Tình yêu
trong văn hóa
Nguyễn đăng Trúc
I-
Khung cảnh của vấn đề
I a - "Hãy yêu đi
rồi làm gì thì làm"( ama et fac quod vis)
Câu nói của đại văn hào Thánh Augustinô là âm vang
phổ quát nhất đi lọt vào tất cả các nền văn hóa cổ kim, đông cũng như tây, trong
tất cả các chiều kích của cuộc sống con người. Thật thế tôn giáo là gì nếu không phải vì
yêu thương mà con người được tạo dựng, vì yêu thương mà có cứu độ! Và yêu
thương không phải là hơi thở và cứu cánh của tôn giáo hay sao! Kinh
Thánh Kitô giáo đînh nghĩa Thiên Chúa Tối Thượng là tình yêu, và đức Kitô Đấng
cứu độ là hiện thân của tình yêu ấy. Đức Phật thì vì lòng thương tha nhân (từ bi) mà
lên đường khai đạo; Đức Khổng thì vì nhân ái; Mặc tử thì vì kiêm
ái...
Ngay cả những đổi thay xã hội, các cuộc cách mạng đầy bạo lực, hận thù và bài xích tôn giáo (như cuộc cách mạng Pháp 1789, cuộc cách mạng cộng sản vào đàu thế kỷ 20), những nhóm phản kháng bụi đời hay ngược đời bất chấp tôn giáo, các giá trị tinh thần và xã hội hiện hành... thì cũng nhân danh tình yêu (make love!) để biện minh cho hướng đãu tranh hay thái độ sống của mình.
Thông thường, người ta hay nói rằng: Có nhiều cách
diễn đạt khác nhau để nói lên cùng một nội dung; nhưng trong trường hợp nầy thì
ngược lại: cùng một nội dung yêu thương mà mỗi người lại hiểu một cách khác. Và
chúng ta sẽ thấy tùy cách hiểu về tình yêu mà chúng ta sẽ có những định chuẩn
nhận ra nhiều hình thái văn hóa khác nhau trong lịch sử. Có thể nói tiếp theo
lời của Thánh Augustinô như thế nầy: hành động nào của con người thì cũng vì
yêu thương, nhưng thảm kịch là mỗi người hiểu yêu thương một cách khác nhau, và
đó là vấn đề.
I b - Hôn nhân và gia đình, một thách đố của thời đại "toàn cầu hóa
"
Chúng ta cứ cố định nghĩa con người như một cục sỏi
đứng một mình, nằm ì ra đó. Nhưng con người tự tại một mình là sản phẩm, một
loại phóng ảnh của trí óc hữu hạn, một ý niệm mà thôi. Con người ấy không bao
giờ hiện hữu cả. Con người sống là một mối tương giao chằng chịt, con người có
cha, có mẹ, có anh em, bạn bè, có đất dưới chân và trời trên đầu, có khí để
thở, có xã hội để học hỏi và liên đới... Con người một mình không thể có và nếu
có thì đó là sai lệch (như sách Kinh
Thánh từng nói: ở một mình không tốt Cf. sách Sáng Thế) . Sống là sống với
ai, và trong cuộc sống trên nhân
thế, khi hai người sống chung thì tương quan nầy được thiết lập thành định chế
có tính cách cộng đồng, xã hội. Và định chế khởi nguyên, cơ bản, phổ quát nhất xuất hiện trong bất cứ một cộng đồng
nhân loại nào trong lịch sử là định chế hôn nhân và gia đình, mặc dầu có những
hình thái thể hiện đa biệt. Và định chế hôn nhân và gia đình trong thực tế xã
hội hiện nay cũng là định chế được các nhà luật pháp dân sự, tôn giáo đề cập và
nghiên cứu nhiều hơn cả.
Nhưng điểm đáng nêu lên trong thời đại gọi là thời
tân kỳ của chúng ta, với những trào lưu xã hội đối nghịch (chủ nghĩa xã hội tập thể tối thượng và chủ
nghĩa tự do cá nhân tuyệt đối), đi kèm với những khám phá và can thiệp có
tính cách kỹ thuật vào sự sống, phái tính và hình thành thể xác con người nhân
danh tiến bộ khoa học, thì hôn nhân và gia đình không phải đang biến hóa một
cách nào đó, nhưng đang chứng kiến thách thức sống còn: hôn nhân và gia đình
còn tồn tại hay không trước sự kiện thụ thai hoàn toàn không cần can thiệp của
đôi người nam nữ, khế ước hôn nhân-gia đình của hai người đồng tính...?
Thách thức xã hội nầy trong bối cảnh "toàn cầu
hóa" đặt lại cho toàn nhân loại một câu hỏi có tính cách văn hóa về bản
chất và cứu cánh con người: hoặc con người là gì trong giới hạn định
nghĩa của hiểu biết sự vật, của khoa học
và khả năng biến chế sản xuất, hoặc con người là ai trong tương quan của
yêu thương. Hôn nhân và gia đình còn có giá trị gì hay không tùy thuộc vào bối
cảnh của câu hỏi nền tảng nầy.
Ic - Hội nhập
Xã hội Việt nam chúng ta vào thời tiền chiến đã
từng chứng kiến hai luồng văn hóa đối nghịch: một bên là xã hội phong kiến,
được xem là truyền thống, trong đó tâm tình yêu thương và cuộc sống cá nhân
chịu sự chi phối của những tập tục khắc nghiệt nhân danh quyền lợi của tập thể
nào đó tùy cấp độ như gia tộc, làng xã, "đạo lý truyền thống"..., và
bên kia là trào lưu cải cách xã hội của nhiều nhóm trẻ, trong đó Tự Lực Văn
Đoàn gây nhiều ảnh hưởng hơn cả.
Người bảo
thủ nếp cũ thì nhân danh truyền thống ngàn đời, đạo lý cha ông, đôi lúc nhân danh
cả tình tự dân tộc để bám víu những hủ tục vô nhân; nhưng phía các trào lưu
tiến bộ cũng hấp tấp, nóng lòng muốn bắt chước mẫu mực nếp sống cá nhân chủ
nghĩa Tây Phương (và Tây Phương ở đây
thực sự chỉ giới hạn trong một nếp sống thị thành nào đó hoặc trong tiểu thuyết
), muốn lật nhào toàn bộ nếp cũ của xã hội ngàn đời của dân tộc. Trong thực
tế lịch sử, xã hội chúng ta đã uyển
chuyển chọn con đường cải cách chừng mực, không "đoạn tuyệt"
"thoát ly" với truyền thống cộng đồng và gia đình để chỉ biết đến tự
do cá nhân.
Xã hội Việt nam trong và ngoài nước hôm nay cũng
đang trải qua những dao động tương tự. Nhưng lần nầy không có những trào lưu
cải cách, những cơ cấu hay nếp sinh hoạt cộng đồng bảo thủ áp ức. Từ toàn bộ
vận hành quốc gia và quốc tế, trong mọi lãnh vực từ tôn giáo, văn hóa, chính
trị... mỗi cộng đồng, mỗi gia đình và mỗi cá nhân đều chới với trước những thực
trạng xã hội đang xâu xé cuộc sống của mình. Ngoài ảnh hưởng một xã hội thời
tân kỳ của toàn thế giới nói chung, xã hội Việt nam bị hụt chân vì những đứt
đoạn do hoàn cảnh chiến tranh, chính trị: đổi thay có tính cách đứt đoạn vì
cuộc "cách mạng" văn hóa rốt ráo của "xã hội chủ nghĩa"
chuyên chế; các cuộc di dân qui mô vì chiến tranh, tị nạn chính trị, vì chính
sách và cuộc sống kinh tế; vai trò ảnh hưởng trong gia đình đổi thay vì chênh
lệch trình độ chuyên môn và khả năng kinh tế của thế hệ trẻ so với bậc phụ
huynh; các loại quyền uy cộng đồng về đạo lý trên cuộc sống cá nhân như kỷ luật
gia đình, dư luận và chế tài xã hội, niềm tin tôn giáo, ảnh hưởng giáo dục...
không còn hữu hiệu nữa. Thực trạng xã hội trong và ngoài nước không khác xa
nhau là mấy, người ta không còn một giải pháp nào hơn là để mặc cho hoàn cảnh
đẩy đưa. Trong bối cảnh đó, tình yêu,
hôn nhân và gia đình được cảm nghiệm một cách kỳ lạ; chúng xuất hiện trong tâm
tư mỗi người như một món trang sức, một
món đồ cổ có tính cách thi vị, bên cạnh
thực tế xã hội mà ưu tư về kinh tế chi phối hầu như toàn bộ cuộc sống cá nhân.
Và vấn đề hội nhập thường được mọi giới nêu lên còn có nghĩa gì khác hơn ngoài
vấn đề giải quết vấn đề kinh tế, nghĩa là kiếm được một việc làm? Và điều đáng
ngạc nhiên hơn cả là giới hữu trách về cuộc sống tinh thần như tôn giáo, giáo
dục, văn hóa... vì không thấy vấn đề, hoặc vì muốn làm thinh, đã hội nhập một
cách hầu như đương nhiên thực trạng và
tâm tư nầy !
II-
Tình yêu và văn hóa
"Yêu đi rồi làm gì thì làm", và bởi vì ngày nay người ta hầu như mỗi người đều
chủ trương làm đều mình thích, nhưng người ta hoặc không yêu ai ngoài yêu cá
nhân mình hoặc không còn yêu chi cả, nên mọi định chế (ngay cả định chế phổ quát nhất là hôn nhân và gia đình), mọi giá
trị con người như chỉ là hiện tượng nhất thời và tương đối. Đó là thực trạng
của thời tân kỳ chúng ta đang sống.
Nhưng yêu là gì? Yêu liên quan gì với cuộc sống con
người?
Trong các thập niên gần đây, nhiều nhà nghiên cứu
người Việt nam về văn minh, văn hóa đối chiếu đông-tây thường mạnh dạn nói một
cách đơn giản: Tây phương trọng lý trí, còn đông phương và nhất là người Việt
chúng ta thì đề cao chữ tình. Nhưng tình phải chăng là cảm xúc chủ quan, xung
động tình cảm bất chừng, hay khóc hay hờn..., và lý trí phải chăng chỉ được
hiểu là nhận thức sự vật bên ngoài, cân đo đong đếm như một máy tính điện tử
thời nay?
Để có thể phanh phui một vài nét chính yếu về nội
dung chữ tình yêu trong những nền văn hóa ảnh hưởng nhiều đến nếp sống và tâm
tư người Việt chúng ta, chúng ta sẽ nêu lên một vài mẩu chuyện tiêu biểu thường
được nền văn hóa liên hệ tiếp nhận như là có giá trị chỉ dẫn. Chúng ta chọn bốn
khung văn hóa tiêu biểu:
-
văn hóa hy lạp và Tây phương truyền thống,
-
văn hóa Tây phương thời tân kỳ,
-
mạc khải Kitô giáo,
-
tam giáo ( Phật, Lão, Khổng) hài hòa trong truyền thống văn hóa Việt
nam.
II a - Tình yêu hướng thượng của văn hóa truyền thống Tây phương
Trong tác phẩm Bữa
Tiệc, Platon ghi lại hai mẩu chuyện về tình yêu (EROS) được người về sau xem là tiêu biểu. (Chính vì thế có thành ngữ tình yêu lý tưởng theo "Platon",
amour platonique).
- Thần thoại người lưỡng tính nguyên sơ:
Trong một bữa tiệc,
khi được hỏi đến nội dung của EROS, nhà
hài kịch thời danh AristophaneẠ đã nêu
lên chuyện con người nguyên thủy vốn lưỡng tính. Ngày trước, nhân loại chỉ gồm
những người lưỡng tính, có hai đầu, bốn tay và bốn chân. Vì tài năng uy dũng,
các loại người nầy sinh kiêu căng chống lại thần thánh. Thần Zeus không chịu
nổi sự hỗn láo đó nên đã chặt họ làm hai phần. Cái rún nơi bụng con người là
dấu tích về sự phân đôi đó.
" Bây giờ nửa phần nầy chạy đuổi bắt nửa phần kia, cố nối kết như
cũ. Hai phần cứ thế mà ôm ghì trói chặt lại với nhau thành một thân mà thôi. Do
đó mà trở nên bất động, không làm gì được vì không phần nào muốn hành động mà
không có phần kia. Thần Zeus mới đưa các bộ phận sinh dục ra phía trước của mỗi
bên - trước đó chúng ở phía lưng - để đôi bên có thể giao hợp bảo đảm sinh sản
chủng loại hoặc thỏa mãn dục tính."Ạ...
" Chính vì vậy mà từ thủa xa xưa ấy, tình yêu người nầy đối với
người kia ghi khắc nơi tâm hồn con người; cũng chính vì tình yêu nầy bản tính
nguyên sơ của con người kết hợp; tình yêu ấy
muốn kết hợp hai bên thành một thể, vì thế nó chữa lành nhân tính chúng
ta"Ạ
- Thần thoại về nguồn gốc EROS
Truyện nầy do chính Socrate kể, nhắc lại một giai
thoại gặp gỡ giữa ông và đồng nữ Diotime
de Mantinée (một nhân vật có thể là tưởng tượng tiêu biểu cho thi hứng). Bà
đồng nữ kể rằng Eros được thụ thai trong ngày mừng sinh nhật của thần Ái- Ân Aphrodite:
" Các thần đang dự tiệc, có mặt cả con trai thần Khôn Ngoan tên là
Dư-Đầy. Khi mọi người dùng bữa xong, thì cô
Nghèo đến ăn xin vì thức ăn còn thừa; cô đến tựa cửa ra vào. Cũng trong
lúc ấy, thần Dư-Đầy say mèm vì uống
nhiều mật hoa đi lạc vào vườn Thần Zeus và lăn lưng ngủ ở đấy. Bấy giờ nàng
Nghèo nghĩ đến thân phận nghèo hèn của mình nên định tâm có một người con với
thần Dư-Đầy. Nàng đến nằm bên cạnh chàng, nhờ vậy mà Eros đã được thụ
thai"Ạ
Tiếp đó Socrate tự minh giải câu truyện như thế
nầy:
" Tình yêu là trung gian giữa hiểu biết và ngu muội. Trong các thần
thánh, không ai cần triết lý, không ai muốn trở thành khôn ngoan, vì họ là
những kẻ khôn ngoan rồi... Từ đó ta hiểu tình yêu là triết lý ( tức là : yêu
chính là yêu sự khôn ngoan = philo-sophia); tình yêu đúng là trung gian giữa
hiểu biết và ngu muội"Ạ
- Minh giải
Cả hai mẩu truyện về tình yêu được Platon trình bày trong cuốn Bữa Tiệc qua miệng của hai nhân vật được
biết là đối thủ của nhau, đều trình bày cùng một nội dung với những nét tương
đồng. Muốn am tường nội dung tình yêu trình bày ở đây, thiết tưởng phải nêu lên
nét cơ bản nhất trong triết học Platon. Đối với Platon, nền tảng vững chãi cho
suy tư, cho mọi hiện hữu phải là hữu thể tự tại, vĩnh cửu, bất biến vượt lên
trên thời gian đổi thay và không gian có giới hạn. Con người đang ở trong thời
gian, vì mang lấy thể chất thân xác mà có sinh có tử, có đổi thay.. Như vậy,
cái gì gắn bó với vật chất, đổi thay như thân xác là tiêu cực so với khả năng
hiểu biết thuộc lý trí thuộc thế giới không thay đổi. Con người trong thân phận
tại thế với thân xác mình là tình trạng bất toàn; nhưng con người có tình yêu
thúc đẩy như một động lực hướng về lại sự toàn thiện, tức là hữu thể thuộc lý
trí hiểu biết. Ở giai đoạn còn mang thân xác làm người tại thế, tình yêu đó gọi
là triết lý; khi đạt đến hữu thể chân
thật, hay cứu cánh toàn bích thì không còn triết lý, không còn tình yêu, nhưng
sẽ chỉ là hữu thể, là khôn ngoan.
-
Bản chất và cứu cánh con người là hữu thể tự tại, vĩnh cửu, thông biết
mọi sự. Bản chất đó là một thực thể siêu vượt
thời gian và không gian đang giam hãm con người. Còn hiện hữu tại thế là
một sự sa sẩy, một giai đoạn bị chia cắt hay còn thiếu, nghèo đói hữu thể;
trong hoàn cảnh nầy thân xác là yếu tố tiêu cực trì kéo bước thăng tiến của con
người tiến về sự hoàn mãn.
-
Tình yêu chỉ là một động lực thúc đẩy con người hướng về hữu thể tự tại,
hướng về sự khôn ngoan qua việc giúp con người khám phá những giá trị tích cực
của hữu thể, đặc biệt là giá trị đẹp. Nó thuộc lãnh vực phương tiện, là thứ yếu
so với khả năng hiểu biết của lý trí. Thần thánh và con người toàn mãn không
cần đến yêu thương.
-
Tình yêu phát xuất từ sự thèm muốn (của cô Nghèo), từ dưới đi lên, muốn
đi tìm những giá trị mà mình đã biết trước (xét về mặt hữu thể học) không tiên
liệu những bất ngờ, những bí mật diệu kỳ nào khác; nhưng hữu thể chân thật và
các giá trị không nằm trong cõi trần nầy, thế giới bây giờ và ở đây liên hệ đến
vật chất hữu hình và cuộc sống thân xác.Ạ
II b - Tình yêu " bây giờ và ở đây" của thời Tân Kỳ
Về mặt tư tưởng văn
hóa, Thời tân kỳ (les temps modernes) phát xuất và phát triển trên cùng một nền
tảng hữu thể học Hy lạp-Tây phương mà Platon đã khai triển. Nghĩa là hữu thể,
chân lý là bản chất muôn đời bất biến, tự tồn tại và tự đủ cho mình. Nhưng nếu
Platon tưởng tượng ra rằng thế giới chân thật là những ý tưởng có trước và tách
biệt với thế giới hữu hình, vật chất, thân xác, thì thời tân kỳ là thời nói
ngược lại thế giới ý tưởng của Platon và các giá trị đi kèm. Câu nói của Faust, một nhân vật điển hình của con
người tân kỳ trong kịch bản nổi tiếng của văn hào Goethe, giúp ta hiểu rõ đường
hướng nầy :
" Ta đã nghe tiếng vui rộn của làng; đúng là địa đàng của dân
chúng; già cả và trai trẻ, lớn nhỏ nhảy nhót mừng vui: nơi đây ta cảm thấy mình là người, nơi đây ta dám làm người"Ạ
Hữu thể, chân lý được
cảm nghiệm không phải là nhớ lại một thế giới bên ngoài, để từ đó đánh giá cái
gì càng xa thì càng cao, càng trọng, nhưng đặt nền trên kinh nghiệm bây giờ và
ở đây của cá nhân tôi ( Descartes: cogito
ergo sum ); hữu thể không phải là một bản chất bất động đi ngược với lịch
sử nhưng là lịch sử đang hình thành (
Hegel); sự hiểu biết và trật tự, các ý niệm rõ rệt định vị cá thể
của mỗi ý tưởng, các giá trị qui chiếu vào trật tự thế giới nầy (thế giới linh
tượng của Platon, thế giới được Nietzsche
gọi tên là tác phẩm của Apollon) phải nhường chỗ cho sự sống sôi động, cởi bỏ
biên giới tù ngục của lý trí để trầm mình vào Đại Nhất nhờ tình yêu mang tên Dionysos.
Ngược lại không phải là
khác đi, nhưng làm đảo ngược: nếu trong tình yêu lý tưởng (platonique) thân xác
bị miệt thị thì nay tình yêu là thể hiện thèm muốn của thân xác; nếu tình yêu
trước đây lệ thuộc lý trí, trật tự, khám phá các giá trị được tiền kiến là cao
đẹp bền vững, thì nay tình yêu là lãnh vực hoàn toàn thuộc cảm xúc, những xung
động bất chừng của tâm sinh lý cá nhân, giai đoạn, tùy thời tiết nắng mưa.
Hai hình ảnh đặc trưng
của con người thời đại tân kỳ liên quan đến cảm
xúc trai gái (thay cho tình yêu lý tưởng platonique ) mà văn
chương phổ biến là Faust và Don Juan. Hai nhân vật có trong lịch sử được biến
thành nhân vật thần thoại, chuyên chở những nội dung tiên phong báo hiệu một
hướng đi của thời đại tân kỳ. Trước hết là Faust (được Goethe diễn tả rất thần kỳ trong bản kịch Faust của ông):
Faust thông minh, tài ba, nhưng thất vọng về kiến thức trường ốc của xã hội
truyền thống từ Platon. Ông chấp nhận bán linh hồn cho quỷ Méphistophélès, kẻ tự nhận mình là "ta
là thần luôn chối bỏ",Ạ để ăn
" đất" Ạ một cách khoái lạc thay vì suy tư những
chuyện vĩnh cửu trên trời. Ăn bụi đất ở
đây là khát vọng hiểu biết, là nhu cầu hành động, hưởng thụ tối đa thèm muốn
của thân xác. Vì đam mê, Faust đã chinh phục Marguerite ngây thơ vô tội. Nhưng
chán chê nàng, Faust bỏ bê Marguerite, kéo theo sự thất vọng của Marguerite và
nàng giết cả đứa con từ bụng dạ nàng. Faust lại đến thăm và rủ nàng trốn.
Marguerite không chọn con đường trốn thoát nhưng chấp nhận hối hận và án tử
hình để đền tội.
Don Juan là biểu tượng
cho anh hùng tình yêu thời mới. Nhân vật kỳ lạ nầy có tài chinh phục phụ nữ
khắp nơi mỗi lần hắn gặp trên cuộc sống phiêu lưu vô định của hắn. Phụ nữ đối
với Don Juan là nét mới lạ, phong phú, đa biệt của âm-tính (tức là thời gian, không gian, bây giờ-ở đây, thế giới vật chất trong
tầm tay) mà kinh nghiệm sẽ tổng hợp thành Tổng Thể (la Totalité).
Vào thời ban đầu (thời
Phục hưng đến giai đoạn phổ biến văn chương lãng mạn), Faust, Don Juan chỉ là
giấc mơ của tuổi dậy thì, một dự tính thoát ly và đoạn tuyệt với quá khứ viển
vông và thiếu sức sống của chủ nghĩa duy lý.Ạ
Nhưng Faust và Don Juan không còn có gì là nhân vật thần thoại tiểu thuyết,
nhưng là thực tế phổ biến của thời đại chúng ta.
Khi tình yêu là xung động
bất chừng của cá nhân hay của thời đại, hôn nhân và gia đình cũng thoái hóa
thành những định chế tùy nghi của nhu cầu chính trị phe phái, hay một vài trào
lưu văn chương nhất thời.
II c- Tình yêu trong mặc khải Kitô giáo
Có thể nói rằng mạc
khải Kitô giáo và toàn bộ Thánh kinh của tôn giáo nầy là sự biểu lộ tình yêu mà
thôi. Thượng Đế có tên là Tình yêuẠ,
hiện thân Tình yêu nầy là Đức Kitô. Con người không thể có hữu thể nào khác hơn
là hình ảnh phản chiếu của Thiên Chúa, nói cách khác bản chất con người là tình yêu tức là sự sống nối kết với Thượng Đế
trong tình Cha-con. Kitô giáo không tìm định nghĩa con người qua đặc tính hiểu
biết. Định nghĩa nầy là định nghĩa văn hóa Hy-Lạp. Mặc khải Kitô giáo về con
người toàn diện, thành toàn nơi Đức Kitô là
Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người và cho mỗi người cụ thể chứ
không có gì khác.
Tình yêu đó không nhằm
một đặc tính của một bản chất nào bất kỳ: như đẹp tốt, thật v.v. Không phải yêu
vì giá trị đẹp, vì tập thể chủng loại, vì số lượng nhiều, ngay cả vì tốt
lành... Trong Kinh Thánh có ghi lại bài giảng của Đức Kitô mạc khải việc người
chăn chiên lành để lại 99 con chiên ngoan để đi tìm một con chiên lạc.
Và trái nghịch với
triết học và các chủ trương khôn ngoan của con người, tình yêu trong mạc khải
Kitô giáo không phải là xúc tác đi tìm lại bản chất cái tôi nào đó (người lưỡng
tính nguyên thủy của
Aristophane) do trí khôn mình nghĩ ra Ạ,
không phải sự thèm khát từ bên dưới đi tìm sự viên mãn tốt lành bên trên theo
định kiến của mình như nàng Nghèo đi tìm
Thần Dư-Đầy mà Socrate gợi ý. Tình yêu phát xuất từ trên đi xuống xuống, là cho
nhưng không và có cứu cánh nơi chính nó. Thiên Chúa, nguồn tình yêu, Ngài yêu
con người, đi tìm gặp con người trướcẠ.
Và Ngài đã thể hiện tình yêu đối với con người bằng cách chọn lấy cái chết cho
bản thânẠ và hóa thành không "thân
phận của chính Ngài" Ạ.
Và trong tình yêu
cứu độ Đức Kitô đã đến làm Con của loài
người (le Fils de l'homme) và sống 30 năm trong khung cảnh một gia đìnhẠ; và khi lên đường công khai loan báo Tình
Yêu của Thiên Chúa, Ngài đã đến dự tiệc cưới người thân quen với mẹ Ngài tại
Cana.Ạ
Nếu tình yêu Kitô
giáo không thể là phản ứng của xúc động thể lý và tâm lý nhất thời, thì tình
yêu Kitô giáo ấy cũng không hề miệt thị thân xác khi mà chính hiện thân tình
yêu của Thượng Đế là Đức Kitô đã mang lấy thân xác. Và cũng đừng hiểu lầm rằng
tình yêu Kitô giáo là dụng cụ của trí năng hay một giá trị nào ngoại tại như
tập tục, gia tộc, tiến bộ nhân loại nào đó..., nhưng qua sự thể hiện tình yêu
của Thiên Chúa nơi Đức Kitô, tình yêu chính là bản tính linh ư vạn vật đưa con
người lên hàng thần thánh chứ không phải trí năng hiểu biết. Đến đây ta có thể
hiểu tại sao Thánh Augustinô lên tiếng "yêu
đi rồi làm gì thì làm".
II d - Tình yêu trong văn hiến Việt namẠ
Câu chuyện tình luôn nằm
trong tâm khảm của mỗi một người Việt Nam có lẽ là mối tình nguyên sơ giữa hai
thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Theo sách Lĩnh Nam Chích QuáiẠ do Trần Thế Pháp ghi lại và sau đó Vũ
Quỳnh hiệu chính, thì tại nước Xích Quỉ phương Nam có Sùng Lãm Lạc Long Quân
cai trị dân sống trong trật tự hạnh phúc. Nhưng Lạc Long Quân là thần nhân nên
thường ẩn mặt (nơi Thủy Phủ). Lợi dụng lúc vắng mặt của Lạc Long Quân, Đế Lai
là vua Phương Bắc đến phương Nam bắt Âu Cơ làm ái thê. Đế Lai tham lam của ngon
vật lạ, của cải giàu có mà bỏ bê Âu Cơ .
Lạc Long Quân trở về
nhân gian và thấy Âu Cơ bị khống chế, nên đưa về Long Trang kết nghĩa vợ chồng.
Đế Lai không đủ sức giành lại Âu Cơ nên trở về Phương Bắc. Long Quân và Âu Cơ
ăn ở với nhau giáp một năm thì sinh được một bọc trăm trứng. Sau bảy ngày thì
mỗi trứng nở một con trai không cần ăn ưống mà tự nhiên khôn lớn.
Nhưng Long Quân là thần
nên lại ẩn giấu. Không thấy và gặp được Long Quân, Âu Cơ lại nhớ Phương Bắc và
lên đường về quê của Đế Lai. Nhưng Hoàng Đế là vua Phương Bắc lúc bấy giờ ngăn
cản nên trong lúc túng quẫn, mẹ con nàng nhớ và cầu cứu Lạc Long Quân. Long
Quân hẹn gặp nàng tại Tương Dạ. Nhưng trong lần gặp gỡ nầy, Long Quân cho nàng
hay thân phận của chàng là thần thánh nên giữa chàng và nàng nay cách trở. Mối
liên kết của nàng Âu Cơ và Long Quân là sự sống của nàng và thể hiện trong nỗi
nhớ.
Giải minh
Trước khi biết Lạc Long
Quân, Âu Cơ đã biết một mối tình, nhưng Đế Lai là hiện thân của sự sa đọa, vong
thân của con người: đối với Đế Lai, Âu Cơ chỉ còn là cớ để tranh giành uy lực
với Lạc Long quân, và cả cuộc sống của ông
chỉ là cuộc đuổi bắt đồ vật bên ngoài, đến nỗi quẳng bỏ Âu Cơ mà không
hề bận tâm. ( Đây là ràng buộc của dục và
chấp ngã trong tư tưởng nhà Phật )
Mối tình chân thật đến
với Âu cơ do từ bên trên, do Thần Thánh, ban cho nàng và nâng nàng lên ngang
thần thánh. Tình yêu đó đủ sức đẩy lui tình trạng vong thân, tình yêu ấy cứu độ
nàng. (Âu Cơ ngộ được duyên cứu độ).
Và mối tình
Long Quân và Âu Cơ được tồn dưỡng chẳng những không phải chỉ do những giá trị
vật chất bên ngoài mà Đế Lai tìm kiếm, hoặc ngay cả những cảm xúc vui buồn bất
chừng bên ngoài vì có mặt hay không có mặt, nhưng còn do sự nối kết nguyên sơ
bên trong (tâm đạo), do nguồn gốc thần thánh của tình yêu.
Thay lời kết
Như thân phận Âu Cơ khi
Thần Thánh Long Quân ẩn mặt, chúng ta choáng váng trước những dòng nước xoáy
cuốn hút chúng ta, gia đình, con em chúng ta vào những vùng đất vô định. Chúng
ta cảm thấy cô đơn đang lội nơi dòng sông mà kỳ thực mình không hề quen thuộc.
Những giá trị yêu thương giữa đôi lứa, giữa các thành phần trong gia đình cha
con, anh em... như bị thách thức không phải chỉ vì phương cách biểu lộ khác
nhau, mà hình như biến thái về bản chất đến độ chúng ta không biết còn mối
tương quan vợ chồng, thân thuộc nào nữa, ngoài những liên lạc sổ sách kinh tế
và trợ cấp do luật pháp xã hội qui định!
Đã đến lúc chúng ta thấy cứu nhà, cứu nước không phải chỉ thuộc lãnh
vực chính trị mà thôi mà còn thuộc lãnh
vực văn hóa; và cao điểm và cùng đích của văn hóa là yêu thương. Nhưng yêu
thương thế nào thì mới phải lẽ ?