Tín ngưỡng
trong Truyện
Kiều
Trịnh Khải
Nhân năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng Nhân
Tìm hiểu một
đại tác phẩm như truyện Kiều, chúng ta nên phân chia ra 02 phần :
hình thức và nội dung.Về văn chuơng đã quá nhiều danh nhân khen
tuyệt tác này, tôi xin miễn bàn.
Về Gía trị (*) nội dung, chúng ta có thể mạn
phép tìm hiểu các điểm : tâm lý – chính trị - nhân sinh - đạo đức
– tín nguỡng và tôn giáo v…v…
(*) Đạo Phật và Lão : Hình thức
= Sắc (la forme) ; Nội dung = Không (la
non-forme = vide)
Tuệ giác là Vô Sắc nhưng lại có khả
năng đi tới Giác Ngộ - giải thoát ra khỏi vòng luân hồi.
Đạo Lão : Cái không (le vide) của
cái chai đã đem lại « hữu dụng » cho cái võ ngoại (Sắt = la forme).
Trong bài này chúng tôi xin luận
bàn về một khía cạnh : Tín nguỡng và tôn giáo.
Thời Nhà Nguyễn : Ruớc
Tây vào VN để diệt Tây Sơn Nguyễn Huệ và triều phục Nhà Thanh để đuợc
phong vuơng : học chữ Hán, thi chữ Hán và luật nhà Thanh (Hán tự).
Vì Học, Thi, Luật đều chữ Hán nên Đạo Khổng đã thống tri giới trí thức,
khoa bảng, quan lại và triều đình Đàng Trong …. đi đến làm lu mờ Đạo
Phật rất còn thịnh hành ở Đàng ngoài (Bắc Việt) chưa quên Vua Lê -
Chúa Trịnh.
Truyện Kiều
bị ảnh huởng nặng nề bởi Đạo Khổng. Tinh thần Đạo Khổng đuợc
dặt trong phần « hình nhi thuợng học » đưa đến quan niệm
cực đoan về Trời è « Thái
Cực » (Trời …. Tạo (King Dịch và Lão Tử)) – Luật Trời
(Thiên lý) - Đạo trời - Đức Trời - Lẽ Trời –
Mệnh Trời (Thiên mệnh) - Số Trời …….. nên đã bị lạm dụng
đi đến Con Trời (Thiên tử).
Cùng thời
Truyện Kiều lại thêm Ảnh huởng ít nhiều bởi quan niệm
Trời của Pháp (Thiên Chúa Giáo – Église Catholique).
Vào thời này Nhà Nguyễn nào "triều phục" Nhà Thanh,
nào cúi đầu phủ phục Pháp (Nhờ Pháp Gia Long
mới có khả năng cực kỳ tàn bạo với phe đảng của Nguyễn Huệ) đang
truyền bá tín nguỡng Thiên Chúa Giáo, tất cả đều đặt
ở chữ trời (Thiên) :
sanh ra = do trời định (don de Dieu) hoặc Đức trời
; sống = trời
quyết định (volonté de Dieu) ; khổ sở hoạn nạn = trời muốn (mission
de Dieu) hoặc mệnh trời v. v.......thành công duới hạ thế
hoăc lên thiên đàng = trời chọn (élection
de Dieu). Khi nào không giải thích đuợc
thì lòng trời không thể hiểu đuợc = la volonté de
Dieu est impénétrable.....nếu tỏ ý đối kháng thì sợ bị "nghiêm
trị".
Cùng lúc Đạo Phật bị hai "quyền
lực" trên đè nặng nên đã có suy thoái nhiều mặc dù sỹ phu,
trí thức .... Bắc Hà không phục nhà Nguyễn đã cõng rắn cắn gà
nhà .......cũng có thể Cụ Nguyễn Du đã bị ảnh huởng hoặc chi
phối vì đuợc giao phó nhiệm vụ chính trị (theo GS Vũ Quốc
Thúc) đối với dân Bắc Hà. Trong Truyện Kiều Cụ đã dùng nhiều
danh từ Đạo Phật ( vì dân Bắc Hà) nhưng lại làm dọc gỉa hiểu
lằm Đạo nầy.
Một câu hỏi đuợc đặt ra : Có hậu ý hay không ? Ở
trình độ kiến thức như Cụ đâu có thể vô tình hoặc không thấu triệt
V/Đ ?. Đây cũng là V/Đ Văn Hóa và Chính Trị VN ngày nay mà
chúng ta đuơng bàn. Cụ Nguyễn Du đã pha trộn Nuớc với Lữa
: Triết lý cơ bản Đạo Phật là tất cả đều "tuơng đốỉ"
(le relativisme) vì "vô thuờng"; hai "quyền
lực" trên là "thiên mệnh" (là tuyệt
đối) mọi nguời phải theo (thuyết tiền định =
le déterminisme).
Le déterminisme (Tiền
định) : (*)
Khoa học
đã phủ nhận thuyết này : Năm 1986 trong buổi họp ở
Royal Society và British Academy, nhà vật lý học Sir James
Lighthill đã thú nhận : « Chúng tôi đồng thanh cáo lỗi cùng độc gỉa
trí thức vì đã phổ biến thuyết tiền định của hệ thống chuyển
vận theo lý thuyết Newton. Quan niêm này không còn gía trị nữa đối với
khoa học.
Chúng ta thử tìm hiểu Vì lý do gì ?
Cái luật
thiên nhiên « Vô Thuờng »
khám phá ra bởi Đức Phật cũng giống như định luật trong Kinh Dich –
le Livre du Changement - (cả Khổng và Lão đều dùng để suy luận),
cũng như la loi de l’Attraction Universelle. …
Tất cả vạn
vật đều biến chuyển để đi đến hủy diệt nên Đức Phật đã nói : «
Mọi thành tựu phải đi đến tan rã » ( Il
n’est rien de formé qui ne soit déjà en voie de
dissolution, et que la Vérité seule est éternelle). Selon la
philosophie indienne : « si une Vérité absolue existe,
elle ne pourra jamais ne plus exister ; si elle n’a jamais existé
elle ne connaîtra jamais sa naissance ».
Tất cả khoa
học ngày nay dều chấp nhận quy luật « Vô Thuờng »
này vì vạn vật cho dến tất cả vũ trụ đều hình thành từ
atomes du tableau de Mendeleïev.
Theo Physique Quantique các électrons của atome « Vô Thuờng »
đều chuyển động vĩnh viễn không
bao giờ ngừng. Không có Atome nào hoàn toàn như nhau (02 atomes
identiques), phân tử (molécules).... tất cả mọi vật đều như thế.
Không có nguyên nhân (causes identiques) hoàn toàn như
nhau thì không bao giờ có kết quả như nhau (effets
identiques)
è thuyết tiền định đã mất gía trị tuyệt dối,
Ta nên cần hiểu luật « nhân quả » Đạo Phật (Loi du Karma)
cũng là tuơng đối mà thôi. (*)
Đối vời nguời
thì « Sanh - Bệnh- Lão - Tử » và sẽ đi đến trạng thái (theo Đạo
Lão) : hôi thối – chuơng sình - vữa nát – tan biến. Mỗi giây phút cơ
thể (*) và lý trí ( cái Ngã) chúng ta đều thay đổi. Ta chỉ là
sinh vật thay đổi thuờng xuyên nên gọi là « Vô Ngã ».
(*)
Cơ thể chỉ là một phối hợp tạm muợn của các thành phần « vô định » (phân
tử.. đạm tố v.v..), nó sẽ chuyển đi nơi khác sau cái chết.
Vì « vô
thuờng » Ngã Ta ngày nay không giống ngày qua và cũng chẳng
giống ngày mai.
Ngã Ta lúc
5, …10…20…70 tuổi chẳng bao giời giống nhau cả
Với thời
gian mọi sự, mọi vật đều biến đổi kể cả cái Ngã cho
nên ta chỉ có thể nhận định đuợc giá trị tuơng đối (Q)
không đến đuợc gía trị tuyệt đối (mắt trần).
Ngũ
gíac chỉ nhân định đuợc các trạng thái vạn vật đang biển đổi, chúng
ta cũng sống qua trạng thái biến đổi liên tục… nên chúng ta chỉ nhận
ra sự thật tương đối (irréalité des choses).
Kiếp sau
Ngã Ta sẽ không phải Ngã Ta kiếp nầy ….mà
cũng không phải nguời khác lạ.
Nhưng Truyện Kiều không hiểu theo
vậy :
Nhẹ nhàng nợ truớc đền bồi
duyên sau 2690
Kiếp sau Ta vẫn là TA (kiếp
nầy) và sẽ có khả năng để lựa chọn làm theo ý mình
Kiếp này
duyên đã phụ duyên,
Dạ dài còn biết, sẽ đền lai sinh
Quả thật truyện
Kiều đã đi nguợc giáo lý Đạo Phật. Khổng tử đã nói : « Savoir
qu‘on ne sait pas, c’est savoir ».
2675 Làm cho
sống đọa thác đầy
Đoạn truờng cho hết kiếp này mới thôi.
Chữ « Kiếp »
là một danh từ đặc biệt Đạo Phật dùng để giải thích về « luân
hồi » (Samsara ou la transmigration dans le
temps cyclique *). Theo Đạo Phật Nghiệp nợ là
truyền kiếp chú không phải ở một kiếp.
(*) Luân hồi = chu kỳ (temps
cyclique), trong Thiên Chúa Giáo thời gian là đuờng thẳng (le temps
est linéaire)
Trời trong Đạo Phật
Với gía trị tuyệt đối, không thể phủ nhận đuợc,
của luật Vô Thuờng
thuyết “Tuơng Đối”
(le relativisme)
của Đức Phật chỉ chấp nhận gía trị
tuơng đối do con nguời suy ra,
nhưng luôn luôn tôn trong tuyệt đối
tự do con nguời với trách nhiệm cá nhân.
Cũng vì vậy chúng ta nên đặt nghi
vấn vào mọi sự việc, do ngũ quan
chỉ cho ta nhìn thấy bề ngoài
của vạn vật (l’apparence des apparences
du monde sensible).
Vì đặc tính « vô thuờng » của mọi sự vật,
chúng ta khẳng định rằng : « tất cả
mọi vật có thật phải đi đến tan rã ».
Qua luật “Nhân
Quả” (loi du Karma), theo Đức Phật
không có Thánh - Thần - Trời - Phật
nào dính vào “sinh - sống - bệnh -
tử” của nguời (Le Bouddha a dit :
“l’homme naît seul, vit seul et
meurt seul”) .
Trái lại
Truyện Kiều đã khẳng định mọi sự là tại Trời :
Ngẫm hay
muôn sự tại TRỜI,
TRỜI
kia đã bắt làm người có thân,
Bắt
phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Blaise Pascal, a propos de
l’Existence de Dieu, a écrit :
S'il y a un
Dieu, il est infiniment incompréhensible (1), puisque,
n'ayant ni parties ni bornes (2), il n'a nul rapport à nous (3).
Nous sommes donc incapables de connaître ni ce qu'il est, ni s'il
est (4). Cela étant, qui osera entreprendre de résoudre cette
question ? Ce n'est pas nous, qui n'avons aucun rapport à lui (5).
Khả năng con nguời chỉ có gía trị tuơng đối (Valeurs
Relatives du Domaine du Conditionné), Trời (T=tuơng đối)
mà chúng ta đề ra, tuởng tuợng ra... không có giá trị tuyệt đối
(Valeurs Absolues du Domaine de l’Inconditionné) Do đo Đức Phật
không cho Trời (T) này là TRỜI thật tuyệt đối
(TTD) có nghĩa là Đạo Phật vẫn tin có Trời (TTD) nhưng không
tin Trời (T=tuơng đối). (*)
(*) Vì Giác Ngộ là tuyệt đối nên Trời Tuơng Đối không đem lại lơi
ích gì cho những ai theo Đạo Phật để mong (trong kiếp luân hồi)
đi đến Giác Ngộ - Niết Bán… để trở thành Phật –
gía trị tuyệt đối.
F. Hegel a écrit (La Réalisation de l’Esprit dans l’Histoire) : « On
peut se faire toutes sortes de représentations du royaume de Dieu
(Thiên đàng), mais il s’agit toujours d’un royaume de
Dieu de l’Esprit qui doit se réaliser dans l’homme et qui doit
trouver en lui ses conditions d’existence ».
Nói về « nhân quả » của Đạo Phật,
Truyện Kiều đã gây ra hiểu lầm nặng nề về tuơng phản giữa 02
thuyết : Tiền Định và Tuơng Đối của Đạo Phật :
Túc khiên ( Nghiệp) đã rửa lâng lâng sạch rồi!” 2688
Khi nên trời cũng chiều
nguời.
Chữ Nghiệp
(Karma) gồm có ba loại : Ý Nghiệp – Khẩu Nghiệp – Thân Nghiệp
nghĩa là trong sự sống đã có Nghiệp tiền kiếp * và
Nghiệp hiện kiếp (mỗi lúc ta lại tạo Nghiệp - Freud) vì vậy
Truyện Kiều đã nói « nghiệp rữa sạch…… » là một nhân định sai.
Kiều còn tạo thêm Nghiệp nặng – trả thù tàn ác - và đặt ra cách hành
hình (Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc Bà) :
Máu
rơi thịt nát tan tành, 2389
Ai ai trông
thấy, hồn kinh phách rời.
Cho hay muôn sự tại Trời
(*) Freud : L’inconscient
représente la mémoire du passé oublié de cette vie. Đạo Phật : Nghiệp
tiền, hiện kiếp lúc nào cũng theo ta và nằm trong l’inconscient.
Trong Đạo Phật
chữ Nghiệp là Truyền Kiếp sau cái chết nghiệp vẫn còn,
Truyện Kiều dã làm đọc gỉa hiểu lầm :
Làm cho sống
đọa thác đầy,
Đoạn truờng
cho hết kiếp này mới thôi
Đạo Phật cho
con nguời hoàn toàn tự do vì không có trời, thánh thần dính vào việc
của nguời, nếu hiểu đuợc thì « Tu là chuyển Nghiệp »
là đổi đuợc « Nghiệp - Nhân - Quả ».
Vào lúc kết Cụ Nguyễn Du đã tõ ra
rất hiểu Đạo Phật :
Đã mang cái Nghiệp
vào thân,
Thì đừng
trách lẫn Trời gần Trời xa
Đi nguợc lại
triết lý Nhà Phật, Truyện Kiều đã xem nhân – duyên - quả
đều thuộc phúc trời, đạo trời …. mà không do
quyền tự do và trách nhiệm ở nguời :
2694 Duyên ta mà
cũng phúc trời chi không
Sư rằng: Phúc hoạ đạo
TRỜI,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà
ra.
Theo Đạo Phật vì tin ở Trời (T=tuơng đối) tuởng tuợng
nên nhiều nguời tin vào : Thiên lý - Đức Trời - Mệnh trời - Số Trời
…….. v.v. để gỉai thích, tìm hạnh phúc của cuộc đời (la
résurrection ou le paradis) sau cái chết (la vie après la vie) :
Rỉ rằng: Nhân quả dở
dang,
Ðã toan trốn nợ đoạn tràng được
sao?
Số còn nặng nghiệp má
đào,
Người dù muốn quyết, TRỜI
nào đã cho!
Kết luận. Cụ Nguyễn Du dùng toàn danh từ Bắc Hà và rất nhiều từ ngữ riêng biệt của Đạo Phật nhưng Ông đã lẫn lộn, sai lầm nặng giữa 02 nguyên lý cơ bản : Tiền Định (le déterminisme) và Tuơng Đối (le relativisme) của Đạo Phật do luật. Vô Thuờng Vì muốn tìm hiểu Đạo Phật qua Truyện Kiều, học gỉa và trí thức đã lầm to tát về triết lý này ngoài ra còn bị đưa vào con đuờng tín nguỡng đị đoan qua nhân vật Đạm Tiên.
Đọc gỉa không thấy đâu là từ
bi :
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy, hồn kinh phách rời
……… cũng chỉ thấy tham sân
si :
Lại riêng một lễ với nàng,
Hai tên thể nữ
ngọc vàng nghìn cân
Và các Cụ thuờng
nhắc : « Tu là cội phúc, tình là dây oan », cô Kiều
chỉ biết chạy theo chữ tình :
Lại mang lấy mộy chữ tình
2661
Khư khư mình buộc lấy mình
vào trong
Nếu chúng ta chỉ
đánh gía phần hình thức không thôi thì không khác gì
chỉ nhìn trang trí của một cái bánh mà không thiết đến phẩm chất
và khẩu vị. Tôi xin mạn phép dưa ra điển hình của bài thơ
rất là văn nhã, từ ngữ rất sâu sắc (*) nhưng nội dung
đặt nhiều câu hỏi (nói lái) :
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Chỉ vì một chút tẻo tèo teo
Thuyền Từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(*) Kiếp
tu là cả Đời phải hành Đạo – Thuyền (kẻ tu) từ
do chữ Từ bi - Đối với VN Đức Phật đã xuất hiện ở phia
Tây (Ấn-Độ) và đã giảng kinh ở rừng « Trúc Lâm ».
Cũng với lý do trên một số học gỉa,
trí thức Bắc Hà đã chỉ trích nội dung của Truyện Kiều :
Đàn ông chớ đọc Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều.
Có vài truờng hợp
các Cụ còn chỉ trích nặng nề hơn thập bội nội dung truyện này, tôi
xin mạn phép nhắc lại mấy câu đối (rất hay) và văn chuơng
đẹp tả nội dung (ít đuợc nói đến) truyện Kiều :
Kiếp truớc hẹn hò con đĩ Đạm
Duyên sau gặp gỡ bố cu Từ,
Muời lăm năm ấy đà bao suớng
Oán trách làm chi đứa bán tơ.
Đối chữ : 1.- Kiếp truớc và
Duyên sau là những danh
từ ngữ đặc biệt của Đạo Phật
2.-Bố Cu
và Mẹ Đĩ.
Danh từ ở chốn thôn quê Bắc Vìệt thất
học dùng trong văn chuơng để nói đến sự khinh bỉ : Đạm
Tiên là con đĩ và Từ Hải một
tuớng cuớp chỉ có lòng
Vị Kỷ (*) nên đã chiều lòng
con điếm Thúy Kiều
thiếu lòng Vị Tha (*)
chém giết bừa bãi :
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai
ai trông thấy, hồn kinh phách rời.
cuối cùng anh chàng họ Từ
cũng là nạn nhân vì mê gái (sân,
si) :
Khi thiên khí đã về thần,
Nhân nhơn còn đứng chôn chân gữa vòng.
Vì « sắc »
mà thành « hữu dũng vô mưu » - « thế công Từ mới trở
ra thế hàng » -, dù chết xuống « tuyền đài » cái hận
vẫn chưa tan. Tuớng tá, thuộc hạ, gia đình….bao nhiêu kẽ vô tội
phải chết do sự bội phản của nàng Kiều, vì Hồ Tôn Hiến có 02
đặc quyền (vào thời này) : Tiền trảm hậu tâu – Chu di tam tộc.
(*) Truớc Thuyết Trung Dung
Khổng Tử, bên Trung Hoa đã có 02 truờng phái :
1.- Tổ sư Thuyết Vị Kỷ đã nói : « Dù
nhổ 01 sợi lông chân để cho nguời xung xuớng, Ta cũng không làm »
2.- Tổ sư thuyết Vị Tha đã nói :
« Nếu có thể làm cho thiên hạ xung xuớng, dù phải đi mòn chân đến
đấu gối, Ta cũng làm »
Quá khứ như
tên đã bắn ra, không còn cách nào trở nguợc lại, vì thế Giáo lý
nhà Phật không chấp nhận « hối hận » (la repentance),
« chuộc tội » (le rachat de la faute commise), « tha
tội » (l’absolution), « kẻ khác thế tội » (la
rédemption)… Nghiệp đã tạo thì định luật thiên
nhiên « Nhân - Quả » sẽ hành : Cả nuớc
sông Tiền Đuờng chỉ làm Nghiệp của cô Kiều nặng thêm
vì sự hèn nhát không chịu trả nợ Nghiệp…truyền kiếp truớc
sau cũng phải trả.
Tín Nguỡng trong Truyện Kiều
đã không để lại hậu thế một lý tuởng nào cả về Đạo Phật.
Phật đã dậy : « Theo ta mà
không chịu hiểu ta chỉ là một sỹ nhục đối với ta »