Biên
khảo
Việt Nam đi về đâu?
của Lê Trọng Quát
Hay là ký ức 70 năm lịch sử thăng trầm và tin tưởng của một cựu chính khách trong tương lai đất nước...
- Lê Mộng Nguyên –
Việt Nam đi về đâu?
của Lê Trọng Quát
Hay là ký ức 70 năm lịch sử thăng trầm và tin tưởng của một cựu chính khách trong tương lai đất nước...
- Lê Mộng Nguyên –
Cách
đây không lâu, trước Đại hội nghị Liên Hiệp Quốc
mở đầu khóa hội thường kỳ tháng 09-2003 tại New York,
Tồng thống Pháp Jacques Chirac nói lên sự bất đồng của
ông với Tổng thống Bush về vấn đề Irak (sau chiến
tranh), đã nhấn mạnh vào việc nhà cầm quyền Mỹ hiện
đang chiếm đóng nước người, phải trả lại quyền tự
chủ cho nhân dân sớm chừng nào hay chừng ấy. Tôi sực
nhớ tới năm 1945, lúc nước Pháp vừa mới được giải
phóng và tự do hồi phục sau thế chiến thứ 2 : Nếu lúc
bấy giờ, thay vì quyết định phái quân đội viễn chinh
Pháp trở lại Đông dương vào tháng 09-1945, Thủ tướng
de Gaulle trả lại tự do độc lập cho đồng bào chúng ta
(như Tổng thống Chirac đã bày tỏ ước vọng đối với
Irak), nước VN hiện giờ sẽ như thế nào?
Câu
hỏi thứ hai : Nếu Hoàng đế Bảo Đại không thoái vị
ngày 25 th. 08-1945, nhất định từ chối trao ấn kiếm cho
hai đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại
điện Kiến trung (Huế), Chính phủ Hồ Chí Minh thành lập
ngày 29 th. 08 mặc dầu chính đáng (légitime) sẽ không hợp
pháp (illégal), nước ta bây giờ sẽ như thế nào? Chính
sự thoái vị này đã đưa đẩy Chính phủ Cách Mạng Lâm
Thời của Hồ Chí Minh (với công dân Vĩnh Thụy làm Cố
vấn tối cao) lên chính giới quốc tế, bắt buộc các
lực lượng quốc gia trong nước hoặc phải qui phục Đảng
Cộng sản hoặc phải tự giải tán, các cường quốc
Đồng Minh phải thương nghị với Việt Minh là thành phần
đối thoại duy nhất (sau khi Nhật bản đầu hàng ngày 15
th.8-1945), vân vân. Chúng ta có thể tăng gia nhiều câu hỏi
dựa vào những giả thuyết như đã nói trên... Lịch sử
VN từ 1930 (năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương
do sáng kiến Nguyễn Ái Quốc) cho đến 2002 là một thảm
kịch dài, vô tận, không ngừng...
Lẽ
dĩ nhiên là chúng ta không thể làm lại một lịch sử
rải rác thương đau của cựu Đông Pháp nói chung và của
VN nói riêng, sau khi Phát xít vàng thuộc quân chủ thần
quyền Nhật bản đầu hàng, nhưng viết lịch sử VN với
nhiều tiếc nuối cũng không phải là phương pháp của
ông Lê Trọng Quát, một sử gia thích đáng đã từng đóng
một vai trò quan trọng trong diễn tiến chính trị của
đất nước mình. Từ kinh nghiệm quá khứ, tác giả lấy
bài học cho tương lai, đặt câu hỏi bao hàm ý nghĩa :
Việt Nam Đi Về Đâu? Tâm tình với độc giả, cựu chính
khách Lê Trọng Quát ... đã yên lặng thả hồn trôi về
dĩ vãng để khai bút, khởi sự một cuộc du hành ngược
giòng thời gian. Nối liền những ngày xa xưa với hiện
tại, tôi mong ước tìm ra một lối thoát cho tương lai
của đất nước thân yêu. Một niềm mong ước mà tôi
biết hàng triệu người Việt ở trong và ngoài nước
cũng đang ấp ủ như tôi, thôi thúc bởi nỗi lo sợ trước
viễn ảnh một nước Việt nam càng ngày càng lún sâu
trong một tình trạng băng hoại tinh thần và chậm tiến
trầm trọng (Mấy Lời Tâm Sự).
Thật
vậy ! ông Lê Trọng Quát đã viết theo phương pháp nội
quan (introspection) về những biến chuyển nước nhà từ
1930 đến 2002, cho nên sách của ông được giới thiệu
là một hồi ký chứ không phải là một Việt Nam Sử
Lược như ta thường thấy qua tuyệt tác của học giả
mà cũng là một chính khách, cựu Thủ tướng Trần Trọng
Kim. Trong phương pháp nội quan, người quan sát (tác giả)
vừa là chủ thể (sujet) vừa là khách thể (objet). Tác
giả hành trình qua một đoạn thời gian với tầm mắt
của một quan sát viên nhưng tác giả cũng là một trong
những phần tử của toàn thể được quan sát. Ai cũng
biết rằng một phần lớn của những hiện tượng xã
hộI (phénomènes sociaux) là những hiện tượng của lương
tri (conscience); như vậy thì sự thường là người quan
sát nhìn lịch sử qua sự phản chiếu của chính lương
tâm mình.
Việt
Nam đi về đâu? (QUYỂN I : Mấy lời tâm sự ; Chương 1 :
Giã từ quê hương-Những chân trời mới; Chương 2 : Một
thuở thanh bình nơi chân trời cũ : 1930-1945; Chương 3 :
Thảm kịch Việt Nam mở màn-Cách mạng tháng tám 1945;
Chương 4 : Cuộc chiến thứ nhất 1945-1954. Giải pháp Bảo
Đại. Việt Nam phân chia thành hai miền Nam Bắc. QUYỂN II
- Chương 5 : Cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam dưới
thời đệ I và đệ II Cộng Hòa Việt Nam; Chương 6 : Một
cuộc đổi đời-Miền Nam sau bức màn sắt; Chương 7 :
Con đường kiến quốc phục hưng) của Lê Trọng Quát là
một dấu hỏi của ý thức tác giả về tương lai đất
nước hiện đang quằn quại dưới một chế độ bạo
tàn. Vấn đề chủ quan hay khách quan trong việc trình bày
và dẫn chứng các hiện tượng của lịch sử hiện đại,
sẽ không thành vấn đề. Tác giả cho ta biết đã ... cố
gắng làm sống lại những biến cố và những sự việc
có ý nghĩa, liên quan và ảnh hưởng nhiều đến thời
cuộc đồng thời trình bày những nhận định của tôi
với tư cách người quan sát tình thế hoặc đôi lúc với
cương vị người trong cuộc. Hẳn nhiên khó mà giữ được
một sự khách quan tuyệt đối... Tôi đã cân nhắc thận
trọng trước mỗi lời bình luận để tránh cái bệnh
chủ quan thông thường nhưng dưới con mắt của một số
bạn đọc, căn bệnh tâm lý này chắc vẫn còn vương vấn
phảng phất đâu đây trong những trang sách này... (Mấy
Lời Tâm Sự)
Đi
ngược lại thời gian trở về năm 1959, sau khi giã biệt
Tòa Đại sứ VNCH-Paris mà tôi đã giữ chức Tham vụ
Ngoại giao kinh tế và xã hội từ 1955 đến 1958, đặng ở
lại đô thành Ánh Sáng tiếp tục làm luận án Tiến sĩ
Quốc gia. Nhưng trước đó, tôi muốn đi sâu vào chủ
nghĩa quốc gia VN bằng cách phân tích trong một luận văn
(un mémoire) tất cả Chính sách nhân vị chủ nghĩa của
Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam (La
politique personnaliste du Président Ngô Đình Diệm au
Sud-Vietnam) và kế tiếp Luận án Tiến sĩ Quốc gia (Thèse
de Doctorat dõEtat) với chủ đề rất khoa học chính trị
: Giai cấp xã hội và Phong trào chính trị tại Việt Nam
từ 1919 đến 1939 (Classes sociales et mouvements politiques au
Vietnam de 1919 à 1939) được đề xuất trước Đại Học
Luật Khoa và Kinh Tế Paris ngày 08 th.2-1962 và được Giải
thưởng Luận án (Prix de Thèse) năm 1963.
Vừa
đỗ bằng Luật sư năm 1959, tôi đương làm thủ tục ghi
tên hành nghề cạnh Tòa Thượng Thẩm Paris, thì tình cờ
gặp lại một người bạn (vào khoảng đầu 1960) cùng
học ngày xưa tại trường Trung học Khải Định Huế,
trong một buổi họp chính trị của Cộng đồng VNHN...
Hai chúng tôi (cùng đồng chí hướng quốc gia) đã tâm sự
nhiều về tương lai đất nước. Luật sư Lê Trọng Quát
hồi ấy tuy còn rất trẻ nhưng đã giữ nhiều trách
nhiệm trong Quốc hội và phủ Tổng thống dưới thời
chí sĩ Ngô Đình Diệm (Dân biểu Quốc hội, Trưởng Khối
Liên Minh Xã Hội, Chủ tịch các Ủy Ban Nội Vụ, Quốc
Phòng, Đại diện Tổng thống NĐD trong cuộc bầu cử
1961) :
Tôi
nhớ rõ lần đầu tiên được diện kiến Tổng thống
Diệm, một ngày đầu tháng 10, năm 1959, mườI ba năm sau
khi thân phụ tôi tiên đoán với tôi là ông Ngô Đình
Diệm sẽ lãnh đạo quốc gia như đã kể trước. Chưa
được ba mươi tuổI, vừa đắc cử Dân biểu Quốc hội
tại một đơn vị sát gần Cố đô Huế, nơi tôi hành
nghề luật sư từ 1955, tôi được mời cùng các Dân biểu
mới đắc cử pháp nhiệm 2 vào Dinh Độc Lập để Tổng
thống tiếp kiến. Chúng tôi đang ngồi đợi trong phòng
khách lớn, bỗng nhiên, ông giám đốc nghi lễ Hoàng Thúc
Đàm tiến vào hô lớn : Xin mời luật sư Dân biểu Lê
Trọng Quát và hướng dẫn tôi vào phòng khách kế cận,
nơi Tổng thống đã ngồi sẵn.
Tôi không bối rối vì
được mời đầu tiên, không hiểu vì lý do nào. Khi đi
sâu vào buổI nói chuyện tôi mớI hiểu sở dĩ Tổng
thống Diệm muốn tiếp tôi trước nhất là vì ông muốn
nhắc lại chuyện xưa, hỏi thăm tin tức gia đình tôi rồi
đến tình hình các địa phương mà ông đã trị nhậm
lúc mới ra làm quan ở tỉnh Quảng trị, gần Huế. Ông
nội tôi là một y sĩ có tiếng đã chữa trị cho nhiều
ngườI trong số có các quan chức trong Triều đình kể cả
Thượng thư Ngô Đình Khả, thân phụ của Tổng thống
Diệm. Tuy đã 58 tuổi, Tổng thống Diệm còn rất khỏe,
lanh lẹ, cười tươi khi nói chuyện vui, mắt sáng lộ vẻ
hiền từ, có khi mơ mộng khi ông nhớ đến một kỷ niệm
xưa, một chuyện cũ mà ông ưa thích. Lúc ấy, nụ cười
của ông rất hồn nhiên.
Đấy là nhận xét của tôi qua
cuộc diện kiến đầu tiên với Tổng thống Diệm. Hình
ảnh này không thay đổi nhiều trong những lần sau tôi
được gặp ông, cho đến lần cuối cùng vài tháng trước
cuộc đảo chính tháng 11-1963. Ông dễ tin ngườI, trái
ngược hoàn toàn với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đa
nghi như Tào Tháo, theo nhận xét giống nhau của những
người đã biết ông Thiệu. Sự dễ tin của Tổng thống
Diệm hẳn nhiên đã gây nên những hậu quả cho ông, cho
nhiều người khác, hậu quả tốt hay xấu tùy theo người
mà ông tin cậy có xứng đáng với sự tin tưởng của
ông hay không. Chung cuộc, ông đã trả giá quá đắt cho
sự dễ tin của ông như ta sẽ chứng kiến qua sự phản
bội của một số quân nhân mà ông đã tin dùng và ban
cho nhiều ân huệ, quyền chức, đưa họ từ những cấp
bậc khiêm tốn, hạ sĩ quan... sĩ quan thuộc cấp
(officiers subalternes) lên hàng tướng lãnh, Đại Tá...
trong vòng năm, bảy năm mà chẳng trải qua chiến trận
nào đáng kể (hai cuộc chiến tranh thực sự ở Việt Nam
đã xảy ra trước tháng 07 năm 1954 và sau 1963)... Trang
685-686.
Bẵng
đi một dạo (sau khi nước nhà thăng trầm biến chuyển),
tôi được gặp lại ông Lê Trọng Quát trong dịp tôi làm
thuyết trình ngày 05/11/2000 tại FIAP-Jean Monnet về sách LE
VIETNAM CRUCIFIÉ 1945-1975 (Việt Nam Thống Khổ) của nhà văn
Mạnh Bích, lần này ông là một người tị nạn tại
Pháp sau biến cố 30 tháng tư 1975. Hai chúng tôi là những
người phẫn uất trước việc Hà Nội xâm chiếm VNCH...
đã - mỗi người một ngả - phụng sự tổ quốc bất
hạnh bằng ngòi bút. Riêng tôi đã viết và đăng báo đến
hằng trăm bài về chính trị và hiến pháp nước nhà,
tóm tắt lại trong hai tác phẩm sẽ xuất bản : La Guerre
Civile Vietnamienne (Chiến Tranh Cốt Nhục Tương Tàn) và Les
Constitutions Vietnamiennes (Những Hiến Pháp Việt Nam), trong
lúc cựu chính khách Lê Trọng Quát trình làng hôm nay tại
Paris một tác phẩm mà ông đã dày công biên khảo trong 6
năm trời về lịch sử nước ta từ 1930 đến 2002 : việt
nam đi về đâu? Với mục đích kêu gọi nhà cầm quyền
Hà Nội phải ... thức thời và sáng suốt để hiểu rằng
không có con đường nào khác hơn để góp công với lịch
sử và đảm bảo sự an toàn của chính họ và tương lai
của con cháu họ bằng con đường hội nhập vào toàn dân
để lật qua một trang sử đã quá nặng mùi huyết lệ
và mở ra một vận hội mới cho Tổ Quốc Việt Nam...
Tôi
hoàn toàn đồng ý với tác giả VNĐVĐ? trong việc thay
thế (với tinh thần chân chính hòa hợp dân tộc) nước
CHXHCN hiện hữu bằng cách thiết lập một Nhà Nước
Pháp Quyền và chế độ Dân Chủ Tự Do cho tổ quốc VN.
Nhằm mục đích ấy, tôi đã cho đăng trên hai tạp chí
Đối Lực và Khai Thác Thị Trường của TS Nguyễn Bá
Long ở Toronto-Canada, cùng gần đây trên tam cá nguyệt
Nhân Quyền-Droits de lõHomme của LM Trần Thanh Giản ở
Paris và tập san Đông Á ở Vancouver-Canada (bộ mới số 3
tháng 6-2003) của Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc & Xây
Dựng Dân Chủ, những lời kêu gọi tha thiết của một
luật gia trong việc làm một cuộc cách mạng không đổ
máu, một cuộc cách mạng trong tiến hóa, một cuộc Cách
Mạng Bằng Hiến Pháp...
Trong một giai đoạn đầu, Quốc
hội của CHXHCNVN có quyền sáng chế hiệu đính Hiến
Pháp (Điều 84 của HP 15/04/1992 hiện hành), lấy quyết
định cho Thủ tướng Chính phủ được sứ mệnh thiết
lập một Ủy Ban Dự Thảo (UBDT) sửa đổi HP gồm có 27
phần tử chẳng hạn : 13 do Quốc hội lựa chọn, 14 do
Thủ tướng tuyển nhiệm trong giới các nhân vật chuyên
gia lỗi lạc về HP có tiếng tăm ở nước ngoài. Ủy Ban
Dự Thảo tự bầu một nhân vật làm Chủ tịch, có trách
nhiệm lãnh đạo những cuộc thảo luận đưa đến quyết
nghị với sự chấp nhận của đa số tuyệt đối của
Ủy Ban. Theo sắc lệnh Chính phủ, UB phải dự thảo một
HP mới trong kỳ hạn không quá 3 tháng, rồi trình bày
trước Quốc hội để bàn cãi, sửa đổi và thông qua.
Quốc hội có thể, nếu cần, lấy quyết định tổ chức
một cuộc trưng cầu dân ý (Điều 84) nghĩa là một công
quyết lập hiến (référendum constituant) đặt dưới sự
giám sát của Liên Hiệp Quốc.
Điều Thứ Nhất của Dự
Án HP (sau Lời Mở Đầu ngắn ngủi với ý chí bãi bỏ
tất cả lý lịch về chủ nghĩa Mác Lê Nin và đặt lòng
tin tưởng nơi bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Thế Giới 1948
của Liên Hiệp Quốc và bản Tuyên Ngôn Pháp năm 1789)
trang trọng tuyên bố việc xây dựng một Nhà Nước Pháp
Quyền trong chế độ Cộng Hòa, Dân Chủ Tự Do... Như tác
giả Việt Nam Về Đâu? đã kết cục trong Mấy Lời Tâm
Sự : ... Một vận hội mới đầy triển vọng cho mỗi cá
nhân, mỗi gia đình, không phân biệt chính kiến, không
phân biệt tín ngưỡng, không phân biệt địa phương,
không xét lại dĩ vãng mà tất cả quay lưng với quá khứ,
tin tưởng vào tương lai và cùng nhau hồ hở tiến lên
xây dựng lại Quê Hương... và đầu đề của Chương 7
(mà cũng là Chương cuối) của một cuốn sách dày 1070
trang : Kêu gọi đảng Cộng sản Việt nam thức tỉnh
trước khi quá muộn để cùng toàn dân xây dựng một vận
hội mới cho quốc gia, điều mong ước của hơn 80 triệu
người Việt ở trong và ngoài nước.
Trong
chiều ngày 20/10/2002 để dành cho chủ đề Vấn đề lịch
sử Việt Nam tại FIAP Phòng Lisbonne, Cựu đại sứ CHVN,
Luật sư Hoàng Cơ Thụy , sau khi trình làng bộ Việt Sử
Khảo Luận (Từ Thượng Cổ đến tháng 04-1975) của ông,
do Nam Á xuất bản, gồm 6 cuốn, 3960 trang khổ lớn, 1423
hình ảnh, tài liệu, ông cho cử tọa biết là ông ... đã
để cả đời để sưu tầm, tìm đọc hơn 2000 tác phẩm,
tạp chí Đông Tây, Quốc Cộng của mọi thời đại, rồi
trong 17 năm liên tục dành toàn thời gian nghiên cứu, đúc
kết, bình luận và biên soạn ra tác phẩm này. Theo nhà
xuất bản : Bộ sách này được thực hiện dưới hình
thức : bìa da mạ vàng, bao sách bốn màu, trang nhã gần
như bộ Bách Khoa Tự Điển của Pháp. Học giả Hoàng Cơ
Thụy cho biết một cách hóm hỉnh rằng muốn đọc hết
Bộ Sử của ông, mỗi đồng bào phải mất ít nhất hai
ba năm ...
Việt Nam Đi Về Đâu? của Luật sư Lê Trọng
Quát được viết theo lối tùy bút, bút ký hay hồi ký,
vì vậy có thể xem như một tiểu thuyết với nhiều sức
lôi cuốn độc giả chỉ cần... hai ba ngày (hoặc nhiều
nhất một tuần) là đi tới chấm dứt... Đúng 1070 trang
để tóm tắt 70 năm lịch sử nước nhà (huyền thoại và
sự thật), đâu phải dễ ! Được sáng tạo theo một văn
thể lưu loát và cao nhã, với một nội dung phong phú,
sách của ông Lê Trọng Quát theo tôi là một trọng sự
chính trị (un événement politique important). Đồng bào độc
giả có thể tin tưởng nơi sự thành thật của tác giả
cũng như tác giả đã đặt nhiều tin tưởng trong tương
lai đất nước Việt Nam.