Dân chủ cho Việt Nam
trong khung cảnh
văn hoá ngày hôm nay
GS Nguyễn Đăng Trúc
Trong bối cảnh xã hội của Việt Nam hôm nay chúng ta chứng kiến một số hiện tượng nghịch thường:
- Các định chế xây dựng nên bộ máy cai trị Việt Nam hiện
nay luôn gắn liền tên nước Việt Nam với
thành ngữ dân chủ.
-
Người dân trong và ngoài nước về phần mình låi đấu
tranh đòi dân chủ, mặc nhiên không chấp nhận định chế gọi là dân chủ đang cầm
quyền (và sự kiện nầy không phải là
kinh nghiệm riêng lẽ của xã hội Việt Nam hôm nay, mà là thực trạng xã hội của
các nước trước đây ở trong khối cộng-sản , đặc biệt các nước Đông-Âu).
- Nhân danh quyền bảo vệ truyền thống văn hóa cá biệt của
mỗi vùng địa lý chính trị, một số người khởi xướng chủ trương không nên cổ động
và phát huy nếp sinh hoạt dân chủ tại các nước thuộc văn hóa truyền thống
Á-đông.
Trong khuôn
khổ giới hạn của bài nầy , chúng tôi không đi sâu cào các phân tích lý thuyết,
hoặc truy nguyên tận căn cơ sở tư tưởng nền tảng triết học chống đỡ nội dung của
dân chủ, nhưng chỉ nêu lên một cách ngắn gọn các nhận xét khách quan dựa vào
thực tế lịch sử.
(Để tiện việc đối chiếu và đánh giá thực tế lịch
sử, xin xem các bản trích dẫn tài liệu đính kèm trong phần Phụ- đính)
1- Chế độ cộng sản: một định chế tự xưng dân chủ
1.1- Lý thuyết cộng sản và dân chủ
Trong lý
thuyết cũng như trong thực tế, CS chủ trương đồng thời một lối quan điểm dân
chủ nào đó đi đôi với một thể chế độc tài đảng trị. Hai điểm nghịch lý ấy qui kết trong khẩu hiệu: chuyên chính vô sản.
Sự kết hợp ấy
mặc nhiên được biện minh dựa vào thực tế
lịch sử và giá trị hầu như tiên thiên của tương quan lao động, sản xuất và tiêu
thụ tài vật :
- Vào thời kỳ phát sinh lý
thuyết CS, giới lao động, vô sản chiếm đa
số dân chúng. Dựa vào quan niệm
đa số nầy, chữ dân chủ được Marx, Lênin sử dụng để vận động quyền lực cho giới
vô sản .
- Giá trị con nguời và toàn bộ nhân phẩm hoàn
toàn dựa vào tiêu chuẩn lao động - sản xuất và tiêu thụ tài vật. Chỉ có giới
lao động vô sản là thành phần không những thực thi giá trị toàn vẹn nhân tính
như thế mà còn mang sứ mệnh cứu độ toàn nhân loại trong đó có thành phần thiểu
số sa đọa ( nghĩa là ở bên ngoài giai cấp vô sản). Công cuộc cứu độ ấy còn gọi là cuộc đấu tranh giai cấp, một tiến
trình được xem cần thiết và khách quan của lịch sử nhân loại. Đi vào vận hành
của cuộc đấu tranh nầy, đứng vào phe người bị áp bức (vô sản, lao động), là ta
"làm ra" chân lý, ta hành
động "một cách khoa học" [1][1]
Theo quan
điểm CS, từ điểm khởi đầu và trong suốt vận hành phát triển của lịch sử, chuyên
chính vô sản hay chế độ độc tài đảng trị cũng như chủ trương cách mạng bạo lực không có gì
ngược với nội dung vừa lượng vừa phẩm của dân chủ cả.
1.2- Nhận định
1.21. Ý thức
hệ ảo tưởng
Tiếp theo
Hegel, Marx muốn dựa vào một số tiền đề rất giới hạn để chủ trương một hệ thống
tư tưởng giải thích toàn bộ tư tưởng lịch sử con người cũng như vận hành vũ
trụ. Sau Hegel, lịch sử nhân loại chứng
thực rằng ý thức hệ của Hegel hay của Marx kÿ thực chÌ là cao vọng tuyệt đối hóa suy tư hữu hạn của con người
trước một hiện tượng xã hõi nhất thời thôi.,
Trong ý thức
hệ mác-xít, những luận chứng đồng hóa giới lao động với giai cấp vô sản, xung
đụng giữa các giai cấp như định luật tất yếu của vận hành lịch sử, đặc biệt là
đồng hóa những người nghèo, lao động với một nhóm bạo động muốn nắm chính quyền
gọi là đảng CS..., không những không dựa trên một lý chứng gì nội tại vững chắc
xét về mặt lý thuyết, mà cũng không ăn nhập gì với sinh hoạt thực tế của xã hội
trong hai thế kỷ qua. Chúng ta chỉ nhìn vào lịch sử thực sự đã xảy ra, ngay chỉ
trên bình diện lao động - sản xuất - tiêu thụ của những nước đã áp dụng ý thức
hệ CS để đối chiếu. Ở đây chỉ nêu lên một "sự
kiện lịch sử tiêu biểu đó là Công-đoàn Đoàn-kết" ở Ba-lan trong thập
niên 80, để thấy không thể nào đồng hóa được vận hành lịch sử với đấu tranh
giai cấp, giới lao động và đảng CS, chuyên chính vô sản và sinh hoạt dân chủ
(theo lối hiểu của người dân Ba-lan và nhân loại ngày nay). Một chủ trương lấy
lịch sử và thực tế khách quan làm nền tảng để qui chiếu và hành động như lý
thuyết và chế độ CS không thể nào biện
minh được trước những sự kiện lịch sử trái ngược nầy.
1.22- Một
quan niệm dân chủ quá bất cập
Đề cao giá
trị lao động, với ước mơ xây dựng một xã hội bình đẳng, tự chúng là những giá
trị, những ý hướng tích cực và tốt đẹp. Nhưng giản lược toàn thể phẩm giá con
người vào khuôn khổ lao động - sản xuất - tiêu thụ, cũng như dựa vào tiêu chuẩn
thuần vật chất đó để định chuẩn cách xử sự của con người và cộng đồng xã hội,
thì chủ trương đó quá bất cập. Con người
không chỉ sống bởi bánh mà thôi !...
Thật thế,
không cần phải suy tư quá cao siêu để có thể ý thức được rằng quan điểm dân chủ
gò bó trong khuôn khổ thuần kinh tế (làm
chủ lấy các phương tiện sản xuất, bố trí lao động cũng như phân phối các sản phẩm
tiêu thụ) là một chủ
trương què quặt.
Và nếu tiêu
chuẩn lao động - kinh tế không đủ để thiết định hết toàn bộ nội dung
phẩm chất của dân chủ, thì số lượng người lao động đông đảo cũng không phải là
tiêu chuẩn thiết yếu và nền tảng cho dân chủ.
Các thể chế
dân chủ (ngoài CS) vẫn dựa vào số lượng, nghĩa là dựa vào đa số thành phần cấu tạo nên một cộng
đồng để có những quyết định điều hành cộng đồng ấy. Nhưng quan niệm về số lượng
của hai bên dựa trên những nền tảng văn hoá hoàn toàn khác biệt.
Thật vậy, ý thức hệ CS có hai nội dung khác nhau về
người: Người như Nhân-loại, một ý tưởng
rất trừu tượng hiểu như Một-toàn-thể, mà tất cả các giá trị từ đó phát sinh và
qui về đó; và người cũng là con người cụ thể,
không có giá trị tự nó, không có thể nào "độc lập, tự do" đi
lạc ra ngoài vận hành của ý niệm Nhân loại.
Bấy giờ chúng
ta hiểu được tại sao các cuộc bầu cử trong bất kỳ một chế độ CS nào đều chỉ có
nghĩa là tuyên dương một quyết định của Đảng, được hiểu là hiện thân ý chí của
ý tưởng Nhân loại xét như một Con- người -Tập- thể. Và các cuộc biểu diễn văn
hoá, nghệ thuật, hay bất cứ sinh hoạt nào khác cũng nằm trong khuôn khổ lý luận
nầy: những cuộc diễu hành đồng bộ rợp trời, ca nhạc đồng điệu...
Số lượng trong ý thức hệ CS không phải là dấu chỉ
của sự chọn lựa , ưng thuận trong tự do, độc lập của mỗi người kết dệt thành
cộng đồng như quan niệm dân chủ truyền thống chủ trương. Nhưng là một ý niệm trừu tượng có sẵn hàm ngụ trong con
người Tập-thể và Toàn-thể mà đảng CS độc quyền sử dụng.
Qua lối lý
luận kỳ lạ nầy, ý thức hệ CS không thấy có gì nghịch thường và quai lý khi gắn liền chuyên chính của đảng CS và
dân chủ (được hiểu như tập thể hay
toàn thể trong ý niệm về Người = Nhân lọai).
Dân chủ trong
các chế độ chính trị (ngoài chế độ
CS) mặc nhiên coi con người tự do, tự chủ là trọng tâm. Và chính sự tự do, tự chủ của
mỗi cá nhân là điều kiện nền tảng thiết yếu để một cộng đồng xã hội được phát
sinh và phát triển đúng theo phẩm giá đặc loại của bản tính con người toàn
diện, mà tất cả các chiều kích: thân xác, tâm
lý, xã hội, tinh thần và cuộc sống siêu nhiên, phải được tôn trọng. Chế
độ dân chủ theo nghĩa truyền thống nầy được xem là phương cách thực hiện sự
thuận ý của các cá nhân làm nên cộng đồng. Chế độ ấy, mặc dù còn thiếu sót
nhiều mặt, luôn bị những quyền lực bất nhân lạm dụng, đôi lúc còn làm cho ý
nghĩa dân chủ nguyên sơ mất ý nghĩa, nhưng nói như Winston Churchill chế độ dân
chủ là chế độ ít bất nhân nhất mà nhân loại hôm nay có thể áp dụng. Câu nói đó
nhắc nhở rằng tự nó dân chủ không phải là một bản chất vĩnh viễn, một trong
những ý tưởng tuyệt đối, ảo tưởng mà các ý thức hệ bày vẽ ra; nhưng là một kỷ
thuật điều hành xã hội thích hợp nhất hiện nay, trong khung cảnh văn hóa nhân
loại ở các thế kỷ hiện đại, để thực thi sự thuận ý của những con người bằng
xương bằng thịt làm nên cộng đồng. Giá trị nền tảng, thiết yếu, vĩnh viễn là
phẩm giá con người cụ thể, mỗi người bất kỳ ai, mỗi con người tự chủ và tự do; nhân phẩm đó cao hơn bất cứ một sự
đánh giá, định chuẩn nào của mỗi một triết thuyết, của một nền văn hóa bất cứ
vào thời đại nào.
Do ý thức mặc
nhiên đi kèm với quan niệm dân chủ như thế (khác với dân chủ mác-xít), môt số
phong cách dân chủ đương nhiên phải được triển khai: khiêm tốn; nhìn nhận những
giới hạn của mình và tôn trọng ý kiến của người kể cả những người khác chính
kiến và trong thành phần thiểu số; tinh thần tương dung vượt lên trên những lập
trường độc đoán, tự tôn, quá khích, bài ngoại;
cổ võ và tạo thúận lợi cho những
đổi thay nhân sự, cách tổ chức bộ máy
công quyền; phát triển giáo dục và truyền thông để huy động sự tham gia thiết
thực của mỗi người vào việc quyết định và sinh hoạt cộng đồng; cụ thể hơn cả
xét về mặt chính trị là cổ võ và chấp nhận đương nhiên tính đa nguyên chính
trị.
2- Dân chủ, một thể chế ngoại lai ?
Sau bao nhiêu
năm nhục nhằn dưới sự khống chế của các cường quốc Tây phương, dấu tích khổ đau
đương nhiên còn ghi khắc đây đó trong tâm tình, ngôn ngữ của chúng ta. Chữ
"ngoại lai" tương quan với các biến cố lịch sử nầy như một cái gì
"căn đế xấu xa". Đây đó người ta chê trách, lối tư duy, cách sống,
chế độ chính trị nầy khác là ngoại lai, có nghĩa là hoàn toàn phản lại dân tộc
mình, hoặc hàm ngụ nhiều nội dung tiêu cực khác.
Kỳ thực, tự
bản chất của văn hóa, và ngay cả trong truyền thống văn hóa Việt Nam, chúng ta
bình tĩnh để chân nhận rằng tinh hoa nếp sống văn hóa không phải là xung đột
nhưng là trao đổi, thâu hóa giữa cuộc sống văn hoá chúng ta và các nền
văn hóa khác. Chúng ta không có mặc cảm ngại ngùng gì khi nói văn hoá Việt Nam
thâu hóa và phát triển ba luồng tư tưởng Khổng, Lão, Phật, và sau nầy tư tưởng
Kitô giáo và văn minh Tây phương. Nếu ngoại lai được hiểu là xa lạ với nhân
tính chân thật, hay đi ngược lại với nhân tính theo truyền thống xác quyết con
người là linh ư vạn vật, thì "ngoại lai" ở đây phải dựa
trên tiêu chuÄn nhân phẩm, nhân tính của mọi con người, ở mọi nơi, trong mọi
nước, chứ không dựa trên tiêu chuẩn là dân tộc Việt Nam hay không phải là dân tộc Việt Nam.
(Trong câu chuyện Họ Hồng Bàng
dựng nước, mà hôm nay mọi người Việt đều biết đến và mến chuộng, chúng ta đọc
được sứ điệp văn hóa ở đây qua biểu tượng của các thành ngữ Hồng và Bàng. Hồng là cao cả, to lớn, và Bàng là bao phủ
khắp hết. Hồng Bàng ấy làm sao cao cả, làm sao bao khắp nếu không ôm hết
toàn nhhân loại vào trong bào thai chung của một mẹ! Chủ trương dân tộc tự tôn,
tự mãn, đóng kín quá khích không có nghĩa là phản ảnh tình tự yêu quê hương,
yêu mến đồng bào hay tiếp nối được tinh hoa truyền thống văn hóa Việt Nam. Sau
kinh nghiệm CS ,sau kinh nghiệm quốc gia
quá khích (quốc xã), cần phải can đảm chân
nhận những chủ trương tiêu cực đó như một trang sử đau thương của nhân
loại cần vượt qua).
Gần đây,
trong đầu thập niên 90 khi có những thay đổi dân chủ ở các nước Đông-Âu, một số
nước tại Á châu còn nặng thể chế độc quyền e ngại. Một số vị lãnh đạo tự biện
minh cho lối điều hành quốc sự của mình đã nêu lên rằng: thể chế dân chủ
Tây-phương chỉ có thể áp dụng trong vùng văn hóa Tây-phương, và không thể áp
dụng cho các xứ khác.
Chúng ta nêu
lên hai điểm: dựa trên kinh nghiệm lịch
sử và dựa trên phương thức áp dụng:
- Về kinh nghiệm lịch sử, ngay giữa lòng
Âu-châu là nơi phát xuất các cuộc cách
mạng dân chủ, trong một thời gian rất lâu, giáo quyền Công giáo cũng không thể
quan niệm được rằng, thể chế dân chủ có thể ứng dụng hữu hiệu để điều hành xã
hội một cách tốt đẹp [2][2]. Thế nhưng trong thế kỷ 20 vừa qua, Giáo-hội ấy đã là
một trong những tác nhân cổ võ cho dân chủ; và thực tế các nước ảnh hưởng văn
hóa Kitô giáo đã ứng dụng đứng đắn thể chế dân chủ nầy.
Mặc dù có rất
nhiều dị biệt văn hóa và phương cách biểu lộ, Tây-phương và Đông Nam-Á
(ĐNÁ) cũng có nhiều tương đồng về quan
điểm xây dựng tổ chức cộng đồng trước khi có cuộc cách mạng dân chủ. Tây-phương
cũng có những đế quốc, chế độ phong kiến, các định chế quốc gia, các thể chế
quân chủ... Họ đã không nại đến một truyền thống biện minh cho sự chính đáng của thể chế quân
chủ trước đó để chận đứng bước tiến của
lịch sử. Thử hỏi, vùng ĐNÁ nhân danh truyền thống nào để tiếp nhận các kỹ thuật
khoa học và ngay cả các ý thức hệ như
CS, và loại trừ tinh thần và thể chế dân chủ hiện nay?
- Việc áp dụng chế độ dân chủ đã từng
được thực hiện một cách uyển chuyển ngay tại từng nước, từng vùng, từng thời kỳ
lịch sử khác nhau với những mô thức khác nhau. Nhưng đằng sau những chính thể
dân chủ dị biệt, luôn luôn có những yếu tố căn bản làm mẫu số chung, đó là tinh
thần dân chủ, nghĩa là sự tôn trọng nhân phẩm, tự do, dân chủ, bình đẳng của
mỗi thành phần làm nên cộng đồng và các định chế bảo đảm cho tinh thần dân chủ
tồn tại và phát triển. Một số các
vị lãnh đạo tại vùng Đông Nam-Á đã hiểu
chế độ dân chủ trong khuôn khổ nào đây để bài bác chế độ dân chủ đang được thế
giới áp dụng và cổ võ thiện nay? Việc bài xích nầy sẽ mặc nhiên chối bỏ giá trị
của tinh thần dân chủ, việc tôn trọng nhân phẩm và quyền tự do, bình đảng của
mỗi người dân, cũng như một số định chế đương nhiên phải đi kèm, như việc phổ
thông bầu phiếu, tính cách đa nguyên trong chính trị, phát triển văn hóa giáo
dục, điều kiện để người dân tự quyết định thay đổi giới lãnh đạo... [3][3], hay chỉ muốn nói đến một thể chế dân chủ nhất
định nào đó của một nước Tây-phương?
"Đồng qui như thù đồ", tính tương cận,
tập tương viễn", những khác biệt về ứng dụng và diễn tả các nội dung
văn hóa, không có nghĩa là tự căn có những chân lý khác nhau trong phần tinh
hoa của các nền văn hóa nhân loại. Tinh thần dân chủ không phát sinh từ một
sáng kiến của một thời đại, nhưng bắt nguồn và xây dựng trên việc nhìn nhận
nhân phẩm và tự do của mọi người. Truyền thống văn hóa ĐNÁ, truyền thống
một dân tộc nào tại đây, trong đó có Việt Nam, không thể nhân danh một tập tục,
cơ chế của quá khứ để phi bác tinh thần dân chủ, nghĩa là việc tôn trọng phẩm
giá của mỗi con người.
Còn nếu phi
bác chế độ dân chủ dựa vào một mô thức cá biệt của một nước, một giai đoạn lịch
sử nào đó, thì lối phát biểu nầy như không cần biết đến việc ứng dụng một cách
nghệ thuật, uyển chuyển các định chế dân chủ mà các nước trên thế giới (mỗi
nước có những quá khứ lịch sử, những tập quán, những nếp văn minh riêng) đã
thực hiện.
3- Dân chủ và Văn hóa
Tuy nhiên,
lời phát biểu bất cập nầy của các nhà lãnh đạo ĐNÁ nhắc nhở chúng ta rằng, nói đến dân chủ, đòi
hỏi và thực thi dân chủ không phải chỉ là vấn đề kỷ thuật điều hành thuộc lãnh
vực chính trị. Cổ võ và xây dựng dân chủ không phải là nhập cảng hay đúc ráp
một máy bơm mới hay chế tạo một chiếc xe hơi. Dân chủ trước hết phải được xây
dựng trên văn hóa.
- Không cắm
sâu vào bề sâu văn hóa để nhận chân được gía trị nhân phẩm của mỗi người, thì
thể chế dân chủ chỉ là một trò bịp. Phương thức đồng thuận, ủy quyền dựa vào đa
số trong chế độ dân chủ là con dao hai lưỡi: hơn bao giờ hết các quyền lực phe
nhóm có thể tận dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, các kỹ xảo vận
động tâm lý quần chúng... để nắm lấy vận mệnh của cộng đồng bất chấp ước vọng
của người dân.
- Một nền dân
chủ thật sự đòi hỏi giáo dục về văn hóa để mỗi một người dân có thể sử dụng hữu
hiệu quyền tự do của mình. Làm sao người
dân tham gia được vào việc điều hành cộng đồng khi hiểu biết về mọi mặt còn quá
sơ đẳng? Câu châm ngôn từ xưa nay vẫn còn nói "dân nào thì vua đó"; do đó, dân chủ không thể tách rời khỏi
dân trí. Vào đầu thế kỷ 20, các nhà cách mạng của chúng ta đã am tường điểm nầy
khi đề xuất các phong trào phát triển dân trí để sớm thực hiện dân chủ.
- Và cuối
cùng văn hóa gắn liền cho dân chủ, khi bước nhập môn của bất cứ nền văn hóa nào
cũng nhắc nhở : "hãy tự biết mình và
sửa mình". Dân chủ không phải chỉ là đòi hỏi kẻ khác phải thực thi các
bổn phận đáp ứng với quyền lợi của mình. Dân chủ còn là ý thức bổn phận của
mình, của nhà mình, của đảng mình, của nước mình đối với kẻ khác.
Bên cạnh nổ
lực chính trị, đãu tranh để có ngay một cơ chế dân chủ cho Việt Nam, cần thiết
và tích cực hơn nữa là thực hiện dân chủ trong khuôn khổ nhà mình. Vì mọi người
chúng ta đều biết : không ai cho điều
mình không có.
________
Phụ-đính
A- Một lối
định nghĩa "dân chủ" có tính cách phổ thông
- Dân chủ : nguyên tự của tiếng gốc Hy lạp:
démocratie - demos = dân; kratos : quyền hành
Thể chế dân chủ : chính quyền của dân do dân; chủ quyền của nhân dân.
* Nội dung tóm gọn của các bộ tự điển
Theo nghĩa
hẹp, dân chủ là việc hành xử (trực
tiếp hoặc gián tiếp) quyền hành xã hội do nhân
dân.
Lề lối tổ
chức chính trị nầy mặc nhiên đi đôi với một cộng đồng xã hội (quốc gia, hoặc liên quốc gia, hay quốc tế) trong đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và có
những quyền hạn y như nhau. Những quyền lợi cá biệt dành cho một số công dân
phải được các thành phần xã hội chuẩn nhận (minh nhiên hoặc mặc nhiên), vì trách vụ hoặc bổn phận đặc biệt; nhưng mọi công dân không phân
biệt đều có thể được ủy thác những quyền
hạn nầy: mọi người dân đều có thể tham gia vào các chức năng điều hành cộng
đồng; không một điều luật, một thói quen hay một lối xử sự nào ngăn cản tận căn
khả năng tham gia vào các trách vụ xã hội của mọi người dân, hoặc thiết định
một lớp người cai trị và một lớp người bị trị riêng biệt.
Thể chế dân
chủ tất yếu phải thực hiện và phát triển một số định chế tương hợp:
Mọi nền dân
chủ phải chống lại các hình thức nô lệ. Người công dân cần được hỗ trợ để tài
bồi cuộc sống tinh thần và đạo đức, có đủ khả năng để thực thi một cách hữu
hiệu và trách nhiệm các phần vụ được cộng đồng trao phó.
Do đó, một
nước dân chủ có bổn phận phải thực hiện các định chế cần thiết :
1- Các cơ sở đào tạo và giáo dục.
2- Các cơ sở xã hội và liên đới, nhắm xóa giảm các
ngăn cách xã hội ngược lại với đòi hỏi về
bình đẳng của mọi công dân.
3- Hình thức chính quyền dân chủ, nghĩa là lề lối tổ
chức cộng hòa và phổ thong bầu phiếu.
4- Cổ súy tinh thần dân chủ, phát
triển văn hóa dân chủ. Đây là điều kiện quan trọng hơn cả cơ cấu tổ chức nhất
thời nào đó. Vì không thấm nhuần tinh thần dân chủ và phát triển văn hóa dân
chủ, thì người ta có thể nhân danh đa số
hoặc nhân danh một ít chiêu bài ý hệ
nhất thờI, lạm dụng các phương tiện
truyền thông các lề lối tổ chức dân chủ, để lừa bịp dư luận, dấy lên môt loại
bạo quyền ghê rợn hơn các thể chế "Thần quyền, quân chủ, độc tài..."
trước đây.
B- Dân chủ và nhân quyền trong xã hội hiện nay
Quyền tham
gia
Mọi công dân có quyền tham gia vào đời sống cộng
đồng: đó là xác tín được mọi người chia sẻ. Tuy vậy, quyền đó không còn nghĩa gì khi tiến trình dân chủ mất hết sức
năng động của nó do nạn phe phái và các hiện tượng tham nhũng không những chúng
ngăn cản việc tham gia chính đáng vào việc hành xử chính quyền, mà còn chận
đứng việc sử dụng một cách công bằng các tiện ích và phục vụ công cộng ngay cả
các cuộc bầu cử cũng có thể bị tráo trở để tạo phần thắng riêng cho một số đảng
phái hoặc một số người. Đây là làm tổn thương cho dân chủ, đưa đến những hậu
quả gia trọng. Người công dân không những có quyền mà còn có bổn phận tham gia;
khi họ bị ngăn cản không thực hiện được quyền và bổn phận nầy, thì họ mất đi hy
vọng có thể can thiệp một cách hữu hiệu và đi vào tình trạng thờ ơ thụ động.
Việc phát triển một hệ thống dân chủ lành mạnh bấy giờ trở nên bất cập thực sự.
Gần đây,
nhiều biện pháp khác nhau được áp dụng để thực hiện những cuộc bầu cử chính
đáng trong các nước đã gian khổ, cố gắng vất bỏ chế độ độc tài chuyên chế bước
qua một chế độ dân chủ. Hẳn nhiên, những nổ lực đó hữu ích và hữu hiệu trong
những hoàn cảnh khẩn trương; nhưng còn phải đem lại cho tâm thức người công dân
toàn bộ niềm tin tưởng thành thật có sức đẩy lui một cách dứt khoát các lối thủ
thuật gian trá trong phương thức áp dụng tiến trình dân chủ.
Trong khuôn
khổ cộng đồng quốc tế, các nước và các dân tộc có quyền tham gia những quyết
định thường thay đổi sâu xa nếp sống của họ. Tính cách chuyên môn có tính cách
kỷ thuật của một số vấn đề kinh tế tạo cho người ta có khuynh hướng chỉ bàn
thảo lãnh vực nầy trong các nhóm giới hạn; nguy cơ ở đây là tập trung quyền
chính trị và tài chánh vào tay của một số chính phủ hoặc nhóm quyền lợi hạn
chế. Việc tìm kiếm công ích trên bình diện quóc gia và quốc tế đòi hỏi phải
thực thi rõ rệt quyền của mọi người được tham gia vào các quyền quyết định liên
quan đến họ, ngay cả trong lãnh vực kinh tế.
(Trích Sứ-điệp của Đức Giáo-hoàng Gioan Phaolô II,
nhân ngày Hoà-bình Thế-giới
ngày mồng một tháng giêng năm 1999 "Bí quyết
Hòa-bình ..." - Bản dịch Định Hướng)
C. Dân chủ theo cái nhìn của Học-thuyết Xã-hội Công-giáo
I- Sứ điệp Phúc âm và đời sống xã hội
Với tư cách là chuyên viên về nhân tính, Giáo-hội công giáo qua Học-thuyết
Xã -hội của mình cống hiến toàn bộ những nguyên tắc suy tư và tiêu chuẩn phán
đoán [4][4] cũng như những chỉ dẫn hành
động [5][5] để nhằm đưa đến những thay
đổi sâu xa trước các hoàn cảnh khốn cùng và bất công, phục vụ lợi ích chân thật
của mọi người.
Những nguyên tắc cơ bản
73. Điều răn tối thượng của tình
yêu dẫn đến việc nhìn nhận một cách đầy đủ phẩm giá của mỗi con người, được tác tạo giống hình ảnh Thiên
Chúa. Những quyền
lợi và bổn phận tự nhiên phát sinh từ phẩm giá đó. Trong ánh sáng của chân lý,
con người là hình ảnh Thiên Chúa, sự tự do là giá trị tối thượng thiết yếu của
nhân vị được khai mở trong tất cả chiều kích sâu xa của nó. Các nhân vị là hữu
thể tích cực và trách nhiệm của cuộc sống xã hội [6][6].
Nguyên tắc về liên đới (principe de solidarité) và nguyên tắc về ủy nhiệm (principe de subsidiarité) liên hệ mật thiết với nền tảng
nầy, tức là nhân phẩm.
Nguyên tắc đầu thúc đẩy con người cộng tác với kẻ khác để phục vụ công ích xã hội, ở mọi cấp độ và địa hạt [7][7]. Từ đó ta thấy học thuyết của
Giáo-hội chống lại tất cả các hình thức cá nhân chủ nghĩa trong các lý thuyết
xã hội và chính trị.
Nguyên tắc thứ hai cho thấy quốc gia cũng như xã
hội không bao giờ có thể thay thế được sáng kiến và trách nhiệm của cá nhân
hoặc các đoàn thể trung gian trong các phạm vi sinh hoạt mà họ có thể hành
động, cũng như không thể phá bỏ môi trường và điều kiện cần thiết để họ thực
thi quyền tự do của mình [8][8] . Từ đó ta thấy, học thuyết
xã hội của Giáo-hội chống tại tất cả các hình thức chủ nghĩa tập thể hóa.
Những tiêu chuẩn phán đoán
74. Những nguyên lý nầy đặt nền tảng cho các tiêu chuẩn
để phán đoán khi đối diện với các hoàn cảnh, các cơ cấu và hệ thống xã hội.
Vì vậy
Giáo-hội không ngần ngại lên tiếng tố giác những hoàn cảnh của đời sống xúc
phạm đến nhân phẩm và tự do con người.
Những tiêu chuẩn nầy cũng giúp ta đánh giá các cơ
cấu. Cơ cấu là toàn bộ các định chế và ứng dụng mà người ta chấp nhận hoặc tạo
ra trên bình diện quốc gia và quốc tế để hướng dẫn hoặc tổ chức đời sống kinh
tế, xã hội và chính trị. Tự bản chất cơ cấu cần thiết cho đời sống xã hội,
nhưng thường chúng có khuynh hướng đóng khung cứng ngắt và trở thành những bộ
máy mù quáng hầu như độc lập với ý chí con người, làm tê liệt hoặc làm suy đồi
công cuộc phát triển xã hội, tạo ra bất công. Tuy nhiên con người luôn có khả
năng và trách nhiệm để thay đổi các chế độ đó, chứ không phải nhìn các cơ chế
đó như là một hình thức biểu lộ của một
thứ tất định chủ nghĩa về lịch sử.
Các định chế và luật lệ, một khi thích ứng với luật
tự nhiên và hướng đến công ích, lại là những bảo đảm cho tự do của nhân vị và
làm cho sự tự do đó được triển nở. Người ta không thể cứ lên án các bình diện
chế tài của luật pháp, cũng như sự ổn định của chính phủ xứng hợp với chức phận
của mình. Do đó, ta có thể nói đến cơ chế ghi khắc dấu tích của tội lỗi, nhưng
không thể lên án các cơ chế một cách chung.
Các tiêu chuẩn phán đoán cũng
liên quan đến các hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị. Học thuyết xã hội của Giáo-hội không đề xuất một hệ thống cá biệt nào,
nhưng dưới ánh sáng của các nguyên tắc nền tảng, trước hết nó giúp ta thấy được
trong mức độ nào các hệ thống hiện hành thích hợp hay không thích hợp đói với
những đòi hỏi của nhân phẩm.
Nhân vị có ưu thế trên các cơ chế
75. Hẳn nhiên, Giáo-hội ý thức được sự phức tạp của các vấn đề mà xã hội phải
đương đầu và những khó khăn để tìm ra những giải pháp thích hợp. Tuy nhiên
Giáo-hội nghĩ rằng trước hết cần kêu gọi đến những khả năng siêu nhiên và đạo
lý của con người cũng như sự canh tân trường kỳ cuộc sống nội tâm nếu muốn có
được những thay đổi về kinh tế và xã hội thực sự phục vụ con người.
Việc ưu tiên đề cao các cơ cấu và tổ chức kỹ thuật,
coi thường nhân vị và các đòi hỏi của nhân phẩm là lối phát biểu của một nền
nhân học duy vật đi trái với việc xây
dựng một trật tự xã hội công bằng [9][9].
Tuy nhiên, việc ưu tiên nhìn
nhận sự tự do và hoán cải nội tâm không loại bỏ sự cần thiết phải xúc tiến công
cuộc thay đổi các cơ chế bất công. Vì thế
những ai chịu đựng sự áp bức do quyền lực của tiền tài hoặc chính trị có quyền
hành động để có được những cơ cấu và định chế biết tôn trọng những quyền lợi
của mình, bằng những phương thức mà đạo đức cho phép, việc đó hoàn toàn chính
đáng.
Nhưng phải hiểu rằng các cơ chế được thành lập nhằm
phục vu lợi ích con người, tự chúng một mình không có đủ khả năng để đem lại
mục tiêu mong muốn, cũng như không thể bảo đảm việc thực thi đúng mức. Trong
một vài nước, nạn tham nhũng nơi kẻ cầm quyền, nạn quan liêu cậy quyền phá tán
đời sống lành mạnh của xã hội là một bằng cớ. Đạo đức xã hội bây giờ là điều
kiện cho sức khoẻ của xã hội. Do vậy, cần có sự hối cải, canh tân tâm hồn con
người đồng thời với việc cải tiến các cơ chế, bởi vì tội lỗi là căn nguyên tạo
ra các hoàn cảnh bất công, là hành vi của ý chí phát xuất từ tự do của con
ngươi; đây là ý nghĩa nguyên thủy và thật sự của tội lỗi. Chỉ vì tội lỗi tràn
vào cơ chế, bấy giờ nó mang một ý nghĩa phụ thuộc và gián tiếp, nên ta có thể
gọi hiện tượng đó là "tội lỗi xã hội" [10][10].
Ngoài ra trong tiến trình giải phóng, ta không thể
bỏ quên hoàn cảnh lịch sử của đất nước dân tộc và bản sắc văn hóa của nó. Nên
ta không thể thụ động chấp nhận và lại càng không thể nỗ lực hỗ trợ các nhóm
người chiếm đoạt bộ máy nhà nước bằng vũ lực hoặc đánh lừa dư luận, áp đặt trên
các nước một ý hệ xa lạ đi ngược lại các giá trị văn hóa chân thật của dân tộc
mình [11][11]. Về điểm nầy, cần nhắc
nhở trách nhiệm nặng nề của giới trí
thức trên bình diện đạo lý và chính trị.
Những chỉ dẫn hành động
76. Những nguyên lý căn bản và những tiêu chuẩn phán
đoán soi dẫn các chỉ dẫn hành động: bởi vì công ích của xã hội loài người nhằm
phục vụ con người cụ thể, các phương thế hành động phải xứng hợp với nhân phẩm
con người và xúc tiến việc giáo dục về tự do. Đó là một tiêu chuẩn phán đoán và
hành động chắc chắn. Không thể có được
giải phóng nếu ngay từ đầu các quyền tự do không đuợc tôn trọng.
Cần tố cáo ảo tưởng đem lại bao tàn phá mở đường cho nhiều hình thức vong
nô, ảo tưởng dựa vào bạo lực một cách qui mô được trình bày như là con đường tất yếu phải đi để hướng đến
công cuộc giải phóng. Ta cũng phải tố cáo quyết liệt không kém đối với bạo lực
do những kẻ lắm tiền nhiều của đang đè bẹp kẻ nghèo khổ, việc sử dụng bộ máy
cảnh sát công an một cách hồ đồ, cũng như tất cả các hình thức bạo lực phát
xuất từ hệ thống quyền hành độc tôn của nhà nước. Trong các lãnh vực nầy, cần rút tỉa những bài học của các kinh nghiệm tang
thương mà con người đã phải gánh chịu và còn chứng kiến trong lịch sử của thế
kỷ nầy. Ta cũng không thể chấp nhận thái độ thụ động đồng loã với tội lỗi của
các chính quyền trong một số các cơ chế dân chủ, vì tại các xứ nầy một số lớn
đang sống trong những diều kiện khó mà nói được là thích hợp với những đòi hỏi
về nhân quyền, cá nhân cũng như xã hội đã từng được ghi trong hiến pháp của họ.
Một cuộc đãu tranh cho công lý
77. Khi
hỗ trợ việc thành lập và đẩy mạnh sinh hoạt các hội đoàn, cũng như các công
đoàn để đãu tranh bảo vệ các quyền hạn và lợi ích chính đáng của giới lao động
và xây dựng công lý xã hội, không phải như thế là Giáo-hội chấp nhận lý thuyết
chủ trương lấy đãu tranh giai cấp làm đòn bẩy tạo ra cơ cấu cho cuộc sống xã
hội. Hành động mà Giáo-hội chủ xướng không phải là cuộc đãu tranh của giai cấp
nầy chống lại giai cấp khác nhằm mục tiêu tiêu diệt kẻ đối phương; hành động đó
không phát xuất từ thái độ buông xuôi trước cái mà người ta hiểu là luật tất
yếu của lịch sử. Nhưng nó là một cuộc đãu tranh cao cả và có suy xét nhằm kiến
tạo sự công bằng và liên đới xã hội [12][12]. Người Kitô hữu luôn yêu chuộng đường lối đối thoại và bàn luận với
nhau.
Chúa Kitô đã ban cho chúng ta điều răn yêu mến kẻ thù của chúng ta [13][13]. Sự giải phóng trong tinh thần của Phúc-âm không thể cùng đi với sự hận
thù kẻ khác, dù cá nhân hay tập thể, ngay cả sự thù hận kẻ tình địch của mình.
Huyền thoại cách mạng
78. Những hoàn cảnh bất công trầm trọng cần đến những thay đổi sâu xa và can
cường, xóa bỏ những đặc ân không thể nào biện minh được. Nhưng ai không tín
nhiệm vào con đường cải cách để chủ xướng một huyền thoại cách mạng không những
người đó nuôi ảo vọng về một sự thay đổi ngoạn mục chỉ cần dẹp bỏ một tình
trạng bất công nầy là có ngay một xã hội đày nhân tính hơn, mà còn tiếp tay tạo
ra những chế độ độc tài [14][14]. Đấu tranh chống những hình thức bất công chỉ có nghĩa khi nó hướng đến
việc thiết lập một trật tự xã hội chính trị mới thích hợp với các đòi hỏi của
công lý. Ngay từ đầu
công lý đã phải có mặt trong các giai đoạn thành lập. Nói cách khác, có một nền
đạo lý trong việc sử dụng các phương tiện [15][15].
Giải pháp tối hậu
79. Những nguyên tắc đó phải đặc
biệt áp dụng trong trường hợp tối hậu cần đến đãu tranh võ trang, mà giáo huấn
Giáo-hội định chuẩn như là phương thức cuối cùng nhằm chấm dứt " một sự
độc tài tàn bạo hiển nhiên và kéo dài, vi phạm một cách trầm trọng các quyền
căn bản của con người và làm tổn hại nặng nề công ích của một xứ sở" [16][16]. Dù sao việc
áp dụng cụ thể phương thế nầy chỉ có thể
đặt ra sau khi đã phân tích thật kỹ lưỡng tình hình. Thật ra, với sự phát triển
liên tục các kỹ thuật được sử dụng và vì các mối nguy hiểm quá trầm trọng khi
phải nại đến vũ lực, ngày nay việc mà người ta quen gọi là "chống đối bất bạo động" mở ra một đường lối thích ứng
với các nguyên tắc luân lý và không kém phần kiến hiệu.
Không bao giờ ta có thể chấp
nhận, từ phía kẻ cầm quyền cũng như người chống đối, việc sử dụng các phương
tiện gây tội ác, như giết hại dân chúng, tra tấn, các phương pháp khủng bố và
âm mưu giết hại người khác trong các
cuộc biểu tình của quần chúng. Những chiến dịch bỉ ổi nhằm bôi nhọ, hủy hoại
thân xác hay tổn hại đến tinh thần của bất cứ ai đều không thể nào chấp nhận
được.
Vai trò giáo dân
80. Những vị chăn dắt Giáo-hội
không nên trực tiếp can thiệp vào việc xây dựng chính trị và tổ chức đời sống
xã hội. Phận vụ đó thuộc về ơn gọi của giáo dân. Họ cần hành động theo sáng kiến riêng của mình cùng
với đồng bào của họ [17][17]. Họ phải hoàn thành phận vụ
nầy, ý thức rằng cứu cánh của Giáo-hội là phổ biến Nước Chúa Kitô đẻ tất cả mọi
người được thật sự xếp đặt theo tinh thần của Chúa Kitô [18][18].
Như thế công cuộc cứu độ gắn
chặt với phận vụ cải tiến và nâng cao các điều kiện sinh hoạt của con người
trần thế.
Sự phân biệt giữa trật tự siêu
nhiên của ơn cứu độ và trật tự trần thế của sinh hoạt con người phải được nhìn
từ bên trong ý định duy nhất của Thiên Chúa, là qui kết mọi sự vào Chúa Kitô.
Vì vậy, trong mọi địa hạt đạo đời, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công
dân phải luôn được hướng dẫn bởi ý thức Kitô giáo [19][19].
Hành động xã hội hàm ngụ có
nhiều giải pháp cụ thể nhưng luôn nhắm đến công ich và thích hợp với sứ điệp
của Phúc âm và giáo huấn của Giáo-hội. Phải hành động thế nào để sự khác biệt về quan điểm không làm hại
đến ý nghĩa của sự hợp tác, và tạo ra tình trạng tê liệt không thể sinh hoạt
hoặc hoang mang bất động trong cộng đồng người Kitô hữu.
Sư hướng dẫn
của Giáo-hội qua học thuyết xã hội phải gây hứng khởi để sở đắc các kiến thức
kỹ thuật và khoa học cần thiết. Nó cũng phải giúp ta trau giồi tư cách đạo đức
và đào sâu đời sống siêu nhiên. Khi cống hiến các nguyên tắc và lời khuyên bảo
đạo đức, học thuyết nầy không vì thế mà quên đi việc giáo dục cần thiết để có
được sự cẩn trọng trong chính trị rất cần cho việc cai trị và quản lý các thực
tại của đời sống con người.
II-Những đòi hỏi của Phúc-âm về việc thay đổi sâu xa
Cần thiết phải có sự thay đổi về văn hóa
81. Ngày nay hơn bao giờ hết, Kitô hữu đang chứng kiến
sự thách đố phải cố sự tâm thực hiện nền văn minh tình thương, tóm kết tất cả
gia sản văn hóa đạo đức của Phúc-âm. Phận vụ đó đòi hỏi cần phải suy tư lại mối
tương quan giữa điều răn tối thượng về
tình yêu với trật tự xã hôi cũng như tất cả các nét phức tạp của nó.
Cùng đích
trực tiếp của sâu xa đó là việc kiến tạo thực thi các chương trình hành động
táo bạo nhằm giải phóng từng triệu con người đang bị khống chế bởi hoàn cảnh áp
bức về kinh tế, xã hội và chính trị không thể chịu đựng nổi.
Hành động đó phải bắt đầu bằng
một nổ lực giáo dục thật qui mô, lớn lao: Giáo dục để thích ứng với nền văn
minh lao động, giáo dục hướng đến liên đới, làm sao mọi người cập nhật nội dung
của văn hóa.
(Trích trong Tự-do Kitô-giáo và Giải-phóng - Huấn thị của
Thánh-bộ Đức-tin
Định Hướng Tùng-thư xuất bản, 1993, tr. 100-108)
[1][1] Xem Tự do Kitô giáo và Giải-phóng - Huấn thị
của Thánh-bộ Đức tin, bản dịch Định
Hướng, 1993, tr. 24.
[2][2] Xem Nhân-quyền
và Giáo-hội, Tài liệu của Hội-đồng
Giáo-hoàng "Công-lý và Hòa-bình" - Bản dịch Việt ngữ, Định Hướng,
xb. 1999.
[4][4] Phaolô VI - Tông Thư
Octogesima Adveniens số 4; Gioan-Phaolô II- Diển văn khai mạc Puebla III, 7.
[8][8] Piô XI - Thông điệp Quadragesimo Anno
số 79-80ù; Gioan XXIII - Thông-điệp Mater et Magistra số 138 ; Tđ Pacem in Terris số 74.
[16][16] Phaolô VI - Thông-điệp Populorum Progressio
số 31; Piô XI Thông-điệp Nos es muy
conocida, 208-209.