Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa_
Tác giả:Jean Marie Mérillon & Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Tác giả: Jean Marie Mérillon
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Việt
Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt
đời không phai lạt. Sống ở VN lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy.
Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm
chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin
lổi người VN. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vản được nền hòa
bình cho Dân tộc Việt. Vỉnh biệt Sài gòn...
Cựu Đại Sứ Pháp ở Việt Nam
Jean-Marie Mérillon
NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG
Đã
đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì
vào những ngày sắp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái
độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức.
Ông
Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ
sẽ bỏ rơi Miền Nam. Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một
chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc
hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu,
nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó.
TỐI
18/4/75: Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của
Hoa Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm
dứt sau Hiệp Định Paris năm 1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại
Đông Dương.
Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời:
-
"Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thỏa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có
gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh
phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc
này."
- "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng.
- "Như thế từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp."
-
"Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống
lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng."
Sau
đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại
Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đảo
chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đảo chánh.
Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng
phần thắng cho Việt Cộng.
Ngày
30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời
Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điện thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở này
tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi "còn nước còn
tát."
Công
việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân
sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của
Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Phan
Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp người Mỹ
ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông
Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc
quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp
Việt Nam. Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu
tình chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối
cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954.
Trưởng phòng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng
thầu, ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ
xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch
Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam
chậm lắm là cuối tháng 4/75.
Đại
tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ này chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông
Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi
cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông
Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu" lủy" không nghe "moa", đánh giặc theo
kiểu Mỹ sẽ thua không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng."
Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền.
Trước
khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng.
Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện cho
Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh
thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự.
Tại
Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề.
Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây dựng
chính thể Việt Nam do đảng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu
nghị cũng như các sự giúp đỡ Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả."
Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành
mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi.
Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh
Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long
Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn
tiến Dũng hay sao?
Toàn
thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một
chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến
tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo
quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong
trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm này lan rộng cả Á
Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông
Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi
mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ
giải pháp đình chiến tại Việt Nam có Trung Cộng tham dự.
(Mãi
đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là
lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng
tôi).
Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.
Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.
Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân.
Lời
giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ
giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam,
biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm
1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp này để dằn mặt Việt Nam).
Phần
chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3
thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh
sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê
quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân
Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa
ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng
khó khăn. Vì những người này không có thực lực hay quyền hành gì cả.
Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực
là Mạc tư Khoa. "Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt
Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ".
Móc
nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời
phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái
đoàn này có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên
sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường,
Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ
v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành
phần vô ích. Những khuôn mặt này Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công
giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Huỳnh Tấn Mẫm
Tôi
đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi hết sức
ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc.
Vậy trong những ngày sắp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị
có đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam
không? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng.
Hãy cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam
Cộng Hòa thua, hoặc MTGPMN thua? "
Huỳnh tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:
- "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến này Mỹ đã thua, tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận."
Căn
cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung
trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào
chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định
thì hắn phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người
Việt Nam thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt."
Bà
ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp
từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng
triệu Phật tử Việt Nam."
Luật
sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng "nếu"
ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà trong đó có
ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc
Việt Nam v.v..." Ông cũng ngỏ lời cám ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập
ván bài trung lập tại Việt Nam.
Đây
là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ
trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và
Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn
Minh để thu xếp nhiều công việc khác.
Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau này:
-
"Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối
cải công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút này nằm
trong tay Hà nội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn
là chủ động'.
Mọi
người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu
nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh "Tôi muốn đi Pháp nếu tân
chánh phủ không được Hà nội nhìn nhận."
Khi
trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự
hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên
giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường
dây điên thoại viễn liên này kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi
cũng dùng đường dây này chuyển về Bộ Ngoại Giao Hà nội. Tại Hà nội họ sẽ
móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ
Chí Minh, vì ông này muốn gặp tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải
chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT:
Thành
phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc, đồng chủ tịch là hai ông Dương
văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu, Trịnh đình
Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú. Tổng trưởng
ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng. Tổng
trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo. Tổng
trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng.
Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của
MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ,
Huỳnh tấn Phát, Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh
mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.
Hai
mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận
động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân
chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên
Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn.
KẾ HOẠCH THỨ HAI:
-
"Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội này còn bao nhiêu
người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc
bao lâu?
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.
-
"Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình
cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn
đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay
đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng
còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn này mặc cả cho thế đứng của
phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực
ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ.
Trong
khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lãnh có
khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa chưa thể
thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng
bằng cách nào đây.
KẾ HOẠCH THỨ BA:
Cùng
lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng
tuyên bố sẵn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã
hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.
Trung
Quốc sẽ chụp lấy cơ hội này để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ
cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay
trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch này đánh phủ đầu
Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền
(một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân
Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).
Đi
từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng
bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưỡng ép Hànội vào bàn
hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.
Quả
thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại
Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay
cộng sản. Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp
được là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.
Tôi
cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên
MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo
của Bắc Việt. Họ chạy theo Hà Nội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị
bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền
Miền Nam thì phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.
Bà
Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng
chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp
Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: "Miền Nam
Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống
nhất hai miền Nam Bắc." Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng
Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ
hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình
bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.
Nước
Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa
giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ
quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ
kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông
nghiệp, nhân đạo v.v... tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ
trước đây.
Bấy
nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn
Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam
không nhuộm đỏ màu cờ.
Đại
tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày
cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẵn sàng thực hiện theo quan điểm của
chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:
- "Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?"
-
"Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi
là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại
tướng có một kế hoạch không để mất Sài Gòn."
Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy.
Chúng
tôi chưa nhận lời yêu cầu này. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì
chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo
guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ
rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài
trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ
phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ
chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không
phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền
lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản." Có sự
hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng
sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần
chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay
nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu
lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi
thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản
công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Cụ
Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế
hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tinh thần chống cộng sắt đá của
cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên
những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp này sẽ
đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam
Cộng Hòa không thua một cách mất mặt.
Tổng thống Trần văn Hương trước và sau 30/4/1975 (hình chụp tại nhà riêng tại Sài Gòn)
Mười
năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ
các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì
có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam.
Tôi
kính mến cụ Trần văn Hương, người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua
lẩm cẩm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống
chết cho lý tưởng, can đảm trước mọi tình huống. Năm 1976, nghe cụ bị
bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh
sự Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm quyền Hà Nội cho cụ sang Pháp
chữa bệnh. Hà Nội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã
hội, sẽ không làm khó dễ trong việc cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ
chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam. Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói
năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui
đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời
hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo nước mình." Cụ Trần
văn Hương đã giữ lời hứa.
Đại
tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc này,
về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương
văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng
Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng này giữ vững các vị trí phòng thủ
để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên
kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên
lạc với người em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói
chuyện thẳng với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ
tư cách đại diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam. Từ chỗ móc nối sai
lệch, tình thế đã xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình
Việt Nam.
(Ghi
chú của dịch giả: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ
là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật
quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh
trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được
lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm
tỉnh Ban mê thuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng
tướng vì lý do thể diện chăng? Sau 30/4/75 chỉ mới là trung tá).
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI:
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:
- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây."
Tôi
chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái
độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí
danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh
từng tiếng:
-
"Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra
lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn
cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện
với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ,
chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp
là không tiếp xúc với hạng người bí mật."
B2
xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của
ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện.
Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh."
Thì
ra là Lê đức Thọ, con người khuynh đảo trong các cuộc hòa đàm Paris.
Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp
mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân,
Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ
máy chiến tranh tại Miền Nam. Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và
đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì
biết thì CIA cũng biết.
Tôi nói:
Tôi nói:
-
"Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao
nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt
được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến
chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết
chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’
Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xả láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:
-
"Quyết định của đảng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai
miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít".
-
"Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh
cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đảng cộng sản Việt Nam nói
tới?"
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ này ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm):
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ này ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm):
-
"Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu
của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đảng và nhân dân chúng
tôi tiếp tục sự nghiệp đánh bọn ngoại xâm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu
này từ lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ
ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đảm với ông đại sứ là do bọn tay sai
ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi,
chớ không phải lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông
đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa
giải nào với bất cứ đảng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định
của chúng tôi là để thắng chớ không phải để hòa giải."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp này thì vị trí của MTGPMN ở đâu?"
-
"Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ
bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn".
-
"Nếu đúng như thế, MTGPMN không phải là một thực thể riêng biệt, tách
rời quyền lực Hà Nội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa
gạt dư luận quốc tế."
-
"Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu
dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối
với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang
giao trong tình hữu nghị giữa hai nước."
- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao?
-
"Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải
phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung
Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay
bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp
tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến
thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam, thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào
Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam."
- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"
-
"Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt
giữa hai nước. Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam. Pháp đừng nên gây hấn
với Việt Nam bằng giải pháp trung lập này nọ, cũng đừng nên chen vào nội
bộ của chúng tôi."
-
"Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là
Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao
với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi, bù lại xin
ông và đảng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số
tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam và 200 triệu viện trợ nhân
đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị
bác bỏ một cách vô nhân đạo."
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần này vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần này vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Thật
ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh này do tập đoàn Hà Nội quản
lý từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng
của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam
bằng lá bài quân sự.
Sự
kiện này đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh
đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời
gian mặc cả.
Tôi
rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng
trận. Lê đức Thọ là một điển hình. Năm 1964 Thọ đã từng xin chúng tôi
giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất
cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang
ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn
Việt Nam có hòa bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham
dự, Hà Nội đã bạc ơn từ chối.
Khi
xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ
chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi
thẳng vô phòng tôi nói:
- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai".
Tôi
gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75, Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho
công an xét va li và bắt tôi phải ra Hà Nội trước khi về Pháp. Tôi phản
đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok
thay vì ra Hà Nội.
Hành
động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một
giá rất đắt. Tổng số ngân quỹ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết
định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho Hà Nội
một cắc nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975
Chiều
ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn
tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai
nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông
Đinh bá Thi (ông này bị Hà Nội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại
vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu
tình báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của
chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào
tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.
CÁC TƯỚNG LÃNH BỊ NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU:
Chứng
cớ mà Trần văn Trà lấn quyền Hà Nội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được
thể hiện ngay sau ngày 30/4/75. Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành
lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy
lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một
mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản,
còn MTGPMN cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiệp danh vọng cá nhân.
Hà Nội có Nga Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT
là những chánh trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị
thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác
(hay thanh trừng) trong thầm lặng.
Dựa
theo quan niệm "còn nước còn tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào
có thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối
của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75, chúng tôi họp với các tướng
lãnh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre
Bodet. Các tướng này đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các
tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại
Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.
Qua
lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong
trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng
tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles
yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho
tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác
trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang
lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý
đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày
29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông,
yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho
binh sĩ. Ông hứa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn
thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện này. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là
một tướng lãnh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập
sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng
sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát.
Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn:
(1) Giai đoạn 1 -
Rút phân nửa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát, những binh
đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, và các binh chủng
thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên các
tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực
lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.
Phân
nửa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho
các trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân
khu 4. Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ
trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết
bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ
đễ tàn phá.
(2) Giai đoạn 2 -
Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã mất và chờ
quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ lưu vong
Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm dứt. Các
tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được
xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.
Các
tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy
khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do
Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tự Do.
Sáng ngày 28/4/75, tôi chuyển hết kế hoạch này cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?
Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên:
- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, Hà Nội tung hết quân, bỏ ngỏ Hà Nội. Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt thì lập tức Hà Nội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.
- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Căn cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng.
Trong
7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng khác?
Chúng tôi đưa ra sự kiện này nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản
Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.
Kinh
nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình
trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng
viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi
đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy
quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại
yêu cầu các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế gấp rút kiểm tra
lại tổng số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư
luận. Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc
tịch Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả
21.000 người này sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng
người, chúng tôi sẽ gởi cho Hà Nội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm
những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp
trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong
các cơ sở tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều
kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con
cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp
tất cả 80.000 người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh
phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì
công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm v.v...
Chiều
28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam. Sau đó khi
trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4 tạm
thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương văn
Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công, nhưng Dương
văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư
thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở
với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi
đánh nhẹ thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ này mà bức màng chánh
trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn
bờ mà không cho đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4
chúng tôi không thua. Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc
chúng tôi phải thua."
Sáng
ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước cho giặc",
tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu
nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ được danh
dự là chưa mất mát nhiều."
Trời
đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ
ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại
tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người
này không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như
thế.
Tôi
lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là
trung tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi
hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia."
Bỗng
nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh
lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá
Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi
thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan
cũng không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc
Việt. Công việc này không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh
giầy 10 tuổi cũng làm được.
Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau!
Những
gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế
hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan
hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trễ
phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng
chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong
nhục nhã.
Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.
(Lời
dịch giả.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho đến
ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đũa, không
mất một cành hoa, một bụi cỏ nào.
Khi
ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự
do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỷ
vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các
thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở
đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử
giữ gìn và quản lý, đến giờ này không một tên cộng sản nào dám đụng
đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập
niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam).
Ngày
29/4/1975, 8:00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần
văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự
hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông
phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5:
Lúc
phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok, tôi nhìn xuống
Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi
thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại
trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một
người bạn đã không chia xẻ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh
chịu hết tất cả... trong những ngày sắp tới.
Việt
Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt
đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở
này. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền
làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi
xin lỗi người Việt Nam. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được
nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên
với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm
giao.
Năm
1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ
chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi
trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ
hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba?
Người
cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại
cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như
vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền
chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài
người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng
Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn
nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi
lớn là đã lường gạt Tây Phương…
Sau
hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa
thua cộng sản. Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Jean-Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
*Bài đọc thêm:
Ba nhân cách lớn của cụ Trần Văn Hương
1
– Ngày 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường
Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại Sứ Martin
nói: – Thưa tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh
chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất
cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà tổng thống muốn. Chính
phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương
vị tổng thống cho đến ngày tổng thống “trăm tuổi già”.
Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời: Thưa
ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi
như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến
mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và
quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được
Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền
Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại
để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của
người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.
Khi
nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ
cũng có phần trách nhiệm trong đó), Đại Sứ Martin giật mình nhìn trân
trân Cụ Trần Văn Hương. Năm 1980, Cụ Hương thuật lại: Dứt câu chuyện,
“on se sépare sans même se serrer la main” (Giáo Sư Nguyễn Ngọc An. Cụ
Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày).
2
– Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại “quyền công dân” cho ông Dương
Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem hình ảnh
và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng Thống” Dương Văn Minh đang “hồ hỡi
phấn khởi” đi bầu quốc hội “đảng cử dân bầu” của Cộng Sản.
Cụ
Trần Văn Hương cũng được Cộng Sản trả lại “quyền công dân” nhưng Cụ đã
từ chối. Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương đã gửi bức thư
sau đây đến các cấp lãnh đạo chính quyền Cộng Sản: “…hiện
nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhân viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó
Thủ Tướng, Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh, Quân Nhân Công Chức các cấp
các Chính Trị Gia, các vị Lãnh Đạo Tôn Giáo, Đảng Phái đang bị tập trung
cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được về.
Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin
lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ
là những người chỉ biết thừa hành mệnh lệnh cấp trên, họ không có tội
gì cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn
xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết,
chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người
cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi”.
3
– Sau cùng, trong hoàn cảnh cơ cực của thời đất nước bị đô hộ bởi miền
Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, các đại sứ của các nước Pháp, Úc cho người đến
thăm Cụ và cho biết họ có thể can thiệp với Cộng Sản cho Cụ ra khỏi nước
với lý do đi trị bệnh, nhưng cụ tiếp tục từ chối, cương quyết ở lại chia sẻ cùng dân quân Miền Nam sự tủi nhục và nghèo đói dưới gông cùm Cộng Sản.
Xin nghiêng mình trước tiết tháo của một nhân sĩ miền Nam Việt Nam!
Khi
Cụ qua đời, đám tang được tổ chức tại nhà do chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa cấp trong hẻm 210 đường Phan Thanh Giản, bên cạnh trường Marie
Curie. Có một sự kiện thú vị cũng cần nên kể ra nơi đây là anh con trai
trưởng của Cụ là Trần Văn Dõi đi ra phường để xin phép mua một cái hòm
quốc doanh, nhưng bị người tài xế trung thành của Cụ chận ngang, và anh
này chạy vào Chợ Lớn mua một cổ quan tài gỗ với giá 10.000 Ðồng (tiền
Việt Cộng bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho tổng thống Việt Nam Cộng
Hòa nên bớt xuống còn 5.000 đồng mà thôi.
Một
trong những ước nguyện của Cụ là khi chết được chôn ở Nghĩa Trang Quân
Ðội với lễ nghi quân cách của một binh nhì; nhưng việc nầy cũng không
thành. Tuy nhiên một an ủi cho Cụ là được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Ðức,
xéo bên cạnh bức tượng Tiếc Thương, trước sự hiện diện đông đủ của học
trò cùng hầu hết thân hào nhân sĩ miền Nam không quản ngại mạng lưới
công an chằng chịt chung quanh lò thiêu.
Hôm
nay, nhân ngày giỗ Cụ Trần Văn Hương, cúi xin đốt nén hương lòng tưởng
niệm một người con Việt chân chính miền Nam với niềm tin chắc chắn rằng
tuổi trẻ Việt Nam sẽ tiếp nối bước đường Cụ đi và chắc chắn sẽ thành
công trong công cuộc dành lại quê hương từ tay bạo quyền Cộng Sản.
Thành kính xin Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ Việt Nam trong công cuộc giành lại Quê Hương.
Tết Đinh Dậu – 2017
Người con Việt miền Nam
Người con Việt miền Nam