Góp phần biến đổi Việt Nam qua tác phẩm Tình Tự Với Thiên Nhiên Và Cuộc sống
.Thái Công Tụng
.Thái Công Tụng
.
Dẫn nhập
Tất cả đều lưu chảy – Panta Rei, trong dòng biến dịch của hữu thể và
thời gian. Mọi tạo vật theo quy luật phủ định của phủ định, hủy đi rồi
nảy mầm, sinh hoa kết trái trong đa dạng sinh học, tưởng chừng trước sự
biến đổi vô thường qua tư tưởng của Heraclite: “Không ai tắm hai lần
trên cùng một dòng sông”.
Như vòng biến của dòng sinh thái theo triết gia Nietzche “Cuộc đời là
sự chuyển tiếp và suy tàn”, nhưng nơi đây sự kết tinh đặc thù trong
dòng chảy từ những dữ liệu thật khoa học mang lại những giá trị phổ quát
về môi trường nhằm biến đổi thiên nhiên mang bộ mặt con người, như
triết Kant từ những cảm nghiệm thường nghiệm trong cuộc sống với phương
pháp thực nghiệm đưa đến những tri thức khoa học, viên mãn trong cái đẹp
‘eithesos’ – mỹ học mang tính nhân văn qua nhũng bài viết của nhà môi
trường học Giáo sư Tiến sĩ Thái Công Tụng.
I. Đất và con người
II. Nước và con người
III. Lửa và con người
IV. Gió và con người
V. Biển và con người
VI. Rừng và con người
VII. Thế giới thực vật quanh ta
VIII. Hỡi anh đi đường cái quan
IX. Làng mạc và nông nghiệp Việt Nam
X. Môi trường và sức khỏe người lớn tuổi
XI. Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo
XII. Đa dạng sinh học qua thơ văn Việt
XIII. Các hệ sinh thái trong truyện Kiều
XIV. Các giá trị Phật học trong truyện Lục Vân Tiên
XV. Gia đình nhìn theo quan điểm hệ thống
XVI. Năng lượng xanh ở Việt Nam
XVII. Tài nguyên tái tạo được tỉnh Thừa Thiên
XVIII. Môi trường và phát triển bền vững
XIX. Non cao tuổi vẫn chưa già
XX. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá
XXI. Biến đổi khí hậu và vấn nạn lương thực toàn cầu
XXII. Từ đồng bằng Trị Thiên đến núi rừng Phi châu
XXIII. Một ngàn ngày trên triền núi Himalaya
XXIV. Hải đảo Haiti và tôi
Biên soạn: Nguyễn Quang
LInk: Amazon.com - Link: http://www.amazon.com/gp/
Trích chương XX. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá
Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá
1.Dẫn nhập về toàn cầu hoá
-Khi trận đá bóng chung kết giữa hai đội Pháp và Ý diễn ra ở Berlin
tháng 7 năm 2006, trước con mắt hàng tỷ người trên thế giới, từ Đông
sang Tây, từ Bắc xuống Nam, ta thấy trong đội cầu Pháp có đến một nửa là
dân da đen và dân Bắc Phi !
-Nghe tin tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của Pháp, thì
hình ảnh một chuyện nào đó mới xảy ra vài phút trước đó ở một nơi xa xăm
trên hành tinh Trái Đất (một xứ nào đó bên Phi Châu, bên Trung Đông,
bên Nam Mỹ ..) thì trên màn truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra
ngay, vừa hình ảnh, vừa tiếng nói.
-Nhìn bảng hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển dễ dàng; đặc biệt Âu châu có Euro
là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du
lịch từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne lại phải thay đổi đồng tiền
sang Mark, sang lire, sang peseta ..
-Bệnh SARS (viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ Đông
Nam Á và qua Canada do sự lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng
-Hàng năm, có chừng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu da,
tôn giáo đến xứ Canada, đến hợp pháp ! Có thể nói mọi xứ từ A (A như
Angola), đến Z (Z như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada, khiến xã
hội Canada càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ trên đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu hoá .
2.Tiến trình của toàn cầu hoá.
-Toàn cầu hoá, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng thực
sự đã có từ lâu đời với Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ
quanh bờ biển Địa Trung Hải, với con đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ
Trung Đông, Cận Đông và Trung Hoa. Việt Nam đã buôn bán với Nhật qua
thành phố Hội An. Các nước Anh, Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị
trưòng buôn bán. Chiến tranh nha phiến Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc
phiện. Đến năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh tế rất lớn, nên nhiều nước
như Mỹ chủ trương bảo hộ thương mãi.
-Chỉ sau đệ nhị thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng cường
hợp tác thương mại. Các nước Âu Châu họp bàn thành lập thị trường chung
qua nhiều giai đoạn:
a.Thoạt đầu là các thoả thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự thấp hơn so với các nước không tham dự.
b. Sau đó tiến đến khu vực mậu dịch tự do (zône de libre échange, free trade area) xoá bỏ các cản trở thương mại giữa các nước thành viên;
c.thứ đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, hài hoà giữa các nước thành viên và chính sách thương mại
d.rồi mới đến thị trường chung (marché commun) có tự do lưu chuyển lao động và vốn giữa các nước,
e.sau đó tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu và hiến pháp Âu châu.
-các nước Đông Âu và Liên Xô cũng lập thị truờng chung COMECON, nhưng
vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 khi Liên Xô và Đông Âu tan rã với
hệ thống xã hội chủ nghĩa thì tổ chức này cũng tan theo.
-các nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10 xứ Đông
Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Singapour, Myanmar (tức Miến Điện). Các xứ này đang tiến dần đến chỗ
giảm thuế quan để giúp hàng hoá cạnh tranh nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh
hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp.
-Bắc Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu
dịch tự do, có nghĩa là giúp các hàng hoá tự do lưu thông giữa nước này
với nước kia, cắt giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan thuế v.v.
Với công nghệ thông tin phát triển như vỡ bờ qua trung gian của hàng
ngàn vệ tinh nhân tạo bay quanh Trái Đất, các trao đổi và liên lạc thông
tin đã giúp thế giới càng ngày càng gần hơn, nhỏ hơn, và là một nhân tố
thúc đẩy sự tự do thương mại giữa các nước, thoạt đầu với Thoả thuận
chung về Thuế quan GATT (General Agreement on Tariff and Trade), tức tiền thân của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO, viết tắt từ World Trade Organization ) ta thấy ngày nay .
Với toàn cầu hoá, các sản phẩm sản xuất ra có một thị trường tiêu thụ rộng lớn
ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm đầu tàu kinh tế kéo theo các
lãnh vực khác; thực vậy, thị trường trong xứ thì nhỏ hẹp, không nhiều
người tiêu thụ. Cũng chính vì Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ
khổng lồ nên các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v. mới đầu tư sản xuất tại
đó nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở Thượng Hải đến các công ty điện tử,
điện thoại vì thị trường càng lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie
d'échelle) làm giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lời lãi nhiều .
Với toàn cầu hoá, các nước quy định phải giảm thuế nhập cảng,
xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, cấp giấy phép xuất-nhập
cảng nên mọi hàng nhập cảng đều rẽ, khiến người tiêu thụ mua sắm thoải
mái.
Với toàn cầu hoá, các đầu tư, các dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, các hàng hoá sẽ được lưu thông tự do hơn, giúp tiêu thụ mạnh hơn.
Toàn cầu hoá có nghĩa là thị trường sẽ tự do trong các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, đầu tư, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải.
Toàn cầu hoá bao gồm nhiều lãnh vực nhưng riêng trong lĩnh vực kinh tế
tài chính, có thể tóm lược trong 4 chữ D sau đây cho dễ nhớ.
3. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá?
31.Délocalisation .
Toàn cầu hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về chất lượng; các xí
nghiệp phải có mặt hàng rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh được trên thị trường
quốc tế.
Thực vậy, trước kia, các nước để bảo hộ sản xuất trong nước nên đánh
thuế nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với các hiệp định tự do
thương mại, mọi mặt hàng đều từ từ giảm thuế xuống hết (0-5%).
Do đó, vào luồng trong sự gia nhập thương mại quốc tế đòi hỏi phải có
các sản phẩm nhiều, chất lượng tốt, giá rẽ mới cạnh tranh được với các
hàng xứ khác. Đó là lí do nhiều xí nghiệp các nước kỹ nghệ tổ chức sản
xuất các cơ phận khác nhau tại các xứ nhân công rẽ như Mexico, Ấn Độ,
Trung Quốc .Thực vậy, trong xe hơi, có thể động cơ sản xuất bên
Nhật, bánh xe ở Mexico, ráp cuối cùng tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ
'chip' chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico, ráp cuối cùng ở
Mỹ v.v.
Ngày nay, không thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các lợi thế so sánh, xem mình có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao ?
Ví dụ : Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất điện rẽ nhất. Mexique
cũng như các hải đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng ấm và đó là một
lợi thế so với Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch
vụ rất phát triển; riêng Việt Nam thì giá nhân công rẽ nên cần có các kỹ
nghệ tận dụng nhân công như may mặc, giày dép ..
Không xứ nào độc lập về kinh tế được hết vì không xứ nào có đủ nguyên
liệu để sản xuất sản phẩm. Máy bay sản xuất ỏ Canada hay ở Mỹ phải có nhôm
mà nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Vùng Chicoutimi tại Quebec có
nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng
bauxit phải lấy từ Jamaica, Haiti, ..Tương tự đồng dùng trong các
giây điện là xuất xứ từ các mỏ bên Chili, Congo v.v. Chiều hướng toàn
cầu hoá là sự phân công lao động trên bình diện quốc tế, ví dụ: sản xuất
sẽ chuyển mạnh vào các nước kém phát triển, còn các nước phát triển cao
sẽ sống nhờ dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng v.v..
3.2 Déréglementation . Sự giải toả các quy lệ
(déréglementation hay deregulation) có nghĩa gỡ bỏ sự can thiệp của nhà
nước, tư hữu hoá những công ty quốc doanh, giúp cải tổ cấu trúc nhân
dụng (labor structure)
3.3. Désintermédiation . Không cần trung gian vì với toàn cầu
hoá, các thông tin có sẵn trên mạng. Các cổ phần, cổ phiếu bán tự do ai
mua vào cũng được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ thuộc
vào truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ hẽm nhờ
máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, sử dụng máy vi tính để
mua, bán, chuyển ngân ..với Web, với e-commerce.Trong lãnh vực mua, bán,
người ta có thể khảo giá vé máy bay, vé xe lửa, đặt chỗ trước khách
sạn, mua vé máy bay qua Internet.Trong lãnh vực nhân sự, con người với
mạng Internet có thể giao cảm, tìm kiếm thông tin dễ dàng nhanh chóng;
các tán gẫu (chat), các thảo luận liên lục địa của các công ty đa quốc
gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet với Webcam: người xin việc có
thể được phỏng vấn ngay trên mạng, không cần bay đến chỗ phỏng vấn.
Trong lãnh vực tài chính, mọi người chỉ cần máy điện toán là có thể mua,
bán cổ phần chứng khoán, các công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền từ
lục địa này sang lục địa khác trong nháy mắt.
3.4. Décloisonnement. Trước kia, các thị trường có hàng rào
mậu dịch (trade barrier) bảo hộ, với toàn cầu hoá, không còn hàng rào
che chở nên thị trường rộng mở, từ hàng hóa đến dịch vụ, đông người tiêu
thụ hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp. Vì các hàng
rào thương mại giữa các nước bị xoá bỏ nên các dòng tài chính di chuyển
dễ dàng, tạo vốn đầu tư cho các nước có môi trường đầu tư tốt, thông
thoáng, có nguồn nhân lực giỏi. Ví dụ: Thỏa thuận bầu trời mở thay thế
cho 21 thỏa thuận hàng không song phương tồn tại trước đó giữa
Washington và các nước châu Âu nên không thể có đường bay trực tiếp đến
nước này. Điểm chính của thỏa thuận này là nó cho phép bất kỳ hãng hàng
không nào của Liên hiệp châu Âu bay từ bất kỳ nơi nào trong khối đến bất
kỳ điểm nào ở Mỹ và bay tiếp sang nước thứ ba và ngược lại. Điều này
trước đây không thể thực hiện được
4. Các cơ hội và thách thức trong toàn cầu hoá .
411. Nói qua về các thử thách :
a/. về nông nghiệp. Mỗi năm, các nước chậm phát triển phải
nhập cảng phân bón, thuốc diệt cỏ, diệt sâu với giá cao hơn, nhưng bán
nông phẩm như gạo, như cà phê với giá rẽ hơn. Như những trận mưa rào
đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là thuộc OCDE (Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế ) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi năm,-xem như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông dân
để họ sản xuất thực phẩm với giá phải chăng và để họ có mức sống tương
đương mức sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình thức như cho vay lãi
xuất rẽ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v. Nhật Bản và Đại Hàn muốn
bảo vệ sản xuất gạo trong nước bằng cách đánh thuế cao trên gạo nhập
cảng. Hai nước này trợ cấp cho nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1
đôla gạo sản xuất ra trong nước thì phải trợ cấp 80 cents cho nông dân.
Pháp, Mỹ, Thụy sĩ v.v. đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các nước này
thặng dư lương thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng
dư lúa mì, thặng dư đậu nành, thặng dư bắp .. ,nên họ phải bán rẽ hay
cho không các nước, đặc biệt là Phi Châu. Nông dân Phi Châu phải ra
thành thị, tạo thêm thất nghiệp và kéo theo bất ổn chính trị .Các nước
chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương thực cho các nước Tây
phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo
nhưng các vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non
còn chưa đủ no. Ấn Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu
dân còn bấp bênh lương thực (tạp chí Le Courrier số 197 Mars/Avril
2003).
Các nước nghèo mà kinh tế nông nghiệp là chủ chốt lại muốn các nước
tiền tiến cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan để có thể xuất cảng
nông sản được:
-đường mía sản xuất ở Bresil rất rẽ nhưng các nước Tây Âu chỉ
muốn nhập cảng đường mía từ các xứ cựu thuộc địa ở miền Caraibes như
Tobago & Trinidad, Barbados v.v.
-bông vải xứ Mali ở Phi Châu không xuất cảng được sang các nước Âu Châu vì mua bông vải ở Mỹ rẽ hơn, vì ở Mỹ, nông dân được trợ cấp.
-gạo Thái Lan không xuất cảng qua Nhật được vì nông dân Nhật cũng được trợ cấp
khi sản xuất gạo. Giá thành sản xuất gạo ở Mỹ năm 2002 là 475USD một
tấn gạo nhưng vì được trợ cấp nên bán ra thế giới vơí giá 275 USD một
tấn do đó bắt buộc các nước xuất cảng gạo như Việt Nam, Thái Lan cũng
phải xuất cảng vói giá đó .
Thực vậy, vấn đề nông nghiệp chính là vấn đề gay cấn nhất trong các
đàm phán tương lai, đặc biệt là ở hội nghị thương mãi họp ở Cancun
(Mexico) năm 2003 vì lập trường khác biệt giữa các xứ.
Như vậy, chính sách thương mại trong toàn cầu hoá phải tăng cường
công bằng xã hội chứ không nên làm tăng hố cách biệt giàu nghèo.
b /Về y tế .Với toàn cầu hoá, sự du lịch, đi lại, nhập cư được
thông thoáng hơn nhưng cùng đó, sự di chuyển các bệnh truyền nhiễm, từ
cúm gà đến bò điên v.v. các bệnh lây lan về tình dục như AIDS cũng nhanh
hơn, gây ra thêm gánh nặng y tế trong khi đó thì lợi tức của các chính
phủ bị giảm do việc cắt giảm thuế quan trên mọi hàng nhập cảng nên kéo
theo giảm chi cho các ngành y tế, giáo dục ..Nhiều thuốc trị bệnh hiểm
nghèo được bảo vệ tác quyền đến hàng chục năm do hiệp định TRIPS viết tắt từ Trade-related aspects of intellectual property rights,
có nghĩa bảo vệ các lãnh vực của quyền sở hữu trí tuệ, do đó Việt Nam
cũng như mọi nước nghèo khác không có quyền sản xuất thuốc đó bán rẽ cho
người đau.
c/ về tệ nạn xã hội . Do di chuyển thông thoáng, các buôn bán
phụ nữ, trẻ em, các tội ác xuyên biên giới như ma tuý, vũ khí, nguy cơ
khủng bố cũng cũng dễ dàng hơn
412. tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng tạo ra những cơ hội : các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ đem vốn liếng, kỹ thuật cao, lối làm việc do
đó các doanh nghiệp trong nước cũng phải cải tổ lối làm việc, cạnh tranh
hơn, sáng tạo hơn nếu không sẽ bị đào thải .
Với toàn cầu hoá, khu vực tư trong nước không bị chèn ép bởi các xí
nghiệp quốc doanh . Toàn cầu hoá đưa thông tin đến mọi nhà, thông tin
khoa học, kinh tế, chính trị ..nên xã hội bắt buộc phải cởi mở hơn, giúp
dân trí cao hơn .
Toàn cầu hoá giúp cho người dân không có huyền thoại như thời
Việt Nam còn dưới bóng Liên Sô, các huyền thoại mà nhà thơ Việt
Phương,-nguyên trợ lý cố Thủ Tướng Cọng sản Phạm Văn Đồng- đã viết sau
này :
..'Ta cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa
Trong hàng ngũ ta chỉ dành cho chỗ yêu thương
Đã chọn con đường đi
Chẳng ai dừng ở giữa MạcTư khoa còn hơn cả thiên đường
Ta nhất quyết đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ
Hình như đây là ý chí, niềm tin, tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao ..'
Toàn cầu hoá về kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước mới xuất cảng được. Nó đòi
hỏi những công nghệ mới, kỹ năng mới, quản lý hiện đại giúp sản xuất có
hiệu qủa hơn, tạo sản phẩm có chất lượng hơn với giá cả rẽ hơn, tạo điều
kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Ngoài ra, nếu các nước kỹ
nghệ như Âu châu hay Mỹ thấy Việt Nam có giá thành quá thấp là họ nghĩ
ngay Việt Nam bán phá giá nên họ đánh thuế nhập cảng cao như Âu Châu
đánh thuế trên giày dép, Mỹ đánh thuế trên tôm v.v.
5.Toàn cầu hoá với Việt Nam
Như vậy, gia nhập vào Tổ chức Thương Mại Thế giới (World Trade
Organization WTO) có nghĩa Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường về
hàng hoá (từ nông phẩm đến xe hơi, hàng hoá điện tử ..) và dịch vụ (y
tế,ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giáo dục, năng lượng ..). Điều này
hàm nghĩa các doanh nghiệp Việt Nam phải ra sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài trong quản lý, trong sản xuất, trong tiếp thị, trong
giá năng lượng, trong giá cước điện thoại, giá thuê đất v.v. để có sản
phẩm rẽ, đẹp và mới, tạo điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều
hơn. Việt Nam có lợi thế nhân công rẽ, phải tạo môi trường đầu tư thuận
lợi,- nghĩa là trong sạch, không tham nhũng- cho những công ty, những
doanh nghiệp ngoài nước đến đầu tư. Thực vậy, càng ngày nhiều doanh
nghiệp các nước kỹ nghệ muốn đầu tư tại các xứ nhân công rẽ hơn. Thực
vậy, lương tháng người thợ ở Việt Nam năm 2005 ở mức 135 Mỹ kim trong
khi tại Thái Lan là 146, Trung Quốc là 163, Malaysia là 205 và
Philippines là176. Như vậy chi phí thấp ở Việt Nam là một lợi thế.. Song
song theo đó, Việt Nam cũng cần đào tạo thêm nguồn nhân lực có kỹ năng
cao để thu hút các ngành có chất xám cao, tạo ra các sản phẩm có giá trị
gia tăng cao, giúp nâng cao mức sống. Ví dụ tại tỉnh Bangalore ở Ấn độ,
có nhiều xí nghiệp Mỹ, Canada đến đầu tư vì xứ này đào tạo nhiều chuyên
viên điện toán giỏi và lương thấp hơn so với kỷ sư các nước kỹ nghệ .
Trong nông nghiệp thì với toàn cầu hoá, khi các cam kết cắt giảm thuế trong AFTA (Asian Free TradeArea)
và WTO được thực hiện thì có nhiều loại nông phẩm sẽ bị nhiều cạnh
tranh hơn: đậu nành, bắp sản xuất tại Việt Nam thì khó cạnh tranh với
nông sản Mỹ vì tại Mỹ, các khảo cứu về bắp, đậu nành rất tiến bộ, tạo ra
nhiều giống cải thiện năng xuất cao. Việt Nam thì quy mô kinh tế sản
xuất manh mún nên giá thành cao. Do đó, Việt Nam phải tìm các lợi thế so
sánh trong nông nghiệp, sản xuất những sản phẩm không bị cạnh tranh với
các nước khác như trái cây nhiệt đới, rau cải tươi, ngư sản, đó là chưa
nói đến phải chuyển đổi nông nghiệp như giảm số nông dân, chuyển từ sản
xuất sang dịch vụ, huấn nghệ lại v.v.
6. Kết luận
Nền kinh tế thế kỷ 21 này là một nền kinh tế xu hướng càng ngày càng
khu vực hoá, toàn cầu hoá với đổi trao, thay vì khai thác và lấn chiếm
như xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi một tinh thần liên đới và trách
nhiệm:
-liên đới giữa các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các
nước kém mở mang với mục đích là để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi
cùng cực triền miên. Trong một nước,
sự tăng trưởng kinh tế do toàn cầu hoá mang lại phải được chia xẻ cho
tất cả mọi người chứ không phải chỉ một bộ phận xã hội. Sự phát triển
kinh tế phải có tính cách bền vững, không phát triển trên nợ nần của các
thế hệ tương lai
-trách nhiệm vì toàn cầu hoá có thể giúp các mặt tiêu cực xã
hội lan nhanh hơn, các tổ chức mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy,
buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng bố do đó mọi xứ có trách nhiệm
hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa trước khi tội phạm xảy ra. Một
nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần có những thể chế, quy
tác, luật pháp, trong đó có việc tăng cường kiểm soát các ngân hàng bằng
giám sát chặt chẽ hơn.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng đồng nhân loại
cũng chìm luôn . Con người như vậy phải tập sống bao dung, bao dung với
tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín ngưỡng nhưng trong một khung
cảnh luật pháp ở đó quyền ăn nói, quyền làm người phải được tôn trọng.
Quyền hành dù là chính trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải đi
đôi với trách nhiệm. Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ
nhiên là quan trọng nhưng còn có các giá trị tâm linh không thể mua hay
đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con nguời không thể đo bằng bit hay byte
mà sự quán chiếu nội tâm để hiểu được bản thân mình có thể còn quan
trọng hơn là biết mọi chuyện trên thế giới trong chớp mắt nhờ Internet.
Các đền đài, các di tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ
quát không thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm
mỹ, huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng mạn chứ
không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như lăng miếu, đền đài có
linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés, avez-vous donc une âme ?
..) .Các giá trị văn hoá phức tạp hơn là các giá trị tài chính. Không
thể xem cái gì cũng là mặt hàng đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là một ví dụ;
khủng bố World Trade Center cũng là một ví dụ khác. Từ vụ 911 này, du
lịch sút kém khiến máy bay không ai đi, nhà hàng không ai đến, do đó
nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay không ai đi nên các hãng sản
xuất máy bay phải sa thải nhân viên v.v. Như vậy các vấn nạn không những
liên hệ với nhau mà lại có sự gia tăng những yếu tố bất định không đoán
trước được, chúng phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián
đoạn, những hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng trưởng các vũ khí nguyên tử tại
các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn v.v. .. .
Nhưng vấn đề cốt lõi lại chính lại là một vấn đề văn hoá: làm sao cho
thế giới không phải là một sân chơi cho các cầu thủ hạng nặng ( các xứ
giàu có) mà là một sân chơi đa dạng trong đó mọi dân tộc tham dự chia xẻ
các khổ đau, các an lạc, các thành qủa, tạo ra một hiền hoà giữa người
và người, một hài hoà giữa người và thiên nhiên, nghĩa là tạo một nền
kinh tế có bộ mặt con nguời, trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất) trong
giải Thiên Hà bao la.
Thái Công Tụng