Nguyễn Quang
Ám ảnh sợ người
Càng sợ người, càng giết người
Ám ảnh sợ người
Càng sợ người, càng giết người
Bài học lịch sử: còn làm
người, còn sợ, nhất là đối với nạn nhân chiến tranh, chiến tranh mang đến mọi
thứ gọi là văn minh, nhưng nó cũng lấy đi mọi thứ kể cả văn hóa. Tại Việt Nam, hòa bình
lại đáng sợ hơn khi bản chất con người biết mang ơn và thích trả thù nghiệt
ngã. Họa sĩ Phạm Cung có một bức họa sau bảy lăm, họ trả thù bằng cách nướng
chim của một sĩ quan thuộc phe miền Nam và tại thôn An Mỹ, miền Trung Việt Nam
đã xảy ra chuyện một xã trưởng bị nhốt trong chiếc lồng sắt, đám đông vây chung
quanh gồm toàn du kích nhảy múa, họ dùng giáo mác đâm từng nhát hả hê vào nạn
nhân, máu phun tung tóe và hát bài ca cách mạng, tung hô lãnh tụ. Xã trưởng tên
Nguyễn Văn Ba.
-“Vụ Tết Mậu Thân, bóng tối
lịch sử đã sáng dần ? “- Nguyễn Đức Cung viết: " Có trường hợp nạn nhân bị
tùng xẻo như Thiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn trưởng Tỉnh đoàn Xây dựng Nông
thôn Thừa Thiên, đảng viên Đại Việt Cách Mạng trốn trên mái nhà nên vợ con ông
bị đe dọa nếu ông không ra trình diện thì vợ con sẽ bị bắn ngay. Thiếu Tá Kháng
bèn ra hàng. Ông bị cột vào một chiếc cọc đóng giữa sân nhà và bị Cộng Sản dùng
dao cắt tai, xẻo mũi cho đến khi nạn nhân chết ".
- “Chuyến Bay Định Mạng - Đỗ
Minh Đức viết : "Thiếu Tá Nguyễn Du bị cột quỵ xuống đất, viên Thiếu Tá
nhiều khả năng tài giỏi, và trẻ nhứt của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã bị đám
Cộng Sản ác ôn và đồng bào nơi đây xẻo thịt, lóc da cho đến chết! Nghĩ đến thì
man rợ đấy nhưng có người dân nào có đủ can đảm không nghe theo lịnh của Việt
Cộng. Nếu người dân nào không tuân lịnh cầm dao xẻo thịt Thiếu Tá Nguyễn Du thì
sẽ bị đám Việt Cộng lôi ra bắn chết ngay. Bởi thế, cứ mỗi người bước qua chỗ
Thiếu Tá Nguyễn Du thì họ cắt tai, cắt mũi, xẻ thịt, lớn tiếng xỉ vả …" .
- Những Lá Thư Từ Tuyến Đầu Tổ
Quốc -TQLC Lê Công Truyền viết: -Thiếu Tá Huỳnh Túy Viên, cựu sinh viên sĩ quan
Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, quận trưởng quận Ðầm Dơi, bị VC giết bằng
cách cho người móc mắt ngay tại quận lỵ vào đầu tháng 5 năm 1975.
-Khi chi khu Đồng Xuân, tỉnh
Phú Yên thất thủ, Thiếu tá Chi Khu Trưởng Trần Vũ bị VC giết bằng cách lấy đũa
tre vót nhọn đâm mù cả đôi mắt rồi cột ở chuồng bò cho đến chết.
-Thiếu Tá Bùi Văn Ba, quận
trưởng quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long bị VC dùng dao phát cỏ chặt đầu.
- Nguyễn Văn Trấn - gia nhập
đảng Cộng Sản từ những ngày đầu mới thành lập . Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ. Đại
biểu Quốc Hội Hà Nội: phát biểu “Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm
nay, thật nói không hết.”
Nhưng càng giết người các bạo
chúa càng trở nên sợ hãi, ám ảnh sợ người, đây có thể nói là tâm trạng chung của các lãnh tụ độc tài, và càng sợ
người họ càng giết người để được an tâm trong sự cai trị độc đoán nhằm thoả mãn
các tham vọng của họ hơn là thực hiện các khát vọng của công dân. Chính từ sự
giết người như một kế sách để tồn tại trong các chiếc ghế quyền lực, nên trong
chiến tranh các công dân vô tội trở thành nạn nhân của những bóng đêm kinh
hoàng luôn phủ trên người họ.
Thanatophobia
- Càng đạt được quyền lực con người càng thêm ưu tư lo lắng bảo vệ ngôi vị của
mình trong ám ảnh sợ mất tất cả, thứ ám ảnh sợ chết do mất uy quyền. Mọi thứ
sao dễ tan vỡ vì không thể có sự đồng lòng của hàng vạn người đối với một
người, quý hồ cả triệu người sẽ như một, nhất là trong miếng đỉnh chung không thể
thoả lòng hết bá tánh. Không ai xác quyết sau cái chết con người sẽ về đâu, vì
thật sự nếu ai đó có hiểu được phần nào, chắc chắn không người nào chạy theo
quyền lực trần thế vì cùng lắm cũng chỉ được như Tần Thuỷ Hoàng. Bạo chúa này
cũng chỉ mang theo cung tần mỹ nữ và đám âm binh toàn là bằng tượng đất. Tất cả
trong sự thể hiện tính thể về mặt nhà nước, đều có dịp cho người hậu thế chứng
kiến các thứ nhà nước, rồi ra chỉ là hư ảo với quyền lực thế gian.
Còn đối
với người dân là nạn nhân chiến tranh, những ai phải ở lại nơi chôn nhau cắt
rốn, thường là những người đã lớn tuổi hay còn trẻ nhưng mang đầy thương tích
chiến tranh, họ luôn nghĩ đến đoạn đường như quá thoáng nhanh đã trải qua, rồi
những ngày sắp đến với tuổi già mà niềm tin và hy vọng dường như đã tan biến.
Nên quả
thật họ không biết sẽ có ngày gia đình sum họp hay không, hoặc lại về với ông
bà trước rồi lần lượt những người khác sẽ cùng về sau. Hằng ngày tiếng bom cùng
đại pháo, súng lớn súng nhỏ… hậu quả của những âm thanh chiến tranh cũng đủ
biến các công dân thành điên loạn. Cái chết trở thành Đấng cứu chuộc trong
nhiều trường hợp nếu chẳng may rơi vào tình cảnh dở sống dở chết, hai tay hai
chân không còn hay chột cả hai con mắt mà tứ chi cũng không còn. Khoa học đã
làm những điều không thiện trong trường hợp này.
Nhiều
chứng nan y như đường ruột, tim mạch, suyễn, phổi… mọi thứ đều có trong chiến
tranh. Có những đoàn quân miền Bắc trên đường tiến vào Nam trúng phải bom mìn,
họ đã chết không người thu dọn, hậu quả không biết bao mầm bệnh cùng nạn dịch
cho các cư dân quanh vùng, nhất là đồng bào dân tộc còn sống du cư, du canh
trong thưở ban đầu khi cuộc chiến khởi phát.
Qua những
sự phòng thủ, vũ khí cùng đội quân bảo vệ cho các lãnh tụ các quốc gia, đủ biết
rằng họ luôn mang theo mình nỗi ám ảnh lo sợ thực hiện. Nghĩa là nỗi ám ảnh về
cái chết, bị đảo chánh, ám sát, dùng bom tự sát… Những thứ đó biến thành sự
thực như lo sợ mất ngủ và mất ngủ thật. Sinh hoạt của Hitler, Stalin… thường
đều có giấc ngủ muộn vào sáng hôm sau, vào ban đêm có khi phải họp nội các nên
các bộ trưởng thời Stalin hầu như thường thức suốt đêm vì không biết lúc nào
tên bạo chúa này gọi dậy để báo cáo. Còn Hitler vào một buổi sáng khi thức dậy
nhìn sang đại sảnh đường nơi mọi người đang tập trung để nghe ông diễn thuyết,
Hitler đã dùng ống nhòm và thấy rõ một Hitler như thật, tất nhiên là giả đang
thao thao bất tuyệt, múa tay múa chân và khán giả vỗ tay liên hồi… Quả là
‘thiên tài hay làm việc về đêm’ như lời người đời hay dí dỏm. Họ thức suốt đêm vì những lo toan, ám ảnh nhiều
nhất vẫn là cái chết cùng sự sụp đổ của chế độ.
Người dân
- nạn nhân chiến tranh thì mất ngủ là chuyện thường tình, họ mất ngủ thật... lý
do bom rơi đạn vãi luôn rình rập họ. Thần chết không từ sự sợ hãi vì mất quyền
lợi nhưng do hậu quả sự hủy diệt người của tầng lớp thống trị. Họ nghĩ vẩn vơ
về mọi thứ, những ý tưởng cứ đến liên tục và cứ thế cho đến gần sáng mới chợp
mắt được. Trong bóng đêm như có kẻ khủng bố luôn rình rập bên ngoài cửa, dù chỉ
có thể vào một đêm bất hạnh nào đó như đã từng xảy ra với nhiều gia đình trong
làng, cũng có thể sẽ đến phiên họ. Nỗi ám ảnh sợ mất ngủ và cố gắng ngủ, nhưng
đêm nào cũng đến gần sáng mới chợp mắt được. Nó giống như một sự chờ đợi cái
kinh hoàng, một thất bại lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, biết chắc là như
thế nhưng không tránh được. Cái gọi là không tránh được – nó khả dĩ hoàn toàn
tránh được nếu đồng loại không vì tỵ hiềm, lòng tham và thích giết hại người.
Trong bao dung thể tưởng chừng dễ vứt bỏ nhưng cho đến khi nhân loại vẫn còn
hai chữ thiện ác thì nó vẫn còn trong sự phản diện của hai mặt đối lập một cách
tương sinh, đầy biện chứng.
Nạn nhân
chiến tranh rơi vào tình huống nầy, đó là hay nghi ngờ các sự việc đã làm không
biết có quên thực hiện hay không, như phân vân không biết đã làm dấu thánh
trước khi rời khỏi Nhà nguyện hay đã vái Phật hay chưa trước khi rời khỏi Chùa,
họ lẩm nhẩm các phép tính đã làm, thư đã dán phong bì rồi bóc ra dán lại nhiều
lần vì nghi ngờ không biết có gửi đúng hay không. Sự kiểm tra nhiều lần cũng
không làm người bệnh yên tâm và buộc họ phải tiến hành kiểm tra một cách liên
tục trong sự ám ảnh nghi ngờ.
Khoảnh khắc tưởng có hòa bình, văn hóa phát
triển ở miền Bắc, nhưng rồi vụ nhân văn giai phẩm, đảng Lao Ðộng Việt Nam thay
đổi thái độ đột ngột chỉ trích Nhân Văn và Giai Phẩm bằng những
luận điệu cực kỳ gay gắt và chụp mũ. Ðồng thời chính quyền bắt đầu làm những áp
lực hành chánh đối với Nhân Văn trong việc ra báo, cuối cùng tờ báo bị
đóng cửa.
Sự thay
đổi thái độ này trong ám ảnh nghi ngờ sợ mất quyền lực của đảng có vẻ là vì hai
nguyên nhân. Thứ nhất Nhân Văn bắt đầu mở rộng những chỉ trích của mình
ra ngoài lãnh vực văn nghệ sang lãnh vực chính trị và càng ngày càng tạo ra ảnh
hưởng đối với quần chúng. Thứ hai, cuộc nổi dậy của dân chúng Hungary chống lại chế độ Cộng Sản đã làm cho
đảng Lao Ðộng lo sợ và quyết định phải có hành động quyết liệt để ngăn chặn một
chuyện như vậy xảy ra tại Việt Nam.
Nhân
Văn Giai Phẩm đều
bắt đầu hướng những chỉ trích của mình không chỉ trong lãnh vực văn nghệ mà
sang cả chính trị, trong đó Trần Ðức Thảo viết rằng “chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là những di tích
của chế độ cũ trong tổ chức mới. Ðấu tranh chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của
nhân dân và đường lối của Ðảng, một trọng tâm công tác để đẩy mạnh công cuộc
kiến thiết kinh tế và văn hóa, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội” và đòi
hỏi rằng “nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân”.
Aichmophobia – ám ảnh sợ vật nhọn đâm vào chính mình, có lẽ điều ám ảnh
nầy dành cho phía cán bộ đảng viên nhiều hơn cả đến nổi họ nghiêm cấm các công
dân không được giữ bất cứ loại vũ khí nào, và công việc kiểm tra hầu như xảy ra
thường xuyên tại tại các địa phương. Hậu quả của những vụ trấn áp với lý do
không được dùng các loại gươm giáo nầy đã dẫn đến không biết bao nạn nhân bị
vào tù do các cá nhân lợi dụng để trả thù, ngay cả việc chôn giấu vũ khí vào
nhà vườn người khác để vu oan, mọi công dân đều có thể trở thành nạn nhân chiến
tranh do sự chụp mũ của thành phần thống trị mới. Quả là trong nỗi ám ảnh nầy vì
tập đoàn lãnh đạo phải lo cho chính bản thân của họ, các bạo chúa bao giờ cũng
sợ nhất là những cuộc bạo loạn mà đối tượng đầu tiên bị nhắm đến trước tiên
chính là giai cấp thống trị.
Nhà báo
Nguyễn Hữu Ðang chỉ trích tính cách “gia đình” của đảng và nêu gương Liên Sô
như sau:
“Tại sao
sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều
lần chỉnh lý pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của tòa án,
bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô còn phải
đặt vấn đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy? Chính là vì trong bao lâu Stalin
đã lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính
trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi
thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp ủy
Ðảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và đảng viên
tốt - kể cả Trung ương ủy viên của Ðảng - đã bị tù đầy, bắn giết oan trong tình
trạng đó? Cho nên Ðại hội đã phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp
trị, nó là hiện thân của tinh thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ
luật trong một nhà nước văn minh”.
Panphobia
- ám ảnh sợ tất cả, đây là tâm trạng chung của các nạn nhân chiến tranh nhưng cũng
là thứ ám ảnh như thứ bóng đen luôn đè nặng trên các lãnh tụ độc tài, chỉ có
rất ít và có lẽ cũng chỉ với một vài quân vương nào đó theo dòng lịch sử là
biết sợ chính mình, không có kẻ nào lên hàng lãnh tụ mà không ‘ưu thắng liệt
bại’, nghĩa là không có sự triệt hạ con người, thậm chí giết cả triệu triệu
người trong chiến tranh. Tất cả đều mang nỗi ám ảnh sợ đủ thứ... nghĩ đến sự
thất bại cuối cùng đến cái chết vẫn còn ám ảnh sợ vì không thể trở thành lãnh
tụ mà không giết người.
Theo nhân văn giai phẩm, vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý
tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp
lý nói chung. Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen
giải quyết mọi công việc to nhỏ trong không khí gia đình, với tinh thần tùy
tiện. Chúng ta đã quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được
mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái “lập
trường” để thay cho luật lệ cụ thể.”
Anthrophobia
- ám ảnh sợ người, đây có thể nói là tâm trạng chung của các lãnh tụ độc tài, và càng sợ
người họ càng giết người để được an tâm trong sự cai trị độc ác nhằm thoả mãn
các tham vọng của họ hơn là thực hiện các khát vọng của công dân. Chính từ sự
giết người như một kế sách để tồn tại trong các chiếc ghế quyền lực, nên trong
chiến tranh các công dân vô tội trở thành nạn nhân của những bóng đêm kinh
hoàng luôn phủ trên người họ.
Các nạn
nhân không chỉ sợ vũ khí mà thấy bóng dáng con người trong những bộ quân phục
nhất là thứ màu đen của du kích là hồn vía của họ đều lên mây. Mùi thuốc súng,
mùi của lửa, mùi tanh của thịt sống từ sự nát thây do bom mìn văng tung toé
thành từng miếng thịt nho nhỏ, có thể treo lủng lẳng trên các mái nhà, trước
sân trên giàn bí, giàn bầu… Nó khiến con người khi trực kiến các thảm cảnh,
tính khí từ đó sẽ khó còn bình thường. Ngoài ra với những người sống sót sau
những vụ thanh trừng, ám sát với ngay chính người thân mà họ chứng khiến: Ôi
những người ra lệnh phần lớn là những ông nội nằm vùng hoặc lẩn trốn điều khiển
từ xa, còn những kẻ thừa hành toàn là những trai trẻ du kích địa phương, nhưng
trước cách tàn bạo của những con người này ai cũng trong ấn tượng, chúng ta
cùng sinh ra trong cùng một giống nòi có gene của sự ác ?
Nạn nhân
chiến tranh trong trạng huống ám
ảnh hồi ức hay nhớ lại một sự kiện hết sức khó chịu, một
sự đau khổ trong quá khứ làm cho họ xấu hổ, hối hận và cố gắng quên đi nhưng
không sao quên được.
Yếu tố
thời tính đã chứng minh theo thời gian, thời hậu chiến, ngay cả những kẻ từng
điều khiển chiến tranh cũng trở thành những nạn nhân chiến tranh. Mặc cảm tội
lỗi, tội giết người và nhất là để chiến thắng, qua tuyên truyền phải đạt đến
đỉnh cao trí tuệ của sự ngụy tín đến vong thân vì chứng nói láo! Không một
chính trị gia nào là người nói thật và đã nói thật sẽ không là chính khách!
Họ nhớ lại
quá khứ và trở nên trầm uất, hình ảnh con người giết nhau – hữu thể không còn
thể hiện tính người, con người nhìn nhau trong cái gọi là hận thù giai cấp: con
người không còn ngồi chiêm niệm thế giới, không cần cầu nguyện cho nhau, nhưng
từ đây đi chuyển biến thế giới, từ đây hãy học biết giết người.
Monophobia - ám ảnh sợ cô đơn, một khi những vùng nông thôn xa xôi trở thành
những khu trù mật, về sau với hình ảnh chung quanh làng trở thành những hàng rào
ấp chiến lược và rồi đến các khu tái định cư cũng trong bờ rào kẽm gai, những
người dân ngoài độ tuổi phải vào quân ngũ, họ nằm nhà thường không có việc gì
khác hơn đi lãnh đồ viện trợ. Sự cô đơn trống vắng với thân phận con người khi
phải nằm chờ một cái gì đó mà chắc chắn không phải là nền hoà bình vĩnh cửu,
song cái chết lại dễ xuất hiện nhất, cho dù được chuẩn bị sẵn sàng với những
người có đức tin tôn giáo. Nó vẫn là một không gian thật tối tăm không ai biết
được cho đến khi con người không còn ý thức và ra đi.
Mỗi buổi sáng và chiều, nơi các trại định cư với người Ki Tô giáo hầu
nhưng không người nào bỏ sót lễ misa, họ đến các nhà nguyện nhỏ trong các khu
nhà xây tạm để dâng lễ, dọn đường cho cái chết thanh thản và trước mắt là có
được ít ra sự bình an trong ngày. Và quả vậy những người có đức tin Ki Tô giáo
họ có đau xót trước sự ra đi của người thân ngày càng nhiều trên chiến trường,
nhưng họ đều như không la lối hay than vãn cho dù ánh mắt kia có ngập dòng lệ.
Hãy trao cho con người ước mơ và hy vọng, đó cũng là sự góp phần vào việc tạo dựng hạnh phúc cho nhân loại!
Trong
chiến tranh, bọn cai thầu đã làm băng hoại xã hội dân sự, họ tạo ra những bồi
bút, những dư luận viên, báo cáo viên với nhiều bài tham luận, phóng sự bóp méo
sự thật, mạ lỵ vô cớ, gây chia rẽ và tạo sự nghi ngờ đối với những người khác
lập trường của họ. Cuộc chiến tranh tuyên truyền và phản tuyên truyền dẫn đến
một xã hội tha hóa đạo đức lâu dài cho dân tộc đó: “Nói láo, nói láo, nói láo
mãi khiến con người hoài nghi về một chân lý, hoặc lộng giả thành chân”, như
thế là đã thành công của nền trị chính bá đạo.
Theo
Pascal: “Con người là một cây sậy biết suy nghĩ”. Tư duy là một quá trình hoạt
động tâm thần phức tạp, là hình thức cao nhất của quá trình nhận thức. Hoạt
động của tư duy gồm có: phân tích, tổng hợp, so sánh, khám phá và trừu tượng
hoá, phán đoán suy luận và cuối cùng tìm ra kết luận.
Nhân văn
giai phẩm và ngày nay qua mạng xã hội… như tiếng nói lương tri của con người,
nhưng sự rối loạn nội dung tư
duy trong hàng ngũ lãnh đạo đầy tham vọng quyền lực Hà Nội, vốn từ các định
kiến còn gọi là ý tưởng quá đáng. Định kiến là những
nhận định phát sinh trên cơ sở những sự kiện thực tế nhưng về sau chiếm một vị
trí trong ý thức không phù hợp với ý nghĩa của nó và có kèm theo một tình trạng
cảm xúc mãnh liệt. Người mang chứng bệnh luôn luôn nhớ tới việc đó tỏ ra bực
tức, đau khổ, và tìm cách phản ứng trả thù. Người bệnh không thấy chỗ sai của
định kiến nên không có sự đấu tranh phê phán lại và luôn tìm cách trả thù,
nhưng cũng có rất ít trường hợp với thời gian gặp hoàn cảnh thuận lợi định kiến
sẽ mờ nhạt dần và mất hẳn.
Định kiến
khác với hoang tưởng là sự xuất hiện của nó không kèm theo biến đổi nhân cách.
Thường gặp trong các trạng thái trầm cảm tự ty, cho mình có phẩm chất cao hơn
người, hoặc mặc cảm xấu xa như vụng trộm về tình ái, tiền bạc, nhiều khuyết
điểm, và từ thứ mặc cảm tội lỗi này luôn tạo ra thứ chính nghĩa nào đó như bình
phong bên ngoài. Quả là những ý nghĩ, hồi ức,
nghi ngờ, hành vi và động tác... không phù hợp với thực tế, xuất hiện trên
người bệnh, cũng như các lãnh tụ với tính chất cưỡng bức. Người bệnh ý thức
được đó là do bệnh tật, biết đó là sai, tìm cách xô đuổi nhưng không sao thắng
được.
Tiến sĩ
Kissinger nghĩ rằng mình ở thế mạnh của một siêu cường đã áp lực lên Tổng thống
Thiệu phải ngồi vào bàn hội nghị và phải ký kết Hiệp định Paris, nếu không như đe dọa của Tổng thống
Nixon sẽ “chặt đầu Thiệu”. Còn Ông Thiệu từng tuyên bố khi thăm miền Trung,
thấy dân chúng bị chết oan quá nhiều qua những chiến dịch ám sát giết hại dân
lành của cộng sản đã thốt lên “Chặt, chặt…thấy cộng sản là chặt…”.
Các công
dân sống dưới chế độ cộng sản nhiều người vẫn còn lương tri nhưng họ không thể
nói khác hơn và chắc chắn phải hành động hoàn toàn trái với sự phát triển tự
nhiên của con người. Con người từ đây không còn chiêm niệm thế giới nữa, nhưng
là chuyển biến thế giới, nhưng thế giới như một cây cổ thụ đã che lấp cả những
người gọi là vô sản vì cái bề dày lịch sử của nó, nhất là tại Việt Nam những
con người giành chính nghĩa cho mình từ thứ chủ nghĩa này, đó là những thành
phần bất hảo cùng nhau vào hang Pắc Pó, để gọi là dựng cờ cứu nước, ăn cướp mà
đền ơn, cả cướp chính quyền và cả việc ăn cướp để đền ơn đáp nghĩa về sau,
trong bối cảnh như dân gian truyền ‘được làm vua thua làm giặc’, đó chính là
bao niềm kinh hãi với người dân từ sự sợ hãi thông thường – phobia đến
thanatophobia, monophobia, anthrophobia, aichmophobia…
Thay vì
nói ‘Các con đừng sợ’! Hãy bảo nhau rằng phải biết sợ trong chế độ bạo tàn mới
có thể sống sót được và rồi vượt qua sự sợ hãi để làm nên những giá trị theo
phẩm cách làm người hầu hướng đến những giá trị siêu nhiên.
Huyền thoại và ước mơ như
những yếu tố muôn đời của con người hướng đến điều gì trong hy vọng sẽ đạt được
và thường khi vẫn chỉ là mơ ước. Nhưng nhân loại hết huyền thoại đến thần thoại
để luôn nuôi dưỡng tinh thần con người tiếp tục hành trình đến chân thiện mỹ.
Miền Nam Việt Nam trước khi
nội chiến tương tàn, quân đội miền Bắc vào xâm lược miền Nam, đây là một đất
nước Tự Do dù chỉ là khởi đầu của một nền dân chủ hạn chế, nhưng xã hội trên đà
phát triển kinh tế phồn vinh, một thời thái bình thịnh trị của miền Nam Việt
Nam, nhưng hạnh phúc đến với người dân Việt dường như suốt theo dòng lịch sử
chỉ là một thoáng qua.
Giấc mơ về cuộc chiến chấm
dứt, về một nền hòa bình vĩnh cửu hầu như chỉ là khúc nhạc dạo trong trường ca
lịch sử bao gồm những cuộc chém giết lẫn nhau.
Bài học lịch sử của người
Việt, đó là xin đừng nhân danh về bất cứ gì để giết người. Giết người dù bất cứ
lý do gì cũng là tội ác! Thay vì triệt hạ con người, hãy cứu người! Thay cho
dục vọng khả giác là tình yêu chân thật! Hãy tránh xa mê mờ thay bằng minh tuệ!
Đó là bước khởi đầu biết cùng nhau tôn trọng nhân phẩm con người.