Các nhà tiên phong
người Portugal và ngôn ngữ học Việt Nam
Roland Jacques, Canada
GS Đoàn Xuân Kiên (Luân Đôn, Anh) chuyển qua việt ngữ
Tài liệu Tập San ĐỊNH HƯỚNG
Các bài liên quan:
Bài: Công cuộc truyền giáo tại Quảng Nam năm 1623 và vấn
đề ngôn ngữ
Bài: Huynh Rafael da Madre de Deus (1571-1606): Nhà truyền giáo dòng Augustinô ở Quảng Nam vào khoảng năm 1595-1605
Bài: Một tài liệu ngôn ngữ học đối chiếu Nhật – Hoa – Việt
Bài: Chứng tích hình thành và phát triển chũ quốc ngữ từ năm 1632 đến nay: tiến trình của Kinh Lạy Cha
Bài: Huynh Rafael da Madre de Deus (1571-1606): Nhà truyền giáo dòng Augustinô ở Quảng Nam vào khoảng năm 1595-1605
Bài: Một tài liệu ngôn ngữ học đối chiếu Nhật – Hoa – Việt
Bài: Chứng tích hình thành và phát triển chũ quốc ngữ từ năm 1632 đến nay: tiến trình của Kinh Lạy Cha
Quyển sách có tựa đề là Các nhà tiên phong người Portugal và ngôn ngữ học Việt Nam. Khi chọn tựa đề như thế, hẳn nhiên là tôi
mong muốn giải bày một vấn đề mà tôi rất xác tín. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về những thăng trầm của mối quan hệ giữa Pháp Quốc và Việt Nam. Những công
trình này không chỉ bao gồm giai đoạn từ thế kỉ XIX đến 1954, mà còn cả những
sự kiện xảy ra từ thế kỉ XVII, và cả những hứa hẹn hữu nghị trong tương lai.
Gần đây một chương trình vinh danh sự
nghiệp Alexandre de Rhodes về những đóng góp của ngài mà hôm nay đây chúng ta
đều thừa hưởng: việc sáng chế hệ thống chữ viết tiếng Việt theo lối mẫu tự ghi
âm dựa theo cấu trúc ngữ âm và ngữ pháp tiếng Việt, nhờ đó đã giúp phát triển
tối đa tiềm năng của ngôn ngữ này. Tôi có một suy nghĩ rằng: cho dù chúng ta có
vinh danh ngài, thì chúng ta cũng không thể bỏ qua những gì các vị giáo sĩ châu
Âu đã đóng góp vào sự nghiệp chung. Tôi tin rằng hai nước Việt Nam và Portugal (Bồ Đào Nha) – quốc gia mà
tôi đã dành riêng ra để nghiên cứu trong công trình này – cần được hiểu nhau
nhiều hơn. Mối quan hệ hữu nghị giữa hai bên có thể và cần được phát huy. Để có
thể tạo một cơ sở xác đáng cho sự phát triển như thế chúng ta cần đào sâu tìm
hiểu kho văn khố lịch sử. Tài liệu này ở Portugal có rất nhiều. Một số những
tư liệu này sẽ giúp thêm ánh sáng về những bước đầu của Chữ Quốc Ngữ. Đấy chính
là lí do thúc đẩy tôi biên soạn quyển sách này.
Cuộc gặp gỡ lịch sử
Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Việt Nam và Portugal diễn ra từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XVIII – chủ yếu là thế kỉ XVII. Tuy vậy, theo quan điểm địa lí-chính trị
thì cuộc gặp gỡ này không tiến triển nhiều lắm. Cơ quan Estado da India của Portugal
quản lí các lợi ích của nhà nước Portugal tại các thành trì và các
thương vụ dọc bờ biển Ấn Độ Dương, và ra quá đảo Spice. Nhưng hoạt động trong
vùng ven biển Trung Hoa và Nhật Bản thì rất giới hạn. Hoạt động giao dịch chỉ
vươn xa đến khu vực biển Nhật Bản và Trung Hoa. Trong những năm 1616-1617, Phó
Vương Portugal đặc trách Ấn Độ đã lên một dự án kế hoạch thiết lập trú sở định
cư của Portugal ở gần địa vực Đà Nẵng, song song với các thuộc địa Trung Hoa và
Nhật Bản. Chúa Nguyễn cũng đã tán trợ kế hoạch, và Quốc Vương Portugal cũng
khuyến khích việc tiến hành kế hoạch. Nhưng vì trở ngại tài chính mà dự án này
không thể thực hiện được. Qua sự thất bại này, tôi có đủ lí do tại sao lại có
nhiều văn kiện lịch sử ghi dấu các giao thiệp giữa hai quốc gia. Chẳng may là
kho tài liệu quý giá của Portugal
của João de Barros và Diogodo Couto, mang tên Décadas da Ásiabị đứt đoạn ngay từ đầu thế kỉ XVII.
Việc quan phương có thất bại nhưng mọi việc
vẫn cứ tiến hành thông qua những con người thành tâm và đầy tài năng. Họ có đủ
nhiệt tâm và kiến thức, đủ để tạo dựng những công trình đứng vững được qua
nhiều thế kỉ. Nói thế có vẻ mông lung, nhưng hãy cứ nhìn hệ thống Chữ Quốc Ngữ,
hệ thống chữ viết chính thức của Việt Nam, là một thành tựu lớn, và không ai
biết được nó sẽ còn dẫn đến những thành tựu gì trong tương lai.
Nguồn gốc Chữ Quốc Ngữ: có phải một mình
Alexandre de Rhodes tạo thành?
Tuy nhiên, vào lúc này đây đã nảy sinh một
số vấn đề. Năm năm trước đây, phát biểu trước một hội nghị quốc tế
về nghiên cứu Phương Đông và Ả Rập tổ chức ở Torre do Tombo (Lisbon), tôi đưa ra câu hỏi: Phải chăng chúng
ta cần viết lại lịch sử việc chế taác hệ thống chữ viết theo mẫu tự Latin
của tiếng Việt? Câu trả lời của tôi đã tạo ra những phản ứng ngược nhau, là hẳn
nhiên là cần.
Hẳn nhiên là người Việt có thể gọi hệ thống
chữ viết hiện tại là “mẫu tự Pháp”. Quả là thế, chính chế độ thuộc địa Pháp đã
buộc nhà nước Việt Nam
phải sử dụng nó. Quyết định này hẳn nhiên là có lợi cho nhà nước thuộc địa Pháp
vì họ không biết chữ khối vuông. Pháp lệnh về việc sử dụng hệ thống Chữ Quốc
Ngữ trong các khoa thi do nhà nước chủ trì là do Toàn quyền Pháp Paul Doumer kí
năm 1898; và các kì thi chính thức dùng chữ quốc ngữ là từ năm 1909. Cuối cùng,
vào năm 1917, nhà vua –dưới sự chỉ đạo của người Pháp – đã bãi bỏ hoàn toàn
việc dạy học bằng chữ nho. Chương trình giáo dục mới được đem ra áp dụng, trong
đó có hai môn học chính là môn Tiếng Việt và môn Tiếng Pháp.
Cùng lúc, việc ghi chép lịch sử về sự can
dự của người Pháp tại Đông Dương đã được viết ra trong bối cảnh của chế độ
thuộc địa. Vì nhiều lí do khá dễ hiểu, Alexandre de Rhodes – một người sinh ra
tại Avignon –
đã được đưa ra như một đại biểu duy nhất và đã nâng lên thành một thứ huyền
thoại. Ông được tôn vinh như là người đã khai sáng dòng đạo Kitô tại Việt Nam, và hơn thế
nữa, sáng chế ra hệ thống chữ quốc ngữ. Làm như thể những sự nghiệp kì khu như
thế chỉ là công của một người. Từ những ngày đầu, khi tôi bắt đầu học hỏi
nghiên cứu về tiếng Việt tại Học Viện Ngôn Ngữ Phương Đông ở Paris, tôi đã nghĩ
rằng phải còn gì hơn ngoài những gì được đọc thấy trước mắt chứ. Tôi đả chú tâm
dò tìm các nguồn tư liệu mà phần lớn đều chưa được xuất bản. Tôi thực sự tin
rằng một công phu nghiên cứu nghiêm túc sẽ có thể đặt lại vấn đề và biết đâu sẽ
lay chuyển quan điểm truyền thống.
Thực tế là hệ thống chữ viết dùng mẫu tự
Latin của người Việt chưa bao giờ mang tên là “mẫu tự Pháp” cả. Nó được gọi tên
là “Chữ Quốc Ngữ”, hẳn nhiên là phải có lí do chính đáng của nó.
Khi xem xét vấn đề này, tôi càng đinh ninh
về một thứ bổn phận cần làm – xin quý vị không phiền lòng khi tôi nói như thế.
Thật thế, đi vào lĩnh vực Việt học, tôi cũng thu lượm được vốn liếng hiểu biết
về ngôn ngữ và lịch sử Portugal cùng sự hiện diện của họ tại Châu Á. Tôi mang
ơn những vị đã dìu dắt tôi về văn hoá Bồ. Ngoài ra tôi cũng có số vốn tiếng
Latin tàm tạm để tìm đọc các bản thảo viết từ thế kỉ XVII; tôi cũng hiểu là ít
người có được may mắn nắm trong tay cả ba công cụ quý giá là tiếngViệt,
tiếng Bồ và tiếng Latin. Từ đây mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Chuyến đi sang Lisbon đầu tiên đã giúp
tôi phát hiện được những kho tàng tư liệu đã bị bỏ quên không đụng đến trong
bao nhiêu lâu. Kết quả trực tiếp từ những đợt sưu khảo đó chính là công trình
được ra mắt ít ngày trước đây tại Thái Lan, và nay thì được trình diện công
chúng rộng rãi.
Tôi xin được tóm tắt trong một câu rằng sự
chế tác Chữ Quốc Ngữ – hệ thống chữ viết chính thức của Việt Nam – trên đại thể
chỉ có thể làcông trình của người Portugal, và nó là một phần trong toàn bộ
những công trình giao lưu văn hoá tương tự. Công trình này cần phải được đặt
riêng ra ngoài tiến trình thuộc địa.
Một vài chứng từ bản thảo viết tay
Để cho việc trình bày được cụ thể hơn, tôi
xin nêu ra một vài trang trong số ba tài liệu viết tay mà tôi tìm ra được. Hai
tài liệu đã được in lại trong sách. Đây là tài liệu thứ nhất: một bản sao vào
thế kỉ XVIII của một lá thư viết ở Hội An, gần Đà Nẵng, vào đầu năm 1623. Tác
giả là một giáo sĩ dòng Tên Portugal
tên là Francisco de Pina. Sách của tôi là một vinh danh cho vị tiền bối này,
một người rất xứng đáng với danh vị “người tiên phong của ngôn ngữ học Việt Nam”. Nội dung
chính của lá thư là giải thích kĩ tình hình các công trình về ngôn ngữ học của
ông, và phác thảo các đề án sắp tới. Tôi rất thích lá thư này, vì theo tôi
biết, đây là dịp độc nhất mà ta biết được chung quanh vấn đề “tại sao các vị
thừa sai Châu Âu lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ?” Đã từng có những
giả thuyết nêu lên về mục đích của sự kiện này: những ý đồ và những mưu toan
thầm kín của người nước ngoài khi chế tác hệ thống chữ quốc ngữ. Tôi thì cho
rằng chúng ta nên để các vị tiến bối tự nói về việc của họ, và chúng ta cần
lắng nghe cho kĩ.
Bản thảo này là một phần của bộ sưu tập
Jesuitás na Ásia tại Thư viện quốc gia Palacio da Ajuda tại Lisbon. Bộ sưu tập gồm 60 quyển chứa khoảng
30000 hạng mục. Những bản sao này là công trình tập thể ghi chép tại Macao
trong khoảng thời gian từ 1750 đến 1762; các vị đã chép lại tất cả các
tài liệu thu thập được trong suốt quãng thời gian từ 1541 đến 1747: hai thế kỉ
hoạt động tại Viễn Đông, từ Nhật Bản qua Đông Dương. Vì hầu hết các nguyên bản
đã thất lạc, bộ sưu tập này là nguồn tài liệu chính về sự hiện diện của
Portugal tại Viễn Đông, và còn cung cấp cả kho hiểu biết về con người và đất
nước trong vùng Viễn Đông. Bản thảo thường không được chú ý vì đó chỉ là bản
nháp những lá thư , chẳng có ngày tháng và tên người nhận. Nhưng chịu khó
tìm tòi thì sẽ lần ra manh mối.
Vai trò của Francisco de Pina
Pina sinh năm 1585 tại thành phố Guarda,
thuộc vùng Beira Alta của Portugal.
Mới ngoài 20, ông đã lên đường sang Macao để
hoàn tất nghiên cứu về phương Đông, và đã học tiếng Hoa và tiếng Nhật. Ông lưu
lại Việt Nam
trong 8 năm, cho đến khi mất vì tai nạn năm 1625. Có thể nói Pina là người châu
Âu đầu tiên thông thạo tiếng Việt. Ông học rất chăm và tỏ ra không khoan nhượng
với các đồng nghiệp lười nhác, như ông có viết trong thư. Ông yêu Việt Nam và văn hoá
Việt, và không tán đồng với sự kiện lai tạp của thành phố Hội An, nơi có dấu
vết nửa Nhật nửa Việt, hoặc nửa Tàu nửa Bồ.
Có một nghịch lí trong đời Pina: ông muốn
tìm thầy dạy ngôn ngữ giỏi nhất, nhưng vì không đủ tiền nên đành chịu. Thế là
ông đành nhờ cậy một vài cậu học trò người Việt. Ông dạy họ tiếng Bồ và học dạy
ông tiếng Việt. Hoàn cảnh này vưa may vừa không may. Điểm dở của nó là ở sự
phân cách giữa hai hệ thống chữ viết tiếng Việt cho đến nay. Người học chỉ có
thể sử dụng chữ quốc ngữ mà không thể lần vào được kho tàng văn học. Pina
thấy rõ nhược điểm này. Mặt khác, ai được đào luyện thấu đáo về tiếng nói thì
chẳng thể nào dự các lớp giảng dạy cổ văn chữ Hán. Các vị thầy giáo trẻ dạy
Pina tiếng Việt thường là dễ dãi, mặc dù có thể họ cũng đọc và viết được chữ
nho đấy. Vì thế mà quá trình thực hành hệ thống chữ viết thường không có cơ hội
để tiếp cận kho tàng cổ học Trung quốc và kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam. Theo quan
điểm của tôi thì đây là một may mắn.
Pina gặp một thiệt thòi rất lớn: ông mất
khá sớm, mới 40 tuổi. Ông không kịp thấy những thành tựu của những gì ông đề
xướng, không được may mắn nhìn thấy quyển sách đầu tiên của ông ra đời, vì mãi
26 năm sau mới được ấn hành dưới hình thức hệ thống chữ viết mới.
Việc bảo tồn kho tàng văn học truyền thống
đã được tiến hành qua nhiều thế hệ các vị tiên phong người Việt, khởi đầu là
Thầy Đoàn trong những năm 1660, và đạt đến đỉnh cao là vào cuối thế kỉ XIX với
Trương Vĩnh Ký. Theo hướng này, có thể nói là những dự định của Pina đã được
thực hiện đầy đủ hai ba thế kỉ sau khi ông mất. Cùng với phong trào cổ vũ cho
hệ thống chữ viết ghi âm sau khi chế độ thuộc địa cáo chung, Chữ Quốc Ngữ –
nghĩa là hệ thông chữ viết của cả nước- trở nên phổ thông đối với mọi người
Việt Nam, vĩnh viễn xoá bỏ đặc quyền của giới thượng trí.
Thế còn chữ Nôm?
Vào đầu thế kỉ XVII, chữ Nôm không được dạy
học chính thức. Việc sử dụng chữ nôm chỉ là truyền thụ trực tiếp từ thầy sang
trò, ở nơi nào người ta biết trân trọng những giá trị truyền thống, đặc biệt là
văn học truyền miệng. Theo với đà suy giảm vị trí ưu đãi của ý thức hệ Khổng
Mạnh tại Việt Nam,
giới trí thức chấp nhận đổi mới càng gia tăng. Quý vị cũng thừa biết là văn học
chữ Nôm thịnh đạt chủ yếu là trong thế kỉ XVIII, đã sản sinh một số tác phẩm
bất hủ trong văn học Việt Nam.
Nhưng ở vào thời điểm những năm 1620, nền văn học này mới chỉ ở những chặng đầu.
Sự thật là giáo đoàn Công giáo vào đầu thế
kỉ XVII đã rất quý trọng chữ Hán và chữ Nôm. Trong số những thầy giảng người
Việt đầu tiên mà ta được biết, có những vị là trí thức. Họ tiếp tục học hỏi chữ
Hán và cổ văn, và dạy cho các bạn đồng sự. Văn học Công giáo Việt Nam buổi đầu
đều viết bằng chữ Nôm – thế kỉ XVII còn giữ được 4200 trang ghi
chép 1200 000 chữ nôm – và các sách in Công giáo bằng chữ Hán và chữ Nôm còn
được in mãi tận những năm 1920. Những vị này hiểu rõ là văn hoá Việt Nam không thể
thiếu chữ viết truyền thống và nội dung của chúng. Tuy vậy, họ không chấp nhận
chủ trương chính sách của giới trí thức Nho học và không theo truyền thống nhà
trường. Theo truyến thống Việt Nam
thì học trò chỉ trông cậy vào các thầy hoặc trường dạy tư, và phương tiện
truyền thụ chỉ là chữ Nho, phép tắc trường quy thật là nghiêm ngặt. Nền tảng
của việc học là Cổ thư Trung Hoa, do vậy tư tưởng Khổng Mạnh là cơ sở
chính thống mà mọi người phải tuân thủ.
Giáo đoàn Công giáo dùng chữ hán với hai
mục đích: xây dựng trên lợi thế của đạo lí Khổng Mạnh, đãi lọc phần quan điểm
chống thần quyền của hệ tư tưởng này, và phát huy những phương tiện diễn đạt có
thể chuyển tải hiệu quả những tín lí Công giáo. Tuy nhiên, khác với giáo hội ở
Trung Hoa, các thừa sai ở Việt Nam
không hề theo đuổi đến cùng chữ Việt-Hán và chữ Nôm, bởi vì họ cần phải học nói
tiếng Việt để giáo dân hiểu được họ. Trong các bản báo cáo viết tay tôi tham
cứu được, các vị thường nại ra những lẽ này lẽ khác để châm chước cho khuyết
điểm này. Francisco de Pina la vị giáo sĩ châu Âu đầu tiên thông thạo
tiếng Việt, đã viết thế này: “Thật ra, giá như tôi có thể trả lương cho thầy
dạy tôi học tiếng nói và chữ viết thì ngày nay tôi đã thông hiểu đầy đủ để làm
công tác phụng vụ. Trong khi đó, chỉ vì không có được thầy mà tôi đành
không biết chữ, là một khiếm khuyết không may”. Vì thế các vị thừa sai đành
trông cậy vào phương tiện chuyển ngữ, mà chữ quốc ngữ họ mới học và dạy được.
Có thể biện luận rằng điều vừa kể trên có
một hệ quả quan trọng. Tôi có đọc đâu đó rằng giới phong kiến thống trị đã dùng
chữ Nôm để bảo toàn ý thức độc lập đối với Trung Quốc, và thể hiện quyền lực
của họ đối với dân chúng. Đưa ra một thứ văn tự dễ sử dụng mà lại có hiệu quả thì
sẽ giúp dân chúng thăng tiến được số phận của họ. Chế tác một hệ thống chữ viết
theo lối ghi âm, giáo đoàn Công giáo ở thế kỉ XVII vô hình trung đã dọn đường
cho những luồng tư tưởng mới mẻ, trong đó có tư tưởng về tự do. Khi nhà nước
thuộc địa Pháp áp đặt việc sử dụng chữ Quốc Ngữ cũng là khi họ tự đẩy vào
thế suy yếu là vì họ đã đặt vào tay người Việt phương tiện tối ưu của tự do tư
tưởng.
Chữ Quốc Ngữ vào năm 1632?
Tài liệu bản thảo thứ nhì cho thấy kết quả
công việc của cha Pina do các vị thừa sai châu Âu kế nghiệp ông – một
trong số những vị nổi tiếng là Alexandre de Rhodes là người đã đặt bút vào
những tài liệu đang được nhắc đến. Tài liệu viết ra năm 1632, và lá thư đính
kèm kí tên AndréPalmeiro. Đây là tập tự vị ba thứ tiếng Nhật – Hoa – Việt, có
một số ghi chú về ngữ âm và ngữ pháp. (Tôi sẽ cho ấn hành tập tài liệu này cùng
với lời nhận xét trong quyển sách sắp tới). Có thể dễ dàng nhận ra một số sai
sót, chẳng hạn sự nhấn mạnh đến những yếu tố chung giữa tiếng Hoa, tiếng Nhật
và tiếng Việt. Ví dụ, tiếng Việt được mô tả là ngôn ngữ có bốn thanh “như tiếng
Hoa”.
Tập bản thảo này có ý nghĩa quan trọng đối
với lịch sử Chữ Quốc Ngữ, bởi vì cho đến nay không còn bút tích về tiếng
Việt của cha Pina. Tập tài liệu này không được tham cứu đúng mức trong công
trình của Đỗ Quang Chính. Thật thế, ở đây chúng ta có một văn bản đầy đủ về Chữ
Quốc Ngữ, ngoài một câu nói mơ hồ thường cho là trích từ sách của Christophoro
Borri xuất bản tại Châu Âu một năm trước đó – Borri lưu lại Việt Nam rất ngắn
hạn, và thường chúi vào các sách toán và thiên văn. Ở đây ta có toàn văn một
bài kinh nguyện Công giáo mở đầu bằng tiếng “Cha ơi”. Bản kinh này ra đời 20
năm trước khi bộ sách nổi tiếng Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre De Rhodes
được in ra, và 14 năm sau khi chứng cứ đầu tiên về kinh nguyện Công giáo được
dọn bằng tiếng Việt. Cần lưu ý một điều là bản kinh này còn giữ gần như nguyên
vẹn
mãi đến thế kỉ XX. Vả chăng,
Alexandre mở đầu Phép Giảng Tám Ngày của ông bằng câu: “Đây là phép thông dụng
để ta tỏ bày phép sâu nhiệm của Thiên Chúa”. Chính ông cũng ý thức rõ rằng ông
là mối dây duy nhất của truyề nthống nghiên cứu Việt Nam mở đầu từ các vị tiền nhiệm và
được các đời sau kế thừa.
Một thành tựu đặc sắc của người Portugal
Mặc dù Francisco de Pina không có trực tiếp
tiếp cận kho tàng văn học Việt Nam,
ông lại có được những thành quả quý giá độc đáo khác. Một điều cần nhấn mạnh ở
đây là chính quốc tịch Portugal
của ông. Là người Bồ, ông đã mang thừa kế một truyền thống lâu dài về việc
nghiên cứu ngôn ngữ học. Tôi thấy có hai mặt của sự kiện này. Trước tiên, hiện
còn một công trình nghiên cứu các tiếng nói xa lạ, mà đại biểu là
quyển Cartinha của Henrique Henriques viết về
tiếng Tamil (khoảng năm 1550) và quyển của José de Anchieta viết về Ngữ pháp
tiếng Tupi-Guarani ở Brazil
(1595). Gần với Pina hơn, và cũng liên quan nhiều đến công việc của ông hơn,
chúng ta có hai quyển Ngữ pháp tiếng Nhật có Jỗo Rodrigues Tçuzzu. Rodrigues là
thầy dạy Pina ở Macao,
và Pina rất quen thuộc với quyển sách ngữ pháp tiếng Nhật in ra năm 1604. Chẳng
có gì là kì diệu khi ông đã có những vốn liếng để tiếp cận một ngôn ngữ.
Một đặc sắc thứ nhì là những công trình của
Pina đã có thể bồi đắp trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ học là qua công trình
sáng tạo của các học giả tiền bối ở Portugal. Tôi lưu tâm đặc biệt đến
ba công trình sau đây: Ngữ
pháp tiếng Portugal của João de Barro (khoảng 1540), Chính tả(quy tắc
đánh vần) của Duarte Nunes
de Leão (1576), và Những
phép tắc dạy cách viết tiếng Portugal của Pêro Magalhães de Gândavo. Sách của tôi
nêu ra những gì Chữ Quốc Ngữ đã kế thừa từ những nhà tiên phong Portugal trên
đây, mặc dù các vị kia chẳng hề biết tiếng Việt! Luận điểm của tôi là: chỉ có
thể một học giả Portugal
mới thành tựu đầy đủ đến như vậy.
Ngược lại với những điều vừa nêu, có một sự
kiện hiển nhiên là một quyển từ điển và ngữ pháp tiếng Việt đã được ấn hành năm
1651, đề tên de Rhodes –không phải là người Portugal. Ở chỗ này tôi lại may mắn
phát hiện một tài liệu viết tay thứ ba: Một phương pháp học tiếng Đằng Ngoài.
Đây cũng lại là một bản sao ở thế kỉ XVIII từ một nguyên cảo viết vào từ thế kỉ
XVII nay đã thất lạc. Chẳng may là người sao chép không biết tiếng Việt. Nhưng
chính nhờ thế mà vị này đã làm rất tròn phận sự. Phương pháp của tôi làm
là đối chiếu có hệ thống những trang tài liệu này với tập Ngữ pháp mà De
Rhodes đã đưa vào quyển từ điển của ông. Giữa hai tài liệu có nhiều điểm tương
đồng cũng như những điểm khác biệt nổi bật. Nói một cách vắn gọn, nhà
nghiên cứu phải đi đến kết luận là ở đây chúng ta có hai tài liệu song song, do
hai tác giả biên tập một nguyên bản chung vào cùng lúc nhưng ở hai nơi khác
nhau. Tuy rằng cả hai văn bản biên tập sau cùng đều bằng tiếng Latin, song
nguyên bản hẳn là phải viết bằng tiếng Portugal. Văn bản đó đã được nhiều
học giả người Portugal,
và tôi có thể nói là phần chính là của một vị đứng đầu trong số họ, Gaspar do
Amaral, trong suốt thời gian 20 năm sau khi Francisco de Pina mất. Pina đã khởi
thảo những dòng đầu tiên từ năm 1622.
Trong sách, tôi cũng có biên tập và hiệu
đính tập bản thảo này. Một trong số những điểm đã có từ trong nguyên cảo là
điểm mô tả về tính cách âm nhạc của thanh điệu. Điều này là một phát hiện sáng
tạo. Rhodes đã tóm lược lại, nhưng đồng thời
về phần ông thì ông lại không chỉ cho thấy rõ đâu là những nét khu biệt của từng
thanh.
Công trình nghiên cứu của tôi đã đưa đến
một nhận định là tập bản cảo chưa xuất bảnManuductio ad Linguam Tunckinensem là của một học giả người Thuỵ sĩ nói tiếng
Đức, đã từng dạy tiếng Latin ở Portugal.
Tên Portugal
của ông là Onófrio Borges, một cách phiên chuyển tên tiếng Đức của ông là
Honufer Bürgin. Ông bỏ dở dang bản thảo của mình, nhưng khi ông qua đời thì tập
bản cảo lại giúp nhiều cho người đời sau. Tập bản thảo này không được mấy ai
quan tâm, vì đã có một quyển khác cạnh tranh với ông và đã được in ra lúc đó
rồi. Vai trò của tập bản thảo này thật có ý nghĩa, vì nó cho phép người
đọc có một cái nhìn khái quát về hậu cảnh, cũng như nó cho thấy sự hiểu
biết sâu sắc của những vị tiên phong ở Portugal về ngôn ngữ học tiếng Việt.
Quý vị thấy đấy, tôi có thể nói nhiều thêm
nữa. Nhưng chắc quý vị cũng đã mệt rồi, và, hẳn nhiên là quý vị có thể sẽ đọc
vào chính văn. Cho nên tôi xin phép được kết luận vậy.
Lời kết
Là một sử gia, tôi xin được ngỏ lời cảm ơn
đến hai nhóm đặc biệt. Đầu tiên là nhóm các nhà học giả Portugal tiên
phong ở đầu thế kỉ XVII đã nhiệt tâm và nghiêm túc nghiên cứu ngôn ngữ. Kế đó
là các bạn đồng sự Việt Nam,
là những người thừa kế gia tài phong phú hàng mấy nghìn năm của cha ông các vị.
Nếu làm việc riêng rẽ thì hai nhóm này chắc đã không đạt được những thành quả
như ta thấy. Sở dĩ được như ngày nay là nhờ hai bên đã cộng tác chặt chẽ cùng
nhau. Những công sức của họ đã tập đại thành hệ thống Chữ Quốc Ngữ, một hệ
thống chữ viết bằng mẫu tự Latin tuyệt vời đã được thử thách qua thời gian.
Thành quả vô song này cũng như sự hợp tác cùng nhau trong một thời gian ngắn
ngủi thôi mà xứng đáng vinh danh. Không may là hầu hết danh tính các vị nay đã
mai một. Không còn cách nào để phục nguyên đầy đủ phần cống hiến của các vị qua
những tư liệu còn lại.
Công trình Manuductio và Brevis Declaratio của De Rhodes là hai cơ sở chứng liệu mà
tôi đã dùng để nhận diện phương pháp mà người xưa đã làm việc cùng nhau. Hai
tập tài liệu này giúp tôi trong toàn bộ quá trình nghiên cứu. Cả hai đã ấn
chứng vai trò của tiếng Bồ cũng như ảnh hưởng lối kí âm ngôn ngữ này đã ảnh
hưởng đến cách tạo thành Chữ Quốc Ngữ ra sao. Một phần khá lớn những đồ vị vẫn
dùng trong tiếng Việt đến tận bây giờ thì cũng mang cùng tính năng và hiệu ứng
của chúng trong tiếng Bồ. Những đồ vị ấy có sẵn trong tiếng Bồ vào thế kỉ
XVI. Các vị sáng chế ra Chữ Quốc Ngữ đã sử dụng các đồ vị tiếng Bồ này
một cách tự nhiên thoải mái mà vẫn quan tâm đến gìn giữ bản sắc của tiếng Việt.
Như Lê Thành Khôi đã nêu, vào thế kỉ XVII
các vị thừa sai người nước ngoài chỉ có ý dùng chữ quốc ngữ trong việc giảng
đạo Thiên Chúa cho người Việt. Tuy nhiên thứ chữ này được chế tác theo cung
cách rất tôn trọng truyền thống. Trên hết cả, nó là một phương tiện đối thoại
với quần chúng Việt Nam
và những giá trị văn hoá của họ. Chữ Quốc Ngữ là một phương tiện giúp thực hiện
cuộc giao lưu văn hoá. Kì vọng này cũng là của các vị tiền bối người Việt đi
tiên phong, có người đã từng là nhà nho và rất sành sỏi văn nôm. Những người
Việt trẻ tuổi và giàu tài năng thuở ấy hẳn nhiên đều là những người có học và
thông thạo chữ viết hình khối vuông, nhưng các vị cũng nhìn thấy được tiềm năng
lớn lao của thứ chữ viết Latin hoá này trong vai trò giao lưu văn hoá.
Ngày nay, Chữ Quốc Ngữ đã được dùng làm chữ
viết chính thức của tiếng Việt ở mọi cấp. Người Việt Nam xem nó là gia tài của mình thì
cũng phải thôi. Rất ít hoặc chẳng còn gì dấu vết tôn giáo trong đó. Những nhà
chế tác ra nó đã là một điển hình cho sự hợp tác giao lưu văn hoá. Họ là những
người khai nguyên cho một truyền thống và một phương tiện quý giá có một không
hai cho sự phát triển xã hội.
Portugal, vì những áp lực của hoàn cảnh, không liên
quan gì đến ngôn ngữ hoặc tôn giáo, mà đã rút khỏi địa bàn Việt Nam. Một phát
kiến văn hoá tạo nên từ cha Francisco de Pina và các cộng sự trẻ tuổi và giới
nho sĩ ở Quảng Nam
về sau đã được các vị khác tiếp tục. Trí nhớ tập thể đã gần như quên mất công
đầu của những người phát minh đầu tiên. Hi vọng là công trình khiêm tốn của tôi
sẽ trao cho Việt Nam của hôm nay, cho những ai học và yêu ngôn ngữ, cho những
ai tìm về văn hoá cổ, một lối tiếp cận và biết đâu còn là một thôi thúc để đi
sâu thêm vào khai quật những vết tích xưa. Đó sẽ là một ơn ích cho Việt Nam và ngôn ngữ
Việt.
Portugal nay đang muốn tìm biết về lịch sử đáng quý
trọng về sự can dự của nó tại Châu Á. Những chuyện buồn chung quanh việc người
phương tây bóc lột châu Á đã là những đề tài nóng bỏng. Tuy nhiên Portugal có một
lịch sử lâu dài về hữu nghị và hợp tác. Ngày nay, sự có mặt hoà hiếu của họ có
thể đem lại dịch vụ chứ không phải là những thương tổn đối với một khu vực to
rộng và giàu có là châu Á. Portugal xứng đáng được nghiên cứu để được công nhận
những cống hiến của quốc gia này đối với những nền văn hoá lớn tại châu Á, tại
Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Hoa. Nhưng quốc gia này còn đóng góp vào việc làm giàu
văn hoá tại nhiều nơi khác nữa, mà những đóng góp này dẫu nhỏ bé cũng đáng và
cần được trân trọng. Mong ước nhỏ bé của tôi là công trình ra mắt hôm nay là một
bước theo chiều hướng nói trên, và nói lên một nhu cầu có thật.