
như động vật, thực vật, khí quyển như không khí, bầu
trời, khí hậu ..
Ảnh
hưởng qua lại giữa các yếu tố môi sinh
Sơ
đồ trên giúp ta hiểu rõ các mối tương quan giữa nhiều
thành tố của môi sinh: khí quyển, thổ quyển, thủy
quyển.. và các thành tố này có ảnh hưởng tương tác
nhau. Không có một thực thể nào đứng riêng biệt trên
trái đất này.
Khí
quyển là không khí ta thở, là mặt trời, là ánh sáng
ban mai, là hoàng hôn khi trời lặn, là hai mùa mưa nắng...
Thủy
quyển là dòng sông Tiền, sông Hậu, là kinh rạch ngổn
ngang trong đó tôm cá, ốc, nghêu sinh trưởng cung cấp cho
ta thức ăn hàng ngày mà nếu các hoạt động kỷ nghệ
cứ xả nước thải ra không xử lý thì tôm cá chết hay
ăn phải ngộ độc. Thạch quyển tức đá mẹ sinh ra đất
nuôi ta với lúa, khoai, cây ăn trái.
Sinh
quyển tức các sinh vật như nhờ có tác động của con
người mới khai thác được: con người đã phải đào
không biết bao nhiêu là kinh rạch, nào kinh Vĩnh Tế, kinh
Đồng Tiến, kinh trong Đồng Tháp.. để xả phèn, để
thoát thủy và cũng con người đã phải đắp đê ven
biển, làm cống ngăn mặn .
Và
các tương quan, tương tác giữa các thành tố trên như
sau:
Tương
quan Thủy quyển-Sinh quyển:
Nước
ảnh hưởng và có nhiều tương quan với sinh vật vì nhờ
nước tưới ruộng nương, vườn tược; nước chứa
nhiều tài nguyên như tôm, cá; nước giúp thuyền bè di
chuyển trên kinh rạch
Tương
quan Khí quyển-Thạch quyển:
Khí
quyển với không khí, nhiệt độ, mưa nắng hai mùa ảnh
hưởng đến đất đai; nhiệt độ khí quyển có ảnh
hưởng đến nhiệt độ đất. Miền nam, nhờ nhiệt độ
nóng quanh năm nên có thể làm nhiều vụ trồng trọt
quanh năm, khác với Canada, mùa đông, không trồng tỉa gì
được
3
Tổng quan về môi sinh ĐBCL
Đồng
bằng này bằng phẳng với mạng lưới sông ngòi, kinh
rạch ngổn ngang làm cho toàn vùng đều chịu ảnh hưởng
của thủy triều hình thành những loại hình nơi mặn,
nơi chua, nơi cả mặn lẫn chua, nơi bị ngập lụt
và phèn nặng ..
Nông
dân có vô số từ ngữ để gọi kinh rạch: ngoài các chữ
thông dụng như sông, ngòi, mương, lạch, kênh, bàu, ao,
hồ, v.v còn có thêm rạch, xẻo, ngọn, rọc, lung, láng,
bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng .
Môi
trường sông nước với thủy triều lên xuống cũng có
nhiều từ ngữ :ngoài chữ nước lớn (thủy triều dâng)
và nước ròng (thủy triều hạ), còn có nước giựt,
nước bò, nước nhảy, nước đứng, nước nằm..
Cũng
là người Việt di dân, cũng là văn hoá nông nghiệp,
nhưng khi người Việt từ miền Thuận Quảng vào vùng đất
mới sình lầy vùng đồng bằng sông Cửu long, phải trải
qua một quá trình thích ứng nên văn hoá cũng hơi biến
đổi :
Người
đi dao rựa dắt lưng
Ngó
sông sông rộng, ngó rừng, rừng cao
Cũng
là miền đồng bằng phù sa mới bồi đắp do biển cả
trước kia là một vịnh, cũng có đất phù sa, đất phèn,
đất mặn nhưng miền này không bị lụt lội tàn phá như
châu thổ sông Hồng. Thực vậy, dòng sông Cửu Long rất
dài và đã trải qua nhiều xứ duyên hà như Nam Trung Hoa,
Miến Điện, Ai Lao, Kampuchea trước khi vào lãnh thổ miền
Nam Việt nam; ngoài ra, nhờ Biển Hồ của Kampuchia trữ
được nước lụt rất nhiều và chỉ từ từ hạ nước
xuống, đem theo muôn vàn cá con về miệt Kiến Phong, An
Giang làm giàu thủy sản nước ngọt ở đây.
4
. Các loại đất chính miền Châu Thổ Cửu Long
Đất
cát giồng
Các
loại đất cát giồng được thành lập do sóng biển và
gió dồn cát lại mà thành.. Giồng có địa hình cao hơn
các đơn vị trầm tích khác kế cận. Những giải đất
giồng chứng tỏ đó là những bờ biển ngày xưa , nay ở
trong sâu vì châu thổ tiến dần ra biển. Có thể gặp
nhiều giồng dưới dạng những hình vòng cung song song với
bờ biển, rải rác ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (huyện
Cầu Ngang, Trà Cú ..) ..Càng gần biển thì tuổi các giồng
cát càng trẻ hơn. Đất giồng thường cao ráo nên là nơi
có tập trung nhiều làng mạc.
Đất
mặn
Ven
biển có nhiều đất mặn, có thảo mộc thiên nhiên là
rừng sát gồm cây bần, cây đước, sú vẹt là những
thảo mộc chịu mặn:
Quê
hương tôi đất mặn đồng chua
Những
đất mặn ở dưới rừng ngập mặn, bị ngập nước
triều quanh năm; ngoài ra cũng có những đất mặn không
bị ngập triều mà chỉ bị mặn trong mùa khô, thường
có cao độ 0.5-0.8 mét .Đất mặn gặp các vùng duyên hải
như ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri tỉnh Bến Tre,
ở huyện Cầu Ngang, Trà Cú tỉnh Trà Vinh và dĩ nhiên các
huyện tỉnh Cà Mau . Vùng duyên hải ven biển ,với những
'chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, nghe chất muối
thấm dần trong thớ vỏ', trong một khung cảnh 'khi trời
trong, gió nhẹ sớm mai hồng' (Tế Hanh) là những phong
cảnh thường gặp.
Trong
khung cảnh môi sinh của các rừng ngập mặn, có nhiều
đàn cò trú ẩn :
Mây
biếc về đâu bay gấp gấp
Con
cò trên ruộng cánh phân vân
Chim
nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa
lạnh chiều thưa, sương xuống dần (Xuân Diệu)
Những
đàn cò trên cánh rừng làm ta bất giác nghỉ đến ca dao
:
Con
cò mà đi ăn đêm
Đậu
phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông
ơi ông vớt tôi nao
Những
vùng trước kia là biển nay có nhiều đất phèn.
Đất
phèn
Nhóm
đất phèn chiếm nhiều diện tích nhất và có thể gặp
:
-vùng
Đồng Tháp Mười (các tỉnh củ Kiến Tường, Kiến
Phong)
-vùng
Tứ giác Long Xuyên (An Giang, Kiên Giang)
Hàm
lượng phèn biến đổi theo thời gian và không gian; thực
vậy, nước phèn di chuyển từ vùng cao đến vùng thấp
trũng, kéo phèn xuống tích tụ ở các rốn phèn tức
những lòng chảo, hứng phèn của các vùng cao xung quanh.
Trong mùa mưa, nước lôi phèn xuống các rốn phèn, liên
tiếp dồn phèn xuống làm cho dung dịch phèn ngày càng đậm
đặc nên các vùng này phải bỏ hoang.
Những
chỗ phèn nhiều như Đồng Tháp Mười thì nước kinh rạch
rất trong veo vì phèn là những chất sunfat alumin; các chất
này hợp với các giao chất sét nên các chất sét bùn
trong dung dịch bị kết tủa và lắng chìm :
Cụ
Nguyễn Du nói cuộc đời Kiều, muốn êm xuôi mà 'hết
nạn nọ đến nạn kia' cuộc đời vẫn lên xuống, đã
dùng 2 câu thơ sau đây so sánh với nước đã đánh phèn
mà bùn cứ không chịu trầm tích trong dung dịch :
Tiếc
thay nước đã đánh phèn
Mà
cho bùn lại vẩn lên mấy lần. (Kiều)
Đất
phù sa
Đất
này được hình thành dọc theo các dòng sông lớn như
sông Tiền, sông Hậu. Phù sa ven sông thường ở địa
hình cao hơn là các phù sa ở xa sông; độ cao của các bờ
sông phụ thuộc vào lượng phù sa và chế độ thủy văn
của sông. Ta có thể phân biệt :
đất
phù sa địa hình cao có thể trồng lúa 2-3 vụ hoặc
lúa+màu
đất
phù sa địa hình thấp thường ngập nước và chua
Các
loại đất phù sa mới được hình thành cách đây chỉ
khoảng 6 000 năm nay và không có lớp laterit hoặc sạn
sỏi. Có giá trị lớn về mặt nông nghiệp : cây ăn
trái, rau cải, hoa màu
Đất
than bùn
Nhiều
ở rừng U Minh, giàu lớp hữu cơ. Hiện nay, nhiều rừng
tràm bị đốt cháy nên lớp hữu cơ cũng bị mất đi và
do đó diện tích đất hữu cơ càng hẹp dần .
Đất
xám
Đất
xám trên phù sa cổ (địa hình cao) thường gặp tại các
vùng ranh với biên giới Campuchia như Mộc Hoá, Hồng Ngự,
Đức Huệ ..Trong đất loại này, có lớp laterit dưới
sâu. Tuổi tuyệt đối dùng phương pháp C14 quãng 40 000
năm
5
Nước như một yéu tố môi sinh
Tục
ngữ ta có câu: 'Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống'
đủ thấy ngay tầm quan trọng của yếu tố nước .
Nói
đến ĐBCL là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch
ngổn ngang, bàu, ao , sông sâu sóng cả. Tuy nhiều nước
như vậy nhưng không phải muốn sử dụng là được : tại
vùng Đồng Tháp Mười thì nước phèn, tại vùng duyên
hải lại gặp nước mặn, nhất là vào mùa khô. Đó là
chưa kể nước sinh hoạt sạch thì vẫn thiếu. Nước lũ
sông Cửu Long 40 ngàn m3/ giây, gấp đôi lũ sông Hồng
nhưng nhờ có Biển Hồ nên chỉ dâng lên từ từ để
làm ngập trên cả triệu mẫu đất trong vùng Châu thổ.
Lưu lượng con sông ấy mùa nước kiệt chỉ có 2000
m3/giây từ tháng 3 đến tháng 5 trong khi nhu cầu nước
cho sinh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới
5 ngàn m3 /giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào
giữa thế kỷ 21. Vào mùa mưa, nhờ lưu lượng nước khá
lớn nên có thể đẩy lùi nước mặn từ dòng sông chính
và kênh lớn ra biển còn vào mùa khô nước triều biển
Đông xâm nhập sâu vào nội địa nên nhiều khu vực bị
nhiễm mặn, không trồng lúa được
Sông
Tiền và sông Hậu vừa chuyển vận một dòng nước khổng
lồ mang theo hàng trăm triệu tấn phù sa mỗi năm nên động
lực dòng nước lủ đã đào xới đáy lòng sông và xói
mòn bờ sông để bồi đắp chỗ khác nên tạo ra một
mạng lưới sông với cù lao hoặc cồn 'lơ thơ cồn nhỏ
gió đìu hiu', có nơi uốn khúc, nhiều nơi bãi bồi, nhiều
chỗ sụt lở đất bờ sông (Tân Châu)
Nhiều
ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn
bán :
-Chèo
ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống
bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma
-Ghe
anh đỏ mũi xanh lường,
Ở
trên Gia Định xuống vườn thăm em
-Cái
Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có
thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để
em lên xuống thăm dò ý anh
-Anh
đi ghe gạo Gò Công
Vô
vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm
-Bước
xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước
lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh
biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao
tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em
Kinh
rạch, sông ngòi là nơi gặp đủ loại ghe buôn bán,
chuyên chở hàng hoá và những câu hò chèo thuyền (hò
Đồng Tháp, hò Bén Tre, hò Sa dec..) đối đáp của trai
gái là cả một kho tàng văn học dân gian. Điệu hò mộc
mạc, khoan thai từ những ghe thuyền lờ lững trên kinh
rạch và phản ánh tình yêu đương trai gái, rất trữ
tình :
Chim
buồn tình, chim bay về núi
Cá
buồn tình, cá lủi xuống sông
Anh
buồn tình, anh dạo chốn non Bồng,
Dạo
miền sơn cước, xuống tới chốn ruộng đồng mới gặp
được người thương
Tình
yêu trắc trở, người con gái phải bỏ người yêu để
đi lấy chồng như trong thơ của T.T.K.H:
Nếu
biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời
ơi người ấy có buồn không
Nhưng
chàng trai cũng không oán người yêu:
Ra
đi anh có dặn rằng
Đâu
hơn bậu lấy, đâu bằng đợi anh
Dọc
kinh rạch, người nông dân không có phương tiên bác cầu
sắt nên chỉ làm tạm cầu tre:
Ví
dầu cầu ván đóng đinh
Cầu
tre lắc léo, gập ghềnh khó đi
Khó
đi, mẹ dắt con đi
Con
đi trường học, mẹ đi trường đời
Và
gặp sông lớn, đò đông người thì hãy nhớ những lời
khuyên của người mẹ:
Ra
đi mẹ có dặn dò
Sông
sâu đừng lội, đò đầy đừng đi
Hò
trên bộ (có chỗ còn gọi là lý) như hò cấy lúa, gặt
lúa đêm trăng. Hò dưới sông thì có hò chèo ghe, đem
theo chút thi vị trên sông nước bồng bềnh :
Nước
chảy lơ đờ, đôi bờ xuôi ngược
Đường
đi non nước rộng rãi, thênh thang
Ta
vui đi khắp xóm làng
Mặc
cho chớp biển, mưa ngàn vẫn vui
hoặc:
Đèn
treo ngọn ái, nước xoáy gò ân
Phải
lương duyên thì xích lại cho gần
Kẻo
mai kia vắng mặt, hai đứa thầm nhớ thương
Gặp
anh vô cớ, em chẳng dám nhìn
Sợ
chị lớn ở nhà, chị sanh tâm biến tính, hốt lửa lôi
đình
Chỉ
rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay
hại em
Chất
lượng của nước
Trong
ĐBCL, có 4 loại nước khác nhau: nưóc ngọt, nước phèn,
nước lợ, nước mặn
Nước
ngọt (không
phải là nước xá xị đâu !) có những đặc tính như
nưóc mưa, uống được, dùng trong sinh hoạt
Nước
phèn
là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn
nên không uống được
Nước
lợ (nước chẻ hai)
là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn, gặp ở
các vùng trung gian giữa ngọt và mặn
Nước
mặn
là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri
(ClNa)
Vào
mùa nắng, lưu lượng dòng sông thấp nên nước mặn từ
các cửa biển vào sâu trong nội địa hơn mùa mưa
Thủy
triều
Cũng
như nhiều nơi trên thế giới, miền biển châu thổ Cửu
long có 2 thủy triều lên và 2 thủy triều xuống trong 24
giờ ( chế độ bán nhật triều), còn miền biển Bắc bộ
chỉ có một lần thủy triều lên và một lần thủy
triều xuống (chế độ nhật triều).Đó là vì có nhiều
yếu tố khác như dạng bờ biển, chiều sâu đại dương
..
Nước
lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một
chu kỳ biến động của mực nước-từ lúc nước biển
rút xuống đến mức tối đa đến lúc nước biển lên
cao đến mức tối đa- kéo dài 15 ngày và được gọi là
một con nước .Như vậy, mỗi tháng có 2 con nước.
Tuy
miền châu thổ Cửu long có chế độ bán nhật triều
(biển Đông) nhưng biên độ triều của hai lần không
đều nhau : ta có nước lớn cao, nước lớn thấp, nước
ròng cao, nước ròng thấp; như vậy, ở đây mỗi ngày 24
giờ có một lần nước lớn cao, một lần nước lớn
thấp, một lần nước ròng cao, một lần nước ròng thấp
.Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn,
tối mất, người ta ca rằng:
Bìm
bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn
bán không lời, chèo chống mỏi mê
Trước
khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước
đứng :
Nước
không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá
không giò sao gọi con cá leo ?
Mực
nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng,
từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước
triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm
nhiễm mặn nước sông và đất đai .Tại vùng châu thổ
Cửu long, ảnh hưởng của thủy triều có thể lên đến
Nam Vang, còn nước mặn ảnh. hưởng nhiều vùng duyên hải
như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Soc Trăng, Cà. Mau
Hệ
thống sông ngòi miền Nam với các cửa sông Cửu Long:
Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Định An, Cung
Hầu, Ba Sắc, Tranh Đề (riêng Bến Tre đã có 4 cửa là
Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên). Nhưng trong tương lai,
sông Cửu Long sẽ chỉ ra biển bằng 8 cửa vì sẽ đắp
đập ngăn sông Ba Lai biến sông này thành hồ chứa nước
ngọt
6
Khí hậu, một yếu tố môi sinh
Khí
hậu là gió, mưa, giông bão, nó tác động lên nhiều yếu
tố môi sinh khác như đất đai, hoa màu, nước, sông ngòi,
xói mòn, sập lở. Trong văn học dân gian, có vô vàn những
câu tục ngữ, ca dao đúc kết các kinh nghiệm của nông
dân vì nông dân phụ thuộc nhiều nhất vào khí hậu
trong công việc đồng áng:
Trông
trời trông đãt trông mây
Cũng
có nhiều vè nắng hạn như:
Kẻ
thời cầm ruộng bán trâu
Không
mưa thấy nắng nghĩ lâu thêm sầu
Nắng
sao ông nắng li bì
Ngày
thời dàng dặc còn gì ruộng nương
Thấy
trâu kêu thảm kêu thưong
Nắng
sao hết nước, còn xương với sừng
Nắng
qúa, không mưa nên chất mặn mao dẫn lên lớp đất mặt
không thể cấy lúa được, nhất là tại các ruộng cao:
Ruộng
sâu cấy đặng, ruộng đèo khô rang
Cũng
có thể gặp nhiều trận bão từ biển Đông nên dễ xảy
đói kém. th ổi tới, làm ghe thuyền đánh cá chìm ngoài
duyên hải, cây cối trong vườn bị cuốn trôi
7
Thảo mộc như một yếu tố môi sinh
Đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long trưóc kia toàn là rừng với
đầm lầy; vì chỉ mới lồi ra khỏi biển chừng 6000 năm
về trước, nên với sự trầm tích của các phù sa, lúc
đó châu thổ mới có nhiều rừng ngập mặn hoặc rừng
đầm lầy (swamp forest). Phải kể cây tràm (Melaleuca) vùng
U Minh. Vào mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến
mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Cây tràm nhỏ và
thấp hơn cây đước và thân cây thường vặn vẹo không
thẳng đứng như cây đước.. Những cây thân tương đối
thẳng thì dùng làm cột nhà, còn trong xây cất nhà cửa,
cây tràm dùng làm cọc chống lún rất bền chắc .Gỗ
tràm dùng làm cột nhà mà không bị mọt mối phá hư. Hoa
tràm có vị thơm và nhụy hoa ngọt nên loài ong thường
đến hút nhụy làm mật. Rừng tràm là nơi ẩn náu nhiều
loài chim, cá đồng chưa kể các động vật như trăn,
rùa, khỉ, heo rừng. Rừng ngập mặn ven biển thì có cây
đước (Rhizophora) phát triển rất nhanh tại các bãi bồi
còn sình lầy. Cây đước làm cột nhà, cắm trụ đáy
trên các sông và ngoài biển khơi. Gỗ đước còn dùng
làm mái chèo. Ngọn, nhánh đước dùng làm củi và thân
cây đước dùng để hầm than : có hàng trăm lò than đước
ở huyện Năm Căn ( Cà Mau). Vỏ đước dùng để nhuộm
chài lưới và là nguyên liệu chế tanin phục vụ cho
ngành thuộc da. Cây bần (Sonneratia
acida),
mọc theo bờ kinh rạch. Mọc gần bùn thì có cây choại
(Stenochlaena
palustris),
mọc gần nước thì có cây dừa nước (Nipa
fruticans),
cây móp (Alstonia).
Những vùng đất bồi ngập mặn có lác (Cyperus
malacensis)
dùng để dệt chiếu:
Đồng
Bến Tre nhiều bưng nhiều lác
Đường
về Ba Vát, nặng chĩu sầu riêng
Anh
ra đi ba bốn năm liền
Sao
không ở lại kết bạn hiền với em
Cỏ
bàng (Leipironia
articulata)
dùng làm đệm. Cỏ bàng có nhiều vùng đất phèn, miệt
Thủ Thừa lên tới Mộc Hoá . Những dân nghèo đến đó
cắt đem về bán cho các vựa ở Chợ Đệm và Chợ Đệm
có tên như vậy vì đó là nơi sản xuất đệm dùng để
phơi lúa, làm buồm chạy ghe.
Trên
kinh rạch, đủ loại bèo: bèo tai chuột (Salvinia),
bèo lục bình (Eichornia),
bèo cám (Pistia)
8
Sinh vật như một yếu tố môi sinh
Nói
đến đồng bằng Cửu Long thì phải nghĩ ngay đến cá :
'ăn cơm không cá như má không con'vì miền này có đủ
loài cá:
nhóm
cá đen
như cá lóc, cá rô, cá trê, cá trạch là những loài thích
sống trong đồng ruộng hoặc ao đầm ; nhóm cá này xuất
hiện nhiều sau những trận mưa trên ruộng đồng nhưng
khi nước cạn dần trên ruộng, chúng lại rút xuống các
ao đầm chứ không phải xuống sông rạch như nhóm cá
trắng. Những nơi nổi tiếng cá đen (cá đồng) có thể
kể ra như Cái Nước, Đầm Dơi, U Minh
nhóm
cá trắng
thích sống ngoài sông rạch như cá mè, cá bống, cá linh,
cá he, cá chẽm. Nhóm này lúc nước ruộng bắt đầu rút
khi mùa mưa chấm dứt thì theo dòng nước lũ ào ra sông
rạch; đó là lúc đua nhau chài lưới và đặc biệt là
bắt cá linh. Cá linh tươi từ miệt Châu Đốc, Tân Châu
theo các ghe để bán khắp các chợ còn số cá ngộp, yếu
sức thì đem cân ký cho các lò làm mắm. Cá linh rẻ
nhất trong nhóm cá trắng và làm được nhiều món: cá
linh nấu mắm ăn với rau bông súng, cá linh chiên ăn với
rau sống và nước mắm, chanh tỏi ớt, cá linh nấu chua
với bông so đủa..
Xưa
kia cá đồng rất nhiều nhưng ngày nay, với dân số đông,
với thuốc sát trùng, môi sinh bị hủy hoại nên cá đồng
hiếm dần. Do đó phải nuôi cá bè: cá được nuôi ăn
bằng thực phẩm, thay vì phải đi tìm mồi. Một trong
những loài cá được ưa chuộng trong việc nuôi cá bè là
loài cá chình (Anguilla anguilla) vì cá này xuất cảng dễ
dàng, nhất là sang Nhật.
Ngoài
cá, có tôm sú, cua, nghêu cũng là những thủy sản của
vùng châu thổ Cửu long:
Muốn
ăn bông súng, mám kho
Thì
vô Đồng Tháp ăn no đã thèm
Đồng
Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước
Tháp Mười lấp lánh cá tôm
Gió
đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về
sông ăn cá, về đồng ăn cua
Trong
châu thổ Cửu Long, cũng có vô số rắn, chuột như các
bài vè sau đây đã mô tả:
Vè
rắn U Minh kể ra rắn lục, rắn ngựa, rắn hổ, rắn
roi, rắn nước..:
U
Minh nước đỏ,
Choại,
dớn, cóc kèn
Ăn
ở cho hiền
Dạo
chơi với rắn
Bất
kỳ sâu cạn,
Rắn
nước, rắn râu
Bay
trêntrời cao,
Rắn
rồng uốn khúc
Chạy
ngang chạy dọc,
Rắn
ngựa phóng theo
Hút
gió thật kêu
Là
con rắn lục
v.v..
Vè
chim chóc thì kể rất nhiều loài chim như chim mỏ nhát,
sa sả, chèo bẻo, cà cưỡng, sáo, qụa, manh manh, bìm bịp
Các
động vật (cá, tôm, lươn, nghêu, mực..) cùng các thực
phẩm từ cây rau cải, cây quanh vườn đã tạo ra một
văn hoá thức ăn khác với miền Bắc hay miền Trung. Thực
vậy, bắp chuối, thân chuối, rau đắng, giá sống, khổ
qua, trái thơm, cải bẹ xanh, cùng với nhiều loại rau
quế, dấp cá, kinh giới, ngò gai, bông súng, ngó sen, đọt
xoài, đọt điều, hẹ, cùng với nhiều loại mắm được
chế biến từ mắm đồng (mắm sặc, mắm linh, mắm lóc)
đã tạo cho món ăn miền sông Tiền, sông Hậu những nét
cá biệt:
Hà
tươi cửa bể Tourane
Long
Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
(Tản
Đà)
9
Các tiểu vùng sinh thái
Các
yếu tố đơn độc như nước, như núi, như mây trời đều
tác động lẫn nhau chứ không đứng riêng rẽ, để tạo
ra nhiều tiểu vùng sinh thái. Có những núi cao, có những
đồi thấp, có những động cát duyên hải, có những
đồng bằng. Núi cao như vùng Bảy Núi nam Châu Đốc có
những phong cảnh thực vật khác các vùng đầm lầy, úng
nước. Địa hình ảnh hưởng đến đất đai; từ địa
hình, ta có một loạt tiền đề về nước lưu chuyển,
sự mùn hoá, sự xói mòn, các loại thảo mộc.
Thảo
mộc thiên nhiên khác xa, tùy theo điều kiện môi trường;
thực vậy, cây cối phụ thuộc nhiều vào đất và nước.
Tại
miền châu thổ, đồng bằng mới nhìn qua thì bằng phẳng
nhưng về ẩm độ trong đất, có vùng nước ngập nông
cạn, có vùng đất ngập sâu. Ruộng cao thì dễ thoát
nước hơn, nước trong ruộng ít hơn, khó tát nước hơn;
ruộng sâu úng thủy, đất nặng hơn nên kỹ thuật canh
tác cũng khác:
Ra
đi mẹ có dặn dò
Ruộng
sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau
Không
phải chỉ là nước ngập nhiều, nước ngập ít mà lại
còn nước phèn, nước mặn, nước lợ nên có những tổ
hợp như những vùng đất phèn ngập cạn, những vùng đất
phèn ngập sâu, những vùng đất phù sa ngọt ngập cạn,
phù sa ngập sâu. Ta có thể phân biệt 12 tiểu vùng sinh
thái sau :
1
.Vùng đất phèn-đất mặn dưới rừng sát
cửa sông Saigon, Đồng Nai: vùng này có đất vừa phèn vì
có bùn non chứa pyrit, vừa mặn vì nước mặn xâm nhập
do thủy triều lên xuống
2.Vùng
đất mặn-phèn cửa sông Cửu Long:
đây là vùng đất vừa bị mặn, vì gần cửa biển, vừa
bị phèn tiềm tàng trong đất
3.
Vùng đất mặn Sóc Trăng, Bạc Liêu
chỉ làm lúa mùa mưa, còn mùa nắng phải bỏ hoang vì
không đủ nước ngọt
4.
Vùng đất mặn-phèn
dưới rừng sát Năm Căn, Cà Mau
5.
Vùng đất than bùn phèn tiềm tàng
dưới rừng U Minh: đất nhiều chất hữu cơ do cây tràm
bị hủy hoại lâu này tích tụ ở trên đất
6.
Vùng đất trũng phèn
Tây sông Hậu, ở miệt Kiên Giang Rạch Giá, Hà Tiên
7.
Vùng đất phèn ngập nông (cạn) tứ giác Long Xuyên.
8.
Vùng dất trũng phèn ngập sâu Đồng Tháp Mười:
vùng này dễ bị ngập lụt hơn các vùng khác
9.
Vùng đất xám Thất Sơn
An Giang: vùng này ở các gò đồi chân núi
10.
Vùng đất ngọt ngập sâu An Giang, Đồng Tháp
(Sadec, Cao Lãnh): vùng này chính là vùng lúa nổi vì nước
ngập sâu, có mực nước cao hơn 1 m, có nơi 3-5mét., nhưng
nước lên từ từ. Hết mùa mưa, khi nước rút dần, có
thể làm một vụ hoa màu khác như bắp, đậu nành, lúa
miến vì đây là đất ngọt, không phèn, không mặn
Men
sông Hậu, nhất là Tân Châu, hiện tượng sụt lở ven bờ
sông thường xảy ra, nhất là những năm gần đây vì chế
độ thủy văn mất thăng bằng do đào nhiều kinh thoát lủ
nhưng cũng đồng thời thay đổi hướng chảy ngay trong
các sông chính, thay đổi luôn động lực của dòng sông.
Sông
Tiền và sông Hậu đón nhận lượng nước của cả toàn
lưu vực sông Cửu Long gần 500 tỉ khối/ năm, trong đó
mùa lũ chiếm tới 400 tỉ khối . Dòng nước đó chuyên
chở 250 triệu tấn phù sa và ở những chổ nền địa
chất của vỏ lòng sông mềm yếu thì lượng trầm tích
vĩ đại kia có cơ hội đào xới, dòng chảy xoáy mạnh,
tạo ra những vực sâu và sụt lở bờ sông, bên bồi bên
lở, phân dòng, rẽ nhánh
11.
Vùng đất phù sa ngọt ngập sâu Cần Thơ-Sóc Trăng:
nước trong ruộng từ 30 đến 100cm. Xưa kia, đây là vùng
lúa cấy 2 lần vì đất ngập sâu nên sau khi cấy lần
đầu, lại phải nhổ mạ cấy lần thứ hai để cây lúa
chống được nưóc sâu. Ngày nay nhờ du nhập nhiều giống
lúa khá cao chịu đựng được cấy một lần dù mực
nước 50-60cm, nên càng ngày càng hiếm thấy lúa cấy 2
lần
12.
Vùng đất phù sa ngọt ngập nông Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến
Tre:
vùng này không có vấn đề nên hiện nay, nông dân sử
dụng đất vào các lại cây cho lợi tức cao hơn lúa như
cây ăn trái, rau cải
Trong
mười hai tiểu vùng sinh thái thì có bốn tiểu vùng hoàn
toàn có tính cách hướng lâm, không nên khai thác trong
nông nghiệp như vùng 1, 2, 4 và 5. Các vùng khác thì phải
hoặc sống với lũ, hoặc chống lũ . Sống với lũ có
nghĩa là thích nghi với lũ như chỉ trồng trọt khi nước
lũ xuống, trồng giống lúa vượt lũ. Còn chống lũ thì
phải đắp đê bao, xây bọng để thoát nước v.v
11
Các vấn nạn môi sinh
Overpopulation
Năm
1979, toàn ĐBCL có 11 914 000 người và chỉ 14 năm sau
(1993), đã tăng lên đến 15 531 600 người, nghiã là tăng
thêm 2.2% mỗi năm.
Theo
đà đô thị hoá và tăng gia dân số, nhịp độ chuyển
từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng (đất nhà ở,
đất trường học ..) ngày một nhanh do đó, tỷ lệ đất
nông nghiệp cũng sẽ giảm nhanh, kéo theo sự sút giảm
diện tích canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp. Diện
tích canh tác nhỏ dần kéo theo tình trạng khiếm dụng
nhân công (underemployment) đang xảy ra ở thôn quê: phần
lớn hiện nay chỉ làm việc dưới 200 ngày trong một năm
và kéo theo tình trạng thất nghiệp vì không có việc
làm.
Chính
vì tăng gia dân số qúa nhanh nên vấn đề an toàn lương
thực, vấn đề xuất cảng gạo để có ngoại tệ được
đặt ra; do đó phải làm nhiều công tác thủy lợi như
đào kinh, đắp đê ven biển. Đào kinh rẻ một dòng nước
vĩ đại làm thay đổi chế độ thủy văn, thủy chế của
dòng sông, chưa kể các chương trình xây đập nước trên
thượng lưu nên cân bằng nước trong lưu vực bị đảo
lộn, sinh thái thay đổi đột ngột: sụt lở, nước mặn
vào sâu trong đất liền
Chính
vì tăng gia dân số qúa nhanh, số người tràn vào đô thị
ngày càng tăng:Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
nên đô thị gặp thêm một số vấn đề ô nhiễm khác:
ô nhiễm tiếng động, ô nhiễm bụi bặm, những khu kỹ
nghệ nằm xen vào khu dân cư, nhiều khu ao hồ bị lấp đi
để mở rộng đất xây dựng, gây thêm nạn ngập úng.
Saigon, hiện nay, chỉ sau một cơn mưa thì đường sá như
một dòng suối! Nhiều nguồn thải các nhà máy (nhà máy
đường, nhà máy dệt, biến chế thực phẩm..) đưọc
thải ra sông rạch mà không xử lý, do đó môi trường
nước bị ô nhiễm với hàm lượng các chất ô nhiễm
hữu cơ cao hơn nhiều lần mức chấp nhận được.
Overfishing
Nhiều
vùng có mật độ đáy phân bố trên sông rất dày. An
Giang, Đồng Tháp có những đáy dài đến 100-150 mét và
các đáy có mắt lưới rất nhỏ nên nhiều cá con kể cả
con ruốc cũng bị chết nên không thể làm giống để
nuôi được do đó nhiều người gọi đáy là ngư cụ
'lọc nước lấy cá'; đối với đáy cá tra bột ở các
tỉnh An Giang, Đồng Tháp khi vớt cá tra bột cũng đồng
thời vớt các loại cá cám, cá chỉ, số lượng các loài
cá này lại gấp 3 lần số lượng của cá tra bột mà
sau đó ngư dân loại bỏ đi, làm hao hụt nguồn giống
các loài cá này .Đối với cào cũng vậy: mắt lưới
nhỏ và cào sát đáy nên cũng lạm sát cá-tôm đồng thời
gây cản trở lưu thông trên sông. Lại thêm cào điện
làm mọi loài cá đều bị chết. Nhìn chung thì sản
lượng khai thác cá tôm ở ĐBCL có tăng gia nhưng so với
sự gia tăng của số lượng ngư cụ và biện pháp cải
tiến kỹ thuật thì sự gia tăng này không cân đối;
chứng tỏ việc khai thác bừa bãi làm ảnh hưởng đến
nguồn lợi cá tôm ở ĐBCL. Nhiều loài cá có giá trị
trên sông trở nên hiếm như cá hô, cá tra dầu, cá bống
tượng. Tránh overfishing: quy định khoảng cách các nền
đáy; nghiêm cấm cào điện; mỗi địa phương phải phân
lô khai thác: chỉ khai thác ở một số trọng điểm còn
những chổ khác phải cấm đánh bắt để bảo vệ cá-tôm
sinh sản, quy định cở mắt lưới cho các ngư cụ lạm
sát cá tôm như đáy và cào
Overpumping
Sự
an toàn lương thực đòi hỏi tài nguyên nhiều hơn, trong
khi nguồn nước là một vấn đề nan giải vì nước sinh
hoạt, nước trồng tiả, nước dùng trong kỷ nghệ, nhà
máy có giới hạn của nó. Bơm nước nhiều làm nước
mặn xâm nhập sâu hơn vào đất nội địa, chưa kể dến
cản trở lưu thông trên sông ngòi vì lượng nước thấp
tàu bè trọng tải lớn không chạy được.
Overhunting
Tại
miền châu thổ, có nhiều bãi chim sống tại các rừng
tràm; ven duyên hải nhiều loại cò : cò quắm, cò xám,
cò nâu, cò vàng, cò trắng mỏ đen, cò trắng mỏ vàng,
cò trắng đầu đỏ và nhiều chim các loài như cưỡng,
sáo. Có thể sử dụng các bãi chim làm du lịch sinh thái,
thay vì giết hàng loạt hoặc đốn rừng khiến chim muông
không nơi trú ẩn.
Overcutting
Những
sự so sánh bằng không ảnh, vệ tinh cho thấy diện tích
rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông bị suy giảm
nghiêm trọng: phá rừng nuôi tôm trong khi đó rừng này là
nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn
đa dạng sinh học. Rừng rú chứa nhiều thực vật hoang
dã vốn là cả một kho gen vĩ đại ; trong nông nghiệp
cũng có nhiều giống lúa, có giống chịu hạn, có giống
chịu mặn, có giống chịu ngập. Đa dạng các giống lúa
giúp bớt đi các bất trắc rủi ro trong trồng trọt. Các
thực vật chứa nhiều gen có thể dùng để tháp gen vào
các chương trình di truyền thực vật như có giống lúa
có gen kháng rầy nâu, kháng cháy lá có thể sử dụng để
lai giống, để bớt đi lượng thuốc sát trùng, vì thuốc
sát trùng cũng vào đất, vào nước
Phá
rừng nên chim không còn nơi trú ẩn, vắng hẳn tiếng hát
líu lo của chim; nhiều loài thực vật biến hẳn do phá
rừng và nhiều loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Các
rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy
hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi.
Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi
ích kinh tế xã hội vì khi cán cân sinh thái đã nghiêng
rồi thì cũng khó lập lại cân bằng.
Và
sự cọng lại của các cái O như trên ( Overcutting+
Overfishing+ Overhunting+ Overpopulation..) tạo ra một hậu qủa
là sự giảm đa dạng sinh học
12.
Kết luận
ĐBCL,
cách đây 300 năm, là nơi 'muỗi kêu như sáo thổi, đĩa
lội như bánh canh' ngày nay đã là một vùng giàu có nhất
nước : lúa, cây ăn trái, kỹ nghệ, đó là nhờ nhiều
công trình thủy lợi, ngay từ đời nhà Nguyễn, qua Pháp
thuộc mãi cho đến ngày nay :kênh mương, công trình ngăn
mặn, rửa phèn . Tuy nhiên càng ngày càng có những dấu
hiệu hạn chế do nhiều lý do:
a/
sự bùng nổ dân số, sự đô thị hoá làm quỹ đất
canh tác càng ngày càng giảm dần
b/
các công trình thủy lợi trên thượng lưu sông Mekong làm
giảm lưu lượng trên sông, khiến nước mặn xâm nhập
sâu hơn vào nội địa nên không thể làm lúa vào mùa
nắng ở các vùng nhiễm mặn. Thực ra, lúa là một cây
lương thực có nhiều nhu cầu nước, vả lại không đem
nhiều lợi tức vì chi phí sản xuất qúa cao (Phân bón,
thuốc sát trùng, nhân công) so với giá bán ra, do đó nên
giảm bớt diện tích trồng lúa để trồng các loại cây
ít nhu cầu nước mà tiêu thụ dễ, thu nhập nhiều như
cây ăn trái. Thực vậy, nhà nông làm quần quật suốt
ngày mà thu nhập chẳng bao nhiêu. Nghề làm nông rất vất
vả vì phụ thuộc nhiều yếu tố môi sinh (mưa, nắng,
đất, nước..), kinh tế (thị trường tiêu thụ trong
nước, ngoài nước, nhân công). Hãy nghe vài câu ca dao:
Rạng
ngày vác cuốc ra đồng
Tay
cầm mồi lửa, tay dòng thừng trâu
Ruộng
đầm nước cả bùn sâu
Suốt
ngày cùng với con trâu cày bừa
Việc
làm chẳng quản nắng mưa
Cơm
ăn đắp đổi muối dưa tháng ngày
Ai
ơi bưng bát cơm đầy
Bết
công kẻ cấy người cày mấy nao!
Hoặc:
Thân
anh khó nhọc trăm phần
Sáng
đi ruộng lúa, tối nằm ruộng dưa
Vội
đi quên cả cơm trưa
Vội
về quên cả trời mưa ướt đầu
c/
sự phá rừng bừa bãi trên các giải duyên hải để nuôi
tôm bán thâm canh, sau những năm đầu hồ hởi nhưng ngày
nay, hàng loạt tôm chết trong khi đó các đìa nuôi tôm
thành hoang phế mà rừng duyên hải là nơi tôm cá sinh sản
và giúp chống sự xói mòn các sóng biển
d/
vì quỹ dất canh tác càng ngày càng hẹp dần do dân số
tăng nhanh nên cần có những giải pháp lâu dài và
đồng bộ như tạo ra những nguồn thu khác nhau trong nông
nghiệp (cây ăn trái, rau đậu, hải sản) lẫn ngoài nông
nghiệp như các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, thương
mãi, chuyên chở ..Cần đẩy mặn sự chế tạo các sản
phẩm xuất cảng được ngay ở vùng nông thôn để sử
dụng nhân công dư thừa, song song với việc phát triển
cơ sở hạ tằng ở nông thôn (điện, nước, đường )
chứ không nên tập trung quá đáng vào các vùng đô thị
và cận đô thị .
Thực
vậy, mọi người đều đồng ý có sự liên quan giữa
dân số với tài nguyên thiên nhiên. Phân tích những động
lực và cản trở phát triển, đi tìm những khả năng và
hạn chế trong xu thế phát triển là tìm kiếm một chính
sách phát triển lâu bền.Trong sự phát triển bền lâu,
phải có sự cân đối giữa 3 khía cạnh sau đây:
Phát
triển kinh tế (nông nghiệp, công nghệ), tiến bộ xã hội
(y tế, giáo dục, nâng cao dân trí, sinh đẻ có kế hoạch
..) và bảo vệ môi sinh; đó là 'cái kiềng ba chân' của
sự phát triển bền vững (PTBV); đó là khai thác đúng
mức tài nguyên, không lạm thác, không cạn kiệt để cho
các thế hệ sau cũng còn hưởng lợi nữa. Tóm lại, sự
cần thiết có một sự hài hoà giữa con người và thiên
nhiên, hài hoà giữa thiên nhiên và phát triển kinh tế,
một sự hài hoà mà chính hệ thống triết học Á Đông
luôn luôn đề cao, nghĩa là cần tránh 5 LESS sau đây:
Ruthless:
hiện nay sự phân hoá giàu nghèo qúa cách biệt nên cần
có phát triển hài hoà, sao cho các thành tựu phát triển
kinh tế cũng phải được phân phối đồng đều, chứ
không có cảnh người qúa giàu, kẻ qúa nghèo
Rootless:
phát triển nhưng phải giữ căn tính, bản sắc văn hoá
dân tộc
Jobless:
phát triển nhưng tạo công ăn việc làm, chứ không phải
phát triển với các dự án không tạo thêm công việc:
cần các dự án sử dụng nhiều nhân công như phát triển
hạ tằng cơ sở: cầu, đường, trường, điện
Futureless:
phát triển nhưng phải lo bảo toàn môi sinh vì chính môi
sinh như đất, nước, rừng phải được sử dụng trong
đường lối phát triển bền vững để cho các thế hệ
sau này còn được hưởng dụng .
Voiceless:
phát triển nhưng trong sự trong sáng, tự do ngôn luận, tự
do tín ngưỡng, khiến người dân nào cũng có thể nói mà
không sợ bị bắt bớ, giam cầm
Thái
Công Tụng