Sau
351 năm mới tìm thấy ngôi mộ người đã khai sinh ra những mẫu tự Việt Nam
Văn Khang/ Văn
Khố Ức Trai / Đại Học Chiến Tranh Chính Trị VNCH
Nhóm tìm kiếm chụp trước mộ Cha Đắc Lộ
tại Iran
Cha Đắc Lộ 1591 - 1660
Kỷ niệm 354 năm qua đời
của linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ), Người đã khai
sinh ra chữ Việt cho chúng ta đang sử dụng .
Xin cám ơn Người đã cho
chúng ta biết được những mặt chữ tiếng Việt và từ đó chúng ta không còn lệ
thuộc vào chữ viết của giặc Tàu nữa .
Cha Đắc Lộ, một nhà
truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội
Công giáo Việt Nam nói
riêng, "Khi cho Việt Nam
các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Năm 1651 khi chính thức
xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự
điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cha Đắc Lộ đã giải phóng
nước Việt Nam khỏi nô lệ giặc Tàu .
Thật vậy, giống như
Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu
và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới
chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử
nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người
Tàu.
Trong khi đó, người Tàu
của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ
viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam,
nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ.
Với hy vọng có thể tìm
được nơi linh mục trở về với cát bụi, chúng tôi, đoàn Việt Nam đang công tác
tại Iran đã đến Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về phía Nam. Đó là
một ngày đầu năm 2011, một tuần sau lễ Giáng sinh.
Quảng trường Naghsh-i
Jahan của Isfahan
là một trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với kiến trúc tiêu biểu Hồi
giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân loại. Tại thành phố này,
Alexandre de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù trước đó, phần đời chính
của ông là ở Việt Nam.
Chúng tôi đến Isfahan vào một ngày mùa
đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng. Hỏi đường đến một nhà thờ Công giáo nào đó,
chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình. Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank,
nhà thờ thiên chúa lớn nhất Isfahan.
Qua giây phút ngạc
nhiên trước đoàn khách Việt Nam,
cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay, hiếm có du
khách Á đông nào, nhất là từ Việt Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt
tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về lịch sử nhà thờ.
Nằm trong thế giới Hồi
giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo, nhưng vào bên trong,
với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ ngỡ như đang ở một
nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris.
Cha xứ càng ngạc nhiên
hơn khi chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người đã mất cách đây
hơn 350 năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư liệu quý giá.
Cha xứ nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên to khỏe khệ nệ
mang ra một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da nâu ghi chép về
các giáo sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng tột độ, cha và
chúng tôi tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm 1660.
Như vậy, không nghi ngờ
gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm việc những năm
cuối đời. Chúng tôi hỏi: “Thưa cha, liệu có thể tìm thấy mộ của Alexandre de
Rhodes ở đâu không?”.
Cha xứ tận tình chỉ
đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại ô thành phố.
Nghĩa trang nằm dưới
chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán rừng thông, tùng, bách mênh mông,
vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo nhưng không thấy một cây thánh
giá nào.
Chia nhau đi các ngả
tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có ghi rõ tên
Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một cụm ba
ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá lớn nằm
nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến động cuộc
đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét.
Trong ánh nắng ban
trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy dâng lên
trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.