Huế đẹp, Huế thơ !
Nguyên Hương
Ở Huế lâu ngày hay chỉ biết qua một thời gian, mọi
người đều cùng chung cảm nhận trên.
Huế đẹp vì phong cảnh nên thơ, vì thiên
nhiên hữu tình. Nhìn gần hơn, Huế đẹp vì lối sống con người Huế biết
thưởng thức và giữ gìn vẻ đẹp ấy nên thơ hơn, diệu tuyệt hơn, kế tục
bao nhiêu thế hệ trước đã đem công sức xây dựng, tài bồi nên.
Nhìn vẻ đẹp Huế với thị giác và thị cảm
thoáng qua thông thường e rằng chưa đủ, lại càng không nên nhìn Huế
với trí óc phân tích đạo hàm toán học. Với cảm xúc bén nhạy, tâm hồn
rung động và đôi mắt thẩm mỹ, du khách nhìn phong cảnh thiên nhiên từ
nội tâm để rồi qua tâm thức phản hồi, cảm thụ nét đẹp Huế thêm sâu
lắng thi vị.
Cùng chung tấm lòng nghệ sĩ tự tại và thanh
thoát, du khách sẽ cảm nhận hết cái thiên nhiên hòa hài, cảnh sống hòa
điệu, con người Huế, cảnh vật Huế. Nói rõ thêm, bản sắc Huế, cá tính
Huế, cái phần Huế nguyên thủy, nguyên tuyền, từ đó phát sinh nét đẹp
văn hóa Huế.
Huế thiên nhiên có sức gợi cảm và quyến rủ
du khách, nhưng bốn mùa mưa nắng bất thường “có nắng hạ giữa mùa thu”,
Huế đôi khi cũng ruồng rẫy du khách chưa sống thực với Huế. Đối với
người Huế cũng vậy, di xa muốn về, về (rồi) lại muốn đi. Ra đi để rồi
nhớ thương da diết!
Nhớ gì nơi Huế? Nhớ những màu sắc lung linh
huyền hoặc đã tạo nên Huế huyền diệu thâm trầm. Nhớ cảnh vật Huế, nền
trời Huế sáng xanh trưa vàng chiều tím, có đó mất đó. Nhớ Huế duyên
dáng như nhớ người tình nhân lỗi hẹn “duyên trăm năm đứt đọan, tình
một thuở còn mang” hay đau lòng đứt ruột hơn trong hai câu thơ tuyệt
tác người xưa để lại:
Đập cổ kính ra tìm
thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Cái hương sắc màu nhớ ấy, hơn một lần dù
ngắn ngủi, đã đến với du khách. Thanh lương tươi mát mà trang trọng,
đậm nét cổ điển mà trẻ trung nồng thắm, hợp sắc mà rỡ ràng phong quang
như bức họa muôn màu Huế đẹp, Huế thơ từ lâu đời.
Màu sắc đa dạng theo bốn mùa năm tháng hay
qua lớp “sương khói mờ nhân ảnh”, đó đây bạn đọc sẽ nhìn thấy lại trên
sông Hương núi Ngự hay xa xa nơi “núi phủ mây phong” bao quanh kinh
thành.
Màu tím lan xa mấy dặm đường
Như cơ duyên tình tự thiên thu, thiên nhiên
an bài sẵn món quà mỹ thuật hãn hữu dành riêng Huế: màu Tím.
Với nhiều sắc độ khác nhau, màu tím khi
tươi thắm nhẹ nhàng, khi thấm đậm nồng nàn hoa rừng cỏ nội rắc theo
lối đi khắp cùng. Tím mát, tím tươi, tím thẩm, tím than, tím ngắt hay
tím ngát, cuối cùng vẫn là màu tím dễ thương dễ nhớ nhìn thấy khắp nơi
khung trời Huế.
Ngày xưa không lâu lắm, dọc theo bờ sông
Hương cỏ cây hoang dại còn nhiều, từ đồng nội ban sơ hay những đám đất
vồng thoai thoải lưng chừng mọc lên một loài hoa, hương thơm nhè nhẹ
gọi là dã cúc; sau này các nhà Nho thích “chữ” đặt thêm tên hán-việt
“khổ-ý-dĩ”.
Dã cúc, khổ-ý-dĩ, cúc hoang, cúc dại hay
cúc lãng sĩ đều là loại cúc màu tím nửa rừng núi nửa đồng nội chen lẫn
với cỏ lau lan tràn, gió mưa thời tiết phũ phàng “cúc ngạo hàn sương
an bần lạc đạo”.
Cúc tím hoang dã nhưng hương thơm phảng
phất rớt rơi lãng đãng theo từng cơn gió thoảng dưới nắng hanh vàng.
Màu tím hương quê lan xa mấy dặm đường đến những vùng đất cao hai
huyện ngoài là Phong Điền, Quảng Điền gặp gỡ thêm người bạn mới, một
loại hoa màu tím khác, hoa (rừng) bằn lăn.
Cây gỗ bằn lăn thông dụng nhiều người biết,
nhưng mấy ai có dịp nhìn ngắm hoa rừng bằn lăn tím cả “trời xa trời
gần”:
Bằn lăn soi bóng ven hồ
Xuân đi thu đến bao giờ nở hoa.
Hoa ơi có phải vì ta
Mà hoa tím cả trời xa trời gần.
(Tế Hanh: Hoa bằn
lăn)
Vô đến thành phố, tung tăng tung tưởi khắp
nơi, một loài hoa tím khác tươi đẹp mịn màng hợp sắc hài hòai với các
sắc màu mơn mởn của Huế đẹp Huế thơ là hoa sầu đâu màu tím lạt.
Không lạt lắm, không đậm lắm, màu tím sầu đâu
vừa đủ độ thắm tươi dịu dàng để phố phường làng xóm chung quanh tưởng
nhớ. Lớn chỉ bằng đầu ngón tay, hoa kết thành chùm nhỏ bằng nắm tay,
cánh hoa mượt mà óng ả hây hây trước gió mát thướt tha. Màu sắc tươi
nhẹ, nhưng hương thơm không được dịu lắm, Huế mình thường cho là hơi
“hắc” (hay hắc-hắc).
Có lẽ vì hoa sầu đâu màu tím kết chùm trông
đẹp, nhiều người thích nhìn ngắm, mỗi người một cách riêng, nên loài
hoa tím này có nhiều tên gọi khác nhau: hoa sầu đông, sầu đâu hay thầu
đâu. “Hoa thầu đâu ngát đường Giao Thủy”, con đường xưa thắm như mối
tơ duyên với bài thơ Nhớ Huế, bà con mình ở nước ngoài gặp nhau thường
ngâm nga (1).
Hai ba tên nhưng vẫn một loài hoa tím. Chưa
đủ! Có người còn ví von thêm với tên gọi khác: hoa soan gợi buồn man
mác, thương nhớ bâng khuâng:
Hôm ấy tôi đi ửng nắng vàng
Bời bời ngõ cũ tím hoa soan.
(Nguyễn Bính: Trở về quê
cũ)
Cây thầu đâu nhìn thấy nhiều nơi ở Huế,
quen thuộc như các khu nhà vườn lớn nhỏ, nhà nào cũng có trồng vài ba
cây. Khắp nơi, những con đường học trò hoa tím lớp lớp rụng vơi đầy,
từ trường Chaigneau (sau này Lycée Francais) đến trường Jeanne d’ Arc
và gần đó dọc theo sông Hương, từ ngã ba Tòa Khâm xuống đến Đập Đá.
Trên những con đường học trò này, có những
ngày hoa thầu đâu nở thênh thang và cũng có những ngày hoa rụng tràn
đầy.
Bọt bèo, bèo bọt, “thời gian trôi đi, bọt
bèo ôi bọt bèo”!
Nhớ những cánh hoa tím khác đang héo tàn,
một loài hoa đang bồng bềnh nổi trôi, hoa bèo, màu tím lạt quen thuộc
trên những con hói nhỏ hay ao hồ tĩnh lặng xung quanh thành phố.
Hoa tím trên sông, những cánh hoa bèo lửng
lơ trên nước. Thơ mộng hơn, thử tưởng tượng một dòng sông tím lốm đốm
xanh vàng trong cảnh chiều tà như câu ca dao xóm Ngự Viên ố Ao Hồ hồi
nhỏ đi học thường nghe:
Gió may nổi, bờ tre buồn xơ xác
Trên ao bèo tàn lụi nước mây trôi.
Trước khi về đến ngã ba Tuần-Bảng-Lãng,
sông Hương vượt thác băng ngàn hòa mình với núi rừng hai bờ hữu ngạn
và tả ngạn. Núi sâu rừng rậm Thừa Thiên - Huế có nhiều hoa rừng. Tiếng
đồn khắp nơi nhiều người tìm kiếm hoa lan rừng, những cánh hoa màu tím
điểm trắng bên cạnh những cành hoa trắng phơn phớt tím, sắc thêm nhụy
vàng.
Lan nở từng chùm, từng chuổi, hương thơm
ngào ngạt hay phảng phất tùy theo mỗi loại. Đẹp nhất trong những hoa
rừng lạc lòi sơn dã vẫn là loại hoa lan màu tím như kim chi lan, cát
tường lan, chu đỉnh lan..
Cát tường lan, cũng có tên lan báo hỉ (cát
tường). Thêm thắt chữ nghĩa cho cánh hoa thêm đẹp, cho cuộc đời thêm
tươi, mấy o sinh viên Huế môn Thực Vật học ngoài nớ còn đặt thêm tên:
lan khai bao báo hỉ, lan thoát bào báo hỉ ... Nhiều người dễ tin, cho
vui cửa vui nhà mỗi lần hoa lan “thoát bào” hay “khai bao” nở rộ là có
tin vui, tin mừng tới nơi.
Lan thoát bào báo hỉ màu tím, cạnh đài hoa
có những đốt màu đỏ như nét chấm phá nhẹ nhàng, hương thơm thoang
thoát. Nhìn hoa nở một màu tím ngát, tím cả tâm tư, tím cả rừng chiều
tịch mịch, đẹp buồn vương vấn nhớ thương!
Đã lam tím cả cảnh
chiều
Trong hồn đã lặng hiu hiu mộng tàn.
(Lưu Trọng Lư: Tiếng
Thu)
Tím, sắc màu mỹ thuật của Huế đẹp: trời tím,
hoàng hôn tím, sông nước tím, núi rừng tím.
Tím, sắc màu kỷ niệm bâng khuâng thương nhớ của Huế
thơ. Cành lá tím, cỏ cây tím, chiều tím, mùa thu tím!
Bông hoa tím Huế còn nhiều lắm, luôn dịp
chỉ kể qua vài loại thông thường như hoa cà tím, hoa khế tím, hoa mua
tím, hoa thạch thảo tím (hồng tím hay tím hồng), hoa ngũ trảo tím (tím
lam)...
Lại còn hoa tím học trò, hoa bâng khuâng,
hoa tương tư, hoa violette, hoa pensée ... những cánh hoa mặc dù nhớ
thương ngập trời, không chịu “gởi hương cho gió”, năm năm tháng tháng
nằm trốn mãi trong những trang sách. Lâu lâu, cô nữ sinh áo tím ngày
nào, giở ra coi lại, có khi quên luôn cho đến khi “nghìn trùng xa cách,
người đã đi rồi”! Ôi đẹp thay loài hoa tím tương tư:
Sớm trông mặt đất
thương xanh núi
Chiều vọng chân mây nhớ tím trời.
Hoa tím tương tư đã nở đầy
Mời em dạo bước tới vườn đây
Em xem, yêu mến em gieo hạt
Hoa tím tương tư đã nở đầy.
(Xuân Diệu:
Hoa tím)
Màu tím nhu mì thanh nhã từ xa xưa lâu đời
hợp với thị hiếu màu sắc Huế được nhìn nhận làm màu áo phụ nữ cùng
chung với hai màu đen trắng cổ truyền. Trường Đồng Khánh Huế từ buổi
đầu tiên thành lập, màu tím được chọn làm màu áo đồng phục nữ sinh. Từ
màu tím Chàm thời Thuận Châu - Hóa Châu trở thành màu tím Kinh thuở
ban đầu Thuận Hóa - Phú Xuân, màu tím áo dài từ đó phấp phới trên mấy
nhịp cầu Trường Tiền trở thành sắc màu đặc trưng: màu tím Huế, khó tìm
được nơi nào khác ngoài cảnh sắc sông Hương, núi Ngự.
Màu tím Huế vào Nam trở thành màu tím Gia
Long hay ra Hanoi trở thành màu tím (nữ sinh) Đồng Khánh. Tím Hanoi,
tím Saigon, cuối cùng vẫn là tím Huế mênh mông bát ngát hợp ý hợp
quần, màu tím vừa đủ độ tươi thắm nhẹ nhàng như cái cười mĩm chi cô
gái Huế đoan trang thục nữ:
Màu áo tím đơn sơ
Bay dài mây núi Ngự
Dòng Hương Giang ngẩn ngơ
Lượn mái bồng thi tứ.
(Đinh Hùng: Phong vị thần kinh)
Từ đỉnh đồi Thiên An (Belvédère), núi Thiên
Thai hay núi Kim Phụng cùng với ánh tà huy đang chuyển động, ai đó đi
xa hơn về dãy núi Trường Sơn sẽ bắt gặp màu xanh của núi rừng đang lần
lần ngã sang màu tím.
Dưới cái nhìn của họa sĩ, có thể đây là màu
tím Chàm, màu tím than, màu tím lam, tím thẩm. Dù sắc độ nào đi nữa,
vẫn là màu tím Huế, màu tím đang chuyển sắc cùng với ánh trời chiều,
ba hồi từ màu xanh qua màu tím, ba hồi từ tím chuyển qua xanh, tùy
theo thời gian hay vị trí ngắm nhìn:
Dãy núi tím bỗng
thay màu xanh ngắt
Rồi ố lần trong giờ khắc nhá nhem
(Nam Trân: Nắng
thu)
Không gian tím, thời gian biền biệt tím ấy
hơn nửa thế kỷ trước đây đã là nguồn cảm hứng tạo nên thi phẩm “Màu
thời gian”, bài thơ hay trong Thi Nhân Việt Nam xuất bản năm 1941:
Màu thời gian
không xanh
Màu thời gian tím ngát
(Đoàn
Phú Tứ)
Cùng với không-thời-gian tím ngắt còn lưu
luyến nhiều kỷ niệm Huế đẹp Huế thơ, năm 1988 trở lại thăm Huế, Đoàn
Phú Tứ nhớ lại:
“Hai câu thơ cuối cùng trong bài Màu Thời Gian của tôi:
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
ghi những cảm xúc của tôi trước những màu tím của các
cô gái sông Hương vẫn vấn vít trong tâm hồn tôi (2)”.
Màu tím nên thơ vẫn thường nhìn thấy những
ngày còn đi học mới đây, màu tím dễ thương ấy vấn vương mãi Hữu Loan
đang tuổi thanh niên, vừa lý tưởng vừa lãng mạn mộng mơ trong thời kỳ
kháng chiến. Qua những đồi sim vùng cận sơn Huế, hồn thơ cảm xúc, Hữu
Loan nhớ Huế, nhớ tím ngắt bầu trời Huế:
Những đồi hoa sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt ...
Cỏ lục nhuốm màu xuân
Cũng xa xưa lâu đời như màu tím, Huế bát
ngát thắm tươi màu lục với nhiều sắc độ (nuances) khác nhau: màu lục
tươi, lục xanh, lục huyền, lục điều. Rêu xanh cỏ lục, đồi cây rừng lá,
cánh đồng làng sau mùa cấy một màu xanh lục thăm thẳm!
Trong gia đình mọi người náo nức chờ đợi
gặp gỡ nhau mỗi độ xuân về, áo lục khăn lục được đem ra khoe tươi; nhẹ
nhàng hơn có màu xanh lục hay màu nguyệt bạch làm áo lót mớ hai, mớ ba
... một thời là trang phục của các mệnh phụ phu nhân.
Màu lục biểu hiệu sự tươi thắm mát dịu như
thảm cỏ mùa xuân, như “mạ xanh non nỏn nên tình, bao nhiêu lá mạ
thương mình bấy nhiêu”.
Cùng thích màu tươi mát, giới phụ nữ trẻ tuổi chọn màu
xanh lơ hay xanh biếc, các cụ bà trái lại chọn màu lục, như trở lại
thắm tươi thời thanh xuân, kéo dài thêm tuổi
thọ:
Kìa rêu xanh cỏ
lục nhuốm màu xuân
Cây cổ thụ cùng mừng thêm một tuổi.
(Ưng Bình
Thúc Giạ: Dạo chơi hồ Tịnh Tâm. 1939)
Màu lục thơm ngát hương bài sắc phục chốn
nội cung, trong triều ngoài quận vang vọng chốn thôn quê về tận những
bến đò xa lắc xa lơ:
Chiều xuân sang
chuyến đò đông
Trai tơ khăn lục, gái hồng thắm môi.
(Hồ Dzếnh: Chiều xuân Trung Kỳ)
Ao lục, quần lục, khăn lục, nhiều độc giả
thế hệ trẻ ngày nay ở hải ngoại hẳn sẽ ngạc nhiên tại sao có màu sắc
mới lạ này trong y phục Việt Nam cổ xưa.
Độc giả chắc còn nhớ, có một thời cách đây
không lâu, màu sắc thời trang nhất, mốt (mode) nhất trong y phục phụ
nữ Tây phương là màu lục (vert). Lai rai đến ngày nay màu lục ấy vẫn
còn và còn phổ biến hơn. Sắc màu này (lục tươi hay lục thẩm) trước đây
hơn thế kỷ, có khi lâu hơn, là màu sắc thông dụng thường thấy tại kinh
đô Huế!
Điển lệ thời quân chủ trước đây định rằng, các tôn
tước, tôn thất từ bậc công trở xuống, tùy theo thứ bậc mặc áo đoạn sa
màu xanh lục.
Luật lệ triều đình thời ấy cũng ấn định
thêm, ngoại trừ các văn quan hàm nhất phẩm (chánh nhất và tòng nhất)
sắc phục màu vàng cổ đồng và màu thiên thanh; văn quan từ nhị phẩm đến
lục phẩm sắc phục thường triều màu quan lục.
Màu lục áo bào các vị tân khoa tiến sĩ đệ
nhất giáp, đệ nhất danh, dự yến tiệc và dạo chơi vườn thượng uyển,
trên đường hoa thắm vinh quy “hương trời lộc nước phấn vua” còn vươn
xa tận núi rừng đến các lăng tẩm u sầu tịch mịch.
Lo việc hương đèn phụng tự nơi chốn thâm
nghiêm vắng vẻ này là các nữ quan, các bà hộ lăng. Sắc phục nhìn thấy
trước tiên ở đây là màu lục (3).
Phong cảnh hòa hợp, thiên nhiên và nhân
tạo. Dưới rừng thông xanh ngát và sắc màu lục xôn xao lay động, lạ
lùng thay nơi đây vừa lạnh lẽo hiu hắt, vừa êm đềm thơ mộng! Nhẹ nhàng
mát dịu như cây cỏ mùa xuân, màu lục tươi thắm nơi chốn tôn nghiêm
“trong lư hương còn đọng nắm tro tàn” như gợi lên kỷ niệm trầm buồn,
thế giới người xưa đang gần gũi đâu đây, giữa rừng thiêng âm u:
Các chị thấy bóng
vua xưa thấp thoáng
Rủ nhau về thăm viếng cõi giang sơn.
(Xuân Tâm: Gái hộ
lăng)
Cùng chung dòng tâm tư cảm ngộ như Xuân Tâm
trong Thi Nhân Việt Nam, hơn 20 năm trước đó (năm 1927), từ những lăng
tẩm ẩn uất, giáo sư thi sĩ Henri Cosserat tưởng nhớ kinh đô Huế:
Thành đô đây, bóng
tà dương sắp khuất
ánh trời tây sáng lạn lửa vinh quang
Một chiều nọ từ lăng tẩm ẩn uất
Dĩ vãng kia, bừng sáng dậy ... hồi sinh.
(Võ Như Nguyện, dịch)
... Ô Cité, que le
soleil qui tombe
Allume à l’Occident le clair bucher de
gloire
Pour que revive un soir ton Passé de sa
tombe!
(H.Cosserat
: Hué)
Bên cạnh bức tranh kỳ vĩ có mãnh lực khơi lại dĩ vãng
hùng tráng, tìm về cảm quan mỹ thuật lễ nghi truyền thống thời xa xưa
cổ điển. Màu lục tươi thắm thông dụng còn kết hợp với nhiều sắc màu
khác tạo thành những hợp sắc, những lối “chơi màu” (jeu de couleurs)
thật đặc biệt, nửa âm nửa dương, nửa tân nửa cựu: áo lục quần điều, khăn
chít màu hỏa hoàng, có khi áo rộng xanh, khăn lục quần điều ...
Hơn 100 năm trước, Huế màu sắc
“technicolor”! Bên cạnh màu sắc tươi đẹp duyên dáng trong sắc phục các
nữ quan và các bà hộ lăng, còn rực rỡ thêm màu lục áo dài cung phủ
những ngày đản kÿ hay lễ Tết quanh năm.
Nhớ biết mấy, Huế màu sắc một thời trước
1945, từ Bến Ngự - Nam Giao xuống đến Ngự Viên, Đông Ba - Gia Hội hai
cầu, màu lục thắm tươi như màu hẹn hò thương nhớ:
Nhớ cả cây đa và
bến cũ
Nhớ người áo lục phố Đông Ba.
(Bửu Cầm: Xuân
nhớ)
Thắm tươi dịu dàng trong y phục cổ truyền,
từ cung đình đến dân gian, màu lục gây nguồn cảm hứng trong thi ca, điển
hình với một loài hoa nhiều người biết là hoa thiên lý, loài hoa đã để
lại dấu tích trong văn học, ca dao ngày nay còn vang vọng:
Tóc em dài, em cài
hoa thiên lý
Anh thấy em cười, để ý anh thương.
Hoa lý (nói vắn tắt) hay hoa thiên lý đẹp, nhiều người
mến chuộng: thân cây mảnh mai mềm mại, hương thơm thanh khiết nồng nàn.
Bông lý đẹp và dễ thương thường được ví với đàn bà đẹp chốn thị thành
hay nơi thôn xã:
Em chưa có chồng
tựa như bông hoa lý
Em có chồng rồi như trái bí ong châm!
Bông chi thơm bằng bông hoa lý
Trái chi quý bằng trái đào tiên
Kiếm nơi mô thầy thảo, mẹ hiền
Gởi thân cho trọn vẹn, của với tiền phù vân.
(Ca dao)
Hoa thiên lý, tên chữ trong bản thảo Lục
Mạt Ly; theo Gia Định Thông Chí, Mạc Lý hoa. Theo các nhà thảo mộc học
Tây phương, viết theo tiếng La Tinh Pergularia odoratissima hay
Cynanchum odoratissimum. Rắc rối quá!
Lý giải hay viết theo lối nào đi nữa thì lý
vẫn là loài hoa màu lục có hương thơm nồng nàn, hoa lá bò trên giàn (giậu)
“quấn quít nhau như cây lọng”.
Trước sân nhà có
giàn thiên lý
Khoe lá hình tim mơn mởn xinh
Từng cụm hoa vàng, vàng ngã lục
Hương đưa theo gió nhẹ rung cành.
(Vị Hoàng)
Gần như nhà nào ở Huế, nhà vườn rộng rãi
phong lưu hay nhà tranh giản dị đều có giàn hoa thiên lý để có bóng
mát, vừa có hương thơm, chiều chiều cả gia đình cùng nhau sum họp trò
chuyện. Có khi, chỉ hai người dưới gió mát trăng trong; rứa mà vẫn cứ
rụt rè e lệ sợ rằng lỡ người khác biết “dị lắm”!
Sột soạt gió trêu
tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
(Hàn Mạc Tử: Mùa xuân chín)
Từ màu lục duyên dáng thời Huế đẹp năm xưa
mùa cổ điển, hoa thiên lý trở nên hoa duyên tình nồng đượm trong cổ nhạc
Huế. Nhiều điệu ca Huế, từ Nam Ai, Nam Bình, đến Long Ngâm, Quả Phụ đều
thấy thoáng qua bóng dáng Lục Mạt
Ly, hoa thiên lý:
Bông đào, bông lý,
ấy nhụy bông hường
Thơm nức bên vườn, ấy mùi hương, mùi hương.
Gảy nhịp đàn, nghe câu quỳnh tương
Tơ tình lăng líu vì sợi tơ vương ...
Hành
Vân (điệu): Tuyển tập ca Huế, T.S.H.
Sông Hương một giải xanh xanh
Màu tím Huế trang nhã đưa duyên, màu lục
mộng mơ huyền thoại, hai màu sắc mỹ cảm này hợp cùng với ba màu xanh,
đỏ, vàng tạo thành một gam màu sắc mới gọi là ngũ sắc Huế nổi bật
trong các họa phẩm Huế đẹp, Huế thơ.
Không những hiện hữu trong thiên nhiên,
trong mỹ thuật, ngũ sắc Huế xanh đỏ vàng lục tím lóng lánh trong thi
ca từ buổi đầu tiên có thành Thuận Hóa - Phú Xuân, mấy trăm năm rồi ký
ức còn mãi đến ngày nay.
Màu lục, màu tím vừa mơ màng thoáng qua.
Đặt chân đến Huế du khách nhìn thấy trước mắt màu xanh. Màu xanh sông
Hương dịu dàng, màu xanh gần gũi núi Ngự, màu xanh cảnh vật khắp nơi
từ đồng bằng duyên hải lên đến núi rừng Trường Sơn diệu vợi.
Xứ Huế ngát xanh với màu lá cây. Xứ Huế
ngát xanh với dòng nước sông Hương. Xứ Huế xanh ngát với khung trời
vào độ tháng bảy, tháng tám. Nghĩ lại thời xứ Huế còn mang tên Châu Rí,
thời ấy chắc chỉ mới có một nửa màu xanh!
Người con gái đầu tiên mở nước về phương
Nam đã mang lại màu xanh toàn bích cho xứ Huế: Công chúa Trần Thị
Huyền Trân.
Con đường đưa về nhà chồng không dừng lại ở
cố đô Phật Thệ (Nguyệt Biều) mà vượt núi băng ngàn tiến mãi vào phương
Nam đến vùng kinh đô mới: Đồ Bàn.
Phật Thệ- Nguyệt Biều đã trở thành lễ vật
rước dâu trong ngày vu quy tháng 6 năm Bính Ngọ. Theo dấu kiệu hoa, di
dân các vùng Thanh-Nghệ đã trải tấm thảm xanh lên vùng đất khô cằn. Từ
đó, màu xanh càng ngút ngàn, càng chìm sâu, càng thăm thẳm.
Màu xanh sính lễ, màu xanh Trần Thị Huyền
Trân kỷ niệm một mối tình, màu xanh ấy càng đẹp thêm qua màu xanh đôi
mắt dịu hiền mộng mơ và mái tóc thề óng mướt buông lơi. Người con gái
Huế đã dùng nước sông Hương để mái tóc thêm xanh, đã dùng màu lá cây
để tô thêm mắt biếc. Màu xanh đã trở thành lời tình tự thiên thu, Huế
đẹp, Huế thơ (5).
Màu xanh ca ngợi một mối tình! Sắc màu
duyên dáng biểu tượng tính cách Huế ấy hiện thực trong thi ca, trải
dài trong hội họa, sống mãi trong tâm tư. Mở đầu với màu xanh, kết
thúc với màu xanh. Tất cả đều một màu xanh, như lời giáo sư thi sĩ,
thầy Henri Cosserat: “Tout est bleu”.
Sinh trưởng ở Huế, sống trọn đời với Huế,
không những mê say cảnh vật Huế, thầy H. Cosserat còn tâm tình với cảnh
vật Huế như với cố nhân. Mở đầu bài thơ “Trên sông Hương” (Sur la
Rivière des Parfums), màu xanh của thi sĩ H. Cosserat xuất hiện như
một khám phá đợi chờ: “Tout est bleu”, tất cả một màu xanh!
Tout est bleu comme au flanc nu d’une porcelaine
Sur le Fleuve Embaumé chanté par tant de Rois.
La lune qui s’allume à l’horizon des plaines
Accroche son fanal aux dragons d’un vieux toit.
(H. Cosserat: Sur la Rivière des Parfums (6).
Sông xanh màu Huế
thanh tao
Dòng thơm lưu luyến biết bao anh tài.
Đế vương ca ngợi sông dài
Mái xưa rồng chạm trăng cài đèn hoa.
(Lệ
Vân, dịch)
Màu xanh sông Hương vừa nhìn thấy chưa phải
là màu xanh cổ điển quen gặp trên chén bát sành sứ giới chuyên môn cổ
ngoạn gọi là màu xanh Huế (Bleu de Hué) khác biệt với màu xanh Bắc
Kinh - Bleu de Pékin (7).
Màu xanh cổ ngoạn tuy đẹp nhưng quan cách
quý phái, xa xôi với đại chúng bình dân, khác màu xanh thông thường
nhìn thấy khắp nơi trong không gian Huế: cảnh vật xanh, lá cây xanh,
núi rừng xanh, dòng sông xanh ...
Sông Hương một dãi
xanh xanh
Gió vờn mặt nước, sóng tình đầy vơi.
(A Nam Trần Tuấn Khải:
Non Nước Thần Kinh)
Cùng trên dòng sông ấy gần 20 năm sau, Xuân
Diệu xôn xao thưởng thức ca nhạc cổ điển Huế “trăng nhập vào đây cung
nguyệt lạnh”. Nhìn bến sông Hương nhà thơ nhớ bến Tầm Dương của Bạch
Cư Dị, trong bài thơ nổi tiếng Tỳ Bà Hành:
Vì nghe nương tử
trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Xuân Diệu: Nguyệt
cầm)
Biết Xuân Diệu không ai bằng Huy Cận vì cả
hai cùng chung mái trường Khải Định, một thời gian cùng sống với sông
Hương, có khi cùng “ngậm ngùi, nắng chia nửa bãi chiều rồi”, như sau
này Huy Cận hồi ức:
“ . . . Xuân Diệu
học ở Huế ... Xuân Diệu gặp Huế là gặp người và cảnh đồng điệu. Anh
rất mê ca nhạc Huế và anh biết ca hát khá hay hầu hết các bài ca Huế,
từ Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh ... đến các điệu hò Mái Nhì, Mái Đẩy
... Việc anh thuộc ca nhạc Huế có ảnhhưởng cho sự phát triển của thơ
anh, chính anh cũng nhận rõ thế..” (8).
Không ngạc nhiên lắm, đến lượt Huy Cận khi
nhìn sông Hương nước xanh, bến sông cùng một màu xanh, nhà thơ tưởng
tượng con sông trường giang nào đó “Nắng xuống trời lên sầu chót vót”,
cảnh vật hình như khác đi, màu sắc tác động ảnh hưởng qua lại, sắc độ
biến đổi khá nhiều.
Mênh mông, cô liêu quá; bên bờ sông xanh,
Huy Cận đứng đó trầm ngâm mơ màng:
Không cầu gợi chút
niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
(Huy Cận: Trường
giang)
Cùng có chung dòng sông Hương, cùng một tâm
hồn thơ, nhưng cái nhìn của hai trò Huy Cận và Xuân Diệu đang độ thanh
xuân khác thầy H. Cosserat của mình.
Nhìn màu xanh qua nhãn quan một giáo sư
khoa học, ngôn ngữ Pháp lại quá phong phú về địa hạt này, ngữ thi thay
hình đổi dạng, màu xanh của thầy Henri Cosserat dưới cái nhìn sắc độ
khác nhau, khi xanh tuyền như bình sứ, có khi màu xanh tím, có khi màu
xanh ngọc, xanh lam.
Thủy chung một tấm lòng, sông Hương ấy đối
với giáo sư thi sĩ H. Cosserat vẫn là một, vẫn đượm ngắt màu xanh, màu
thiên thanh sáng trong, long lanh như thủy tinh khi trời bình minh.
L’horizon cristallin est transparent et nu
Il règne au bas du ciel d’un azur inconnu
Une vapeur d’encens dont l’aurore est baignée.
(H. Cosserat: Aube sur le Huong Giang).
Trời pha lê... phơi trần và trong vắt
Dưới gầm trời đượm ngắt một màu xanh
Hơi hưong tỏa, cả bình minh sáng rạng.
(Lê Văn
Lân dịch)
Huế mơ màng, qua Huế đẹp Huế thơ càng thấy
mơ màng, chơi vơi hơn!
Dòng sông xanh, cảnh vật chung quanh cùng
ngã màu xanh. Tuổi xanh nhìn trời xanh một màu. Rồi ngày xanh thoáng
qua mau với thời gian xanh. Xa xa khói xanh mơ màng bên xóm vắng.
Đợi đò sang sông, một buổi chiều giao mùa “
buồn hơn nhớ, nhẹ hơn điều trông mong”, Hồ Dzếnh cảm thấy ngẩn ngơ:
Hiu hiu chiều ngã
tà tà
Buồn lên xóm vắng, cây nhòa khói xanh.
(Chiều xuân Trung
Kỳ)
Hết một giải sông Hương, màu xanh như còn
quyện lẫn đó đây, vương vấn không rời bước chân du khách. Lưu Trọng Lư
nhìn “dãi rêu xanh in dấu vết thời gian”, tự hỏi:
Em có bao giờ nói
với anh
Những câu tình tứ thuở ngày xanh
(Lưu Trọng Lư: Khi thu rụng lá)
Huế đẹp, Huế thơ, màu xanh ấy không phải
chỉ có Lưu Trọng Lư, mà còn Chế Lan Viên, còn Xuân Tâm nhiều nhiều
khác nữa.
Trời xanh ơi hỡi!
Xanh không nói
Hồn tôi muốn hiểu, chẳng cùng cho
Có cánh chim gì bay chới với
Hết rồi! Nó lạc giữa hư vô.
(Chế Lan Viên: Đọc
sách)
Không, tôi chỉ
thấy, khi tôi đến viếng
Dãi rêu xanh in dấu vết thời gian.
(Xuân Tâm: Gái hộ
lăng)
Giống Huy Cận, thời tuổi xanh của trò Tế
Hanh tại trường Khải Định Huế là một không gian xanh “ngõ quạnh, đường
quanh mở khắp nơi”.
Sau này, nhớ lại trường cũ, “nhớ thuở lòng xanh”, màu
xanh thân thiết ấy hai lần trở lại với Tế Hanh trong cùng một bài thơ
“Nhớ trường”:
Nhớ thuở lòng xanh
dưới mái nâu
Bâng khuâng ôm ấp mộng ban đầu
Ôi thuở đầu tiên của ái tình
Người đi đâu mất hỡi cây xanh
Vẳng nghe lá đẹp còn to nhỏ
Tiếng ngọc lời vàng “em với anh”.
Tế Hanh (9)
Có những màu xanh quen thuộc nhiều người đã
đi qua và trở lại. “Cảnh đẹp dưới trăng xanh êm ái” nhiều lần đến với
Phạm Huy Thông trong thời gian dạy học tại Huế đô. Mấy mươi năm sau
trở lại Huế, kỷ niệm khó quên của nhà thơ Phạm Huy Thông vẫn là dòng
sông xanh êm đẹp năm nào (10):
“Với Huế lòng tôi trước sau sâu nặng ân
tình. Song nhìn sông Hương êm đẹp hôm nay mà
lòng tôi vẫn cứ nao nao nhớ về sông Hương êm đẹp những ngày năm
trước”.
Tiếng giả từ núi cao cùng sông rộng
Chào rừng xanh với vòm trời lồng lộng.
(Phạm Huy
Thông: Con voi già, Tặng Phan Bội Châu)
Cùng một màu xanh, nhưng sắc xanh của Hàn
Mạc Tử không còn là màu xanh của Huy Cận hay Xuân Diệu mà ẩn hiện nét
phong nhã riêng. Từ tà áo biếc sông Hương, màu xanh lan xa đến đồng
nội “nắng ửng khói mơ tan”, nơi có những ngôi nhà vườn vô tình đã để
lại nhà thơ một vài thương tiếc bâng khuâng:
Vườn ai mướt quá
xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
(Thôn Vỹ Dạ)
Sóng cỏ xanh tươi
gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
(Mùa
xuân chín)
Hơn tất cả các màu khác, màu xanh trong
Huế đẹp Huế thơ có nhiều sắc độ biến đổi đa dạng. Tùy theo thời tiết
hay sáng trưa chiều tối, tùy theo đối tượng, dưới cái nhìn nghệ sĩ nhà
thơ hay họa sĩ, sắc màu ấy có khi là xanh da trời, xanh lá cây, khi
xanh nước biển, xanh lơ, xanh biếc, xanh lam, xanh ngọc...
Trong ngôn ngữ hàng ngày, màu xanh còn được
nối dài bằng nhiều tỉnh từ hay trạng từ tưởng tượng như xanh lè, xanh
lét, xanh xám, xanh rì, xanh rờn, xanh ngắt, xanh bướt...
Tuy xanh nào cũng là xanh, nhưng xanh tươi
(verdoyant), xanh dịu (vert tendre) khác xanh đậm, xanh thẩm (vert
foncé). Tận cùng trong ngôn ngữ thơ và thường được nhắc đến nhiều hơn
cả là sắc xanh biếc, hay biếc, nghĩa tương đương với xanh thẩm tươi
(vert émeraude).
Đi xa hơn trong giấc mơ thi sĩ, nhìn người
đẹp dịu dàng với tà áo trắng “tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay”, Huy Cận
tưởng tượng màu biếc lưng trời:
Em lùa gió biếc
vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non.
(áo trắng)
Non xanh nước biếc! Còn viễn cảnh nào mênh
mông thương nhớ hơn khi khách viễn du dừng chân trên bến bờ xa vắng mơ
về cố đô:
Lòng son thắm mãi
dù đầu bạc
Nước biếc non xanh vẫn đợi chờ
Bửu Cầm: Hồn vũ
trụ)
Cùng chung cảnh ngộ như nhà thơ Vỹ Dạ Bửu
Cầm, thiền sư Viên Thành một lần “dạo chơi núi” nhớ dấu xưa người cũ:
Rêu xanh đá mọc nhìn đường cũ
Khói biếc xây thành tưởng dấu xưa.
(Viên Thành : Chơi
núi)
Trong bối cảnh chùa Ba La Mật ố Nam Phổ với
vị cao tăng thi sĩ tư tưởng thượng trí, tư cách phong nhã, “khói biếc”
của Viên Thành thượng nhân làm người viết nhớ lại “khe biếc” của nhà
thơ Thanh Tịnh ố Dương Nổ trong thi phẩm “Kính tặng sư Viên Thành”,
TSH đã một lần đăng tải, nay chỉ nhắc lại đôi ba câu gợi lại ngũ sắc
trừu tượng Huế:
( . . . . ) Cửa
Phật đây rồi, tôi thấy tôi
Mơ trời cao cả luyến xa xôi
Chuông chùa ngân rả mười phương mộng
Khe biếc say kinh cá hận mồi.
( . . . . ) Cảm
tấm chân thành đạo sĩ thương
Đón tôi trong cửa mở muôn phương
Nhưng sen hồ lạnh mùa thu dậy
Tôi nhớ hương cây cảm bụi đường.
( . . . . ) Đạo sĩ chờ tôi chán hải hồ
Tôi chờ đạo sĩ lãng hư vô
Tôi mơ đêm lạnh lòng sơn tự
Ấp ủ men ngàn đợi áo khô.
Thanh Tịnh (11).
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Huế đẹp, Huế thơ với khung trời xanh, dòng
sông xanh với làn gió biếc. Nhưng lạ chưa tề! Tản Đà, Hàn Mặc Tử,
Thúc Tề, rồi thì Thế Lữ, Huy Cận và cả Văn Cao nữa, mấy nhà thơ này
nối tiếp nhau cùng nhìn màu xanh đang lần lần đổi sang màu trắng. Tùy
tâm tư thi tứ, tùy góc độ nhìn, có khi là màu trắng tinh, có khi màu
trắng bạc, có khi vừa trắng vừa xanh.
Lâu ngày với cảnh vật Huế, với người Huế,
Hàn Mặc Tử nhìn màu trắng sông Hương lan xa đến màu trắng cô gái Huế
“áo em trắng quá nhìn không ra:
Chị ấy năm nay còn
gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.
(Mùa
xuân chín)
Trái với Hàn Mặc Tử nhìn sông trắng nắng
chang chang, Thúc Tề lê thê, có khi ẻo lả với vừng trăng Huế, nhìn màu
trắng sông Hương trải dài như tiếng nước thở dài hay có khi chính niềm
trăng đang thở dài với nhà thơ:
Lai láng niềm
trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng.
(Thúc Tề: Đêm trăng trên sông Hương)
Sau Tản Đà “tâm tình man mác”, Thế Lữ là
người thứ hai mở đầu phong trào Thơ Mới, trường phái lãng mạn bắt gặp
trong Thi Nhân Việt Nam:
Tiếng sáo diều nao
nao trong vắt
Trời quang mây, xanh ngắt màu lơ
Thuyền trôi nước đẩy hững hờ
Hàng cây lặng đứng trên bờ trông mong.
Có thể nói rằng với khung trời mộng mơ Huế đẹp, Huế
thơ, Thế Lữ đã có dịp sống nhiều hơn những bâng khuâng man mác của
lòng mình.
Trên dòng sông Hương từng nghe tiếng đàn
“khiến trăng nước đắm say hồn ly biệt”, Thế Lữ tưởng tượng những cuộc
tiễn đưa bên mấy khóm cây “để dài thêm hạn cuộc tình duyên”.
Đổ bờ sông trắng, con thuyền bé
Cạnh lớp lau già, gió lắt lay.
(Thế Lữ: Bên sang đưa
khách)
Cũng như Thế Lữ với dòng sông Trắng, Văn
Cao có nhiều kỷ niệm với dòng sông Thơm, cho đến lúc “tà tà trăng lặn
hiu hiu gió” mới sực nhớ ra:
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hí
Sông trắng bờ xa lộ vắng nhà.
(Văn Cao:
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế)
Sống nhiều với Huế, với những đêm đàn lạnh
trên sông Huế “ngẩng lên kinh kỳ khói vấn vương”, Văn Cao lạc lỏng đêm
vàng tương tư màu áo xanh:
Tri âm nghe thử
dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru.
Cũng vì những kỷ niệm cũ ấy, hơn bốn mươi năm sau (năm
1986) trở lại Huế nhà thơ nghệ sĩ nhắc lại:
“Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những
năm 1940. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn
từ nơi ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có những điều gây cảm
xúc cho sáng tạo.
Đối với nơi đó, người ta phải suy nghĩ
nhiều không vì lịch sử mà vì một nền văn hóa.
Những người Huế sống tự hào và đầy sáng tạo. Có lẽ sự
sáng tạo của người dân Huế, tôi làm được thơ và nhạc” (12).
Cũng với cái nhìn hội họa ấy, trước Thế Lữ
và Văn Cao hơn 20 năm, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thăm Huế theo lời mời
của chủ nhân nhà in Đắc Lập, cụ Bùi Huy Tín. Mê say cảnh vật Huế “gặp
ta nay, xuân chớ lạ lùng”, Tản Đà thả hồn theo sông Hương vừa trắng
vừa xanh:
Dòng sông trắng, lá cây xanh
Xuân giang, xuân thụ cho mình nhớ ai.
(Chơi Huế)
Cùng học ở Huế, cùng có chung hồn thơ Huế
đẹp, cùng chung nguồn thi hứng “tà áo dài trong nắng nhẹ nhàng bay”,
nhưng Hàn Mặc Tử và Huy Cận mỗi người hiện thực màu trắng theo một thi
ngữ, thi hứng riêng.
Hàn Mặc Tử đứng nhìn áo trắng từ xa mà
chẳng bao giờ gặp:
Mơ khách đường xa,
khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra.
Tà áo trắng đến với Huy Cận khác hơn. Người
đẹp, nơi “nương tựa” của nhà thơ để thấy mình không lẻ loi, hình bóng
ấy đến với nhà thơ “nở bừng ánh sáng” khi “gót ngọc dồn hương bước tỏa
hồng”. Từ cõi lòng mơ ước, Huy Cận đi giữa đường thơm với mối tình
tưởng tượng như vừa chớm nở:
áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng.
... Dịu dàng áo
trắng trong như suối
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
(Huy Cận: áo
trắng)
Từ màu trắng dòng sông Hương đến màu áo
trắng ước mơ hôm nào; bên kia cầu lá rụng đã bao lần! Thay đổi là
chuyện thường tình. Biến ảo, biến dịch nghĩ cho cùng là chuyện tất
nhiên. Với cảm giác và thị hiếu màu sắc gần như tiếp nối vô hạn, ảnh
hưởng qua lại giữa các hợp sắc, thiên nhiên cảnh vật biến đổi, màu
trắng trinh nguyên chuyển sắc thành màu bạc, màu trắng bạc hay trắng
bạch. Từ đó, nhân gian có thêm màu mây bạc, màu sương bạc và xa-xa lờ
mờ núi bạc, tiếp nối thêm màu trăng bạch trời hồng:
Tôi nghe xa lắm
màu mây bạc
Rời bóng kinh thành lửng thửng đi.
(Trần Huyền Trân: Giao
thừa)
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Xuân Diệu: Nguyệt cầm)
Trông chừng mây
bạc lưng chừng
Phải chăng cố quận dưới hàng mây kia.
(Ca dao)
Lớp lớp mây trôi đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
(Huy Cận: Trường
Giang)
Xem lên trăng bạch trời hồng
Nào ai đón ngỏ bên sông
Không cho em dạo miền sơn thủy,
bẻ bông thái bình.
(Ca dao)
Cũng trong tâm tư tuần hoàn biến dịch ấy,
trước thế hệ Thơ Mới gần 200 năm, Nguyễn Du đang làm quan tại Huế, hai
lần đến thăm chùa Thiên Thai ở phía đông kinh thành.
Thời gian trôi qua, ngôi chùa thêm cổ
kính, mây trắng bay lững lờ, lá vàng rơi lả tả. Riêng mình đầu đã bạc
và vị sư già ngày trước cũng đã “tiên triều tăng lão bạch vân trung”.
Cảnh đẹp mà lửng lơ buồn! Có đủ núi xanh,
lá vàng, mây trắng và đầu...bạc!
Chùa cổ lá vàng thu phủ kín
Triều xưa mây trắng sãi già rồi
Thương cho đầu bạc còn vương lụy
Cũng với non xanh trót phụ lời.
(Vọng Thiên
Thai Tự, Nguyễn Du toàn tập (13).
Huế mình, nắng vàng phượng đỏ
Nhị vàng bông trắng lá xanh, hai màu vàng
trắng nhẹ nhàng lửng lơ này thường đi cặp đôi.
Màu vàng phấp phới trên kỳ đài trước năm 1945:
Cờ vàng xinh xinh
bóng cờ vàng
Huy hoàng bóng huy hoàng,
mấy phen gây dựng giang sơn...
Màu vàng trước cửa Ngọ Môn:
Ngọ Môn năm cửa
chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh...
Màu vàng nhắc lại thanh âm bản Đăng Đàn Cung năm nào
còn đi học trường Đông Ba:
Kìa núi vàng bể
bạc
Có sách trời, sách trời định phân...
Màu vàng hoàng gia, sắc vàng cung đình quen thuộc với
người Huế, nhiều người biết, khỏi nhắc lại đây.
Trên đường khám phá và sáng tạo, trong
không gian Huế đẹp Huế thơ, màu vàng rất nhiều khi là nguồn thi hứng
đối với nghệ sĩ:
Nơi đây rụng đổ lá
vàng
Lăng vua xa lắm, dặm đàng nhạc xanh.
(Bích Khê: Huế đa
tình)
Không chờ đợi được đưa vào Huế đẹp Huế thơ,
có những cảnh vật rất thông thường được thi vị hóa trở nên đẹp, nên
thơ và thành thơ. Cảnh vật nên thơ và trở thành thơ ấy gợi tình, gây
xúc động người khác, từ đó phát sinh tình cảm lưu luyến, chờ đợi ngóng
trông, thương nhớ dài dài...
Mùa thu chung của bà con thiên hạ khác mùa
thu trong thi ca. Cả đến lá vàng cũng vậy. Lá rụng đầy sân một ngôi
nhà vườn đâu đó khác lá vàng trong thơ “nơi đây rụng đổ lá vàng” hay
lá vàng mộng mơ của Xuân Diệu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mờ phai dệt lá vàng.
(Nguyệt Cầm)
Hay của Chế Lan Viên, cả về âm thanh, chữ nghĩa và cảm
hứng:
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng.
(Xuân)
Trong không gian Huế đẹp Huế thơ ấy, hình
như rằng màu vàng đang di động biến đổi từ cái chung đến cái riêng,
màu vàng theo cảm quan của các thi nhân nghệ sĩ. Cũng như trong hội
họa, trong cái riêng ấy không màu vàng nào giống màu vàng nào: chút
đậm, chút lạt, có khi lấm tấm vàng hay xanh vàng hợp sắc:
Vài hòn non bộ
nhiều đêm vắng
Biển cạn đầy trăng, cá đớp vàng.
(Anh Thơ:
Vườn xưa)
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng chốn Đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh.
(Nguyễn Bính:
Người con gái lầu hoa)
Trong làn nắng ửng
khói mây tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
(Hàn Mặc Tử: Mùa xuân
chín)
Không cầu gợi chút
niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
(Huy Cận: Trường
giang)
Trong vũ trụ thi ca, màu vàng thường nhìn
thấy qua ánh trăng, qua cây lá, những buổi trưa hửng nắng hay những
đêm dài mộng mơ:
Tri âm nghe thử
dây đồng vọng
Lạc lỏng đêm vàng khi nhạc ru.
(Văn Cao: Một đêm
đàn lạnh trên sông Huế)
Mặt trăng vàng trỏn trẽn
Nấp sau nhánh phượng khô.
(Nam Trân: Huế đêm
hè)
Hơn ai cả, từ những ngày còn chủ trương
Ngân Sơn Tùng Thư bên kia bờ sông Bến Ngự, Lưu Trọng Lư vẫn thường xao
động với tiếng thu, với màu vàng, ánh trăng vàng, rồi mộng vàng khép
kín, có khi con nai vàng ...đạp trên lá vàng khô.
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ trên làn tóc rối.
Ta hát dăm câu vô nghĩa lý
Lá vàng bay lả vào buồng ta.
Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái.
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
(Lưu Trọng Lư: Tiếng Thu 1939)
Cuối cùng Huế màu vàng hiện đến với Tương
Phố cô đơn khi chuyện tình dang dở như Bình Hương Lỗi Hẹn vì người xưa
say giấc ngủ ngàn năm, mới thấy đó nay đã xa rồi:
Bình Hương non
nước hữu tình mấy mươi.
. . . . Tro vàng lẫn khói hương bay
Tro tàn, khói tỏa bao khuây hận tình!
(Tương Phố: Bình hương lỗi hẹn)
Trong ngũ sắc nhìn chung, màu đỏ được xem
như đứng hàng đầu nói về tượng trưng giá trị tinh thần và tâm linh
người Việt Nam.
Màu đỏ vui tươi mạnh mẽ, biểu tượng hạnh
phúc, thịnh vượng dài lâu.
Bao gồm ý nghĩa tam đa Phước-Lộc-Thọ, màu
đỏ được nhìn thấy đầu tiên và khắp nơi mấy ngày Tết: màu sơn đỏ, câu
đối đỏ, pháo đỏ... hay trong các dịp vui mừng như lễ khánh hạ, khánh
thành hay lễ thọ (lễ mừng thọ).
Mang thêm ý nghĩa may mắn, vận số tốt (số
đỏ) trong tương lai, màu đỏ được nhìn thấy trong dịp đám cưới.
Màu đỏ văn nghệ được dùng nhiều trong lối
hóa trang hát bội Huế: võ quan trung thần như Quan Công, Tống Địch
Thanh, Tống Nhạc Phi... mặt tô màu đỏ (xích diện). Về trang phục, tùy
theo cấp bậc đúng theo tuồng hát, võ quan mặc áo “long chấn” màu đỏ
hay màu xanh.
Nét đẹp trong không gian mỹ thuật Huế có
màu đỏ hoa phượng. Màu sắc này nhìn thấy khắp phố phường Huế mùa hè,
gây nhiều cảm hứng trong thơ văn; đầy đủ nhất có lẽ chưa ai bằng thi
sĩ Nam Trân.
Chỉ 4 câu ngũ ngôn cuối cùng, mỗi chữ là
một cành hoa, mỗi câu là sắc màu đỏ hiện thực trước mắt. Cảnh tình
lồng trong nhạc thơ, vui vẻ rộn ràng như nét đẹp mùa hè “trời hồng
hồng, sáng trong trong” của Hùng Lân.
Hoa phượng như giọt huyết
Dỏ xuống phủ lề đường
Mặt trời gay gay đỏ
Nhuộm đỏ góc sông Hương.
(Nam Trân: Huế ngày
hè)
Biểu lộ hết mức độ hăng nồng son trẻ, màu
đỏ thường đi đôi với màu xanh, “tóc xanh em xin nguyền dệt võng” hay
có khi ai đó “đã chết một đêm rằm theo lá xanh”. Nhưng đam mê sôi nổi
như Xuân Diệu, nhà thơ thấy còn chưa đủ khi “non xa khởi sự nhạt sương
mờ”. Nhà thơ của thế hệ trẻ trước năm 1945 vì thế náo nức xông xáo tìm
đến những ảo ảnh màu sắc mới đối chọi nhau:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
(Đây mùa
thu tới)
Màu đỏ sắc độ nhẹ tươi biến chất thành màu
hồng, tuy rằng nhìn chung trong nhiều trường hợp hồng đỏ đi liền nhau
hay có khi đồng nghĩa. Gọi màu hồng thay vì màu đỏ, cũng được, không
ai nỡ chấp nê chi.
Trong gánh tương
tư những vật gì
Dây hồng, lá đỏ, đó chi chi.
(Ưng Bình Thúc Giạ
Thị: Gánh tương tư)
Chín bỏ làm mười: gót sen, gót son, gót đỏ,
gót hồng để chỉ bước chân người đẹp. Người đẹp sẵn rồi, chữ nào nghe
cũng đẹp!
Trước khi tặng thêm người đẹp mỹ từ khác,
dễ thương hơn: gót vàng, xin hãy trở lại với gót ngọc, gót hồng của
Huy Cận:
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
(áo trắng)
Thích màu hồng trong thi ca có lẽ không ai
ngoài Thanh Tịnh. Chỉ trong một bài thơ ba đoạn, sáu câu, sắc màu hồng
trở đi trở lại ba bốn lần và cũng nhờ màu hồng ấy, bài thơ đọc nghe
thấy nên thơ hơn, duyên dáng hơn:
Có bóng tình quân
muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ.
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai con ruổi dặm hồng xa xa...
Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Ngựa hồng đã đến bên hiên
Chị ơi trên ngựa chiếc yên ... vắng người.
(Thanh Tịnh: Mòn
mỏi)
Cũng như từ đỏ sang hồng, màu đỏ biến sắc
trở nên màu tía, màu đỏ thắm.
Cũng như màu đỏ, màu tía quen thuộc trong
ngôn ngữ dân gian: lầu son gác tía, muôn hồng nghìn tía.
Ngậm ngùi giai nhân khẽ thở dài
Nắng chiều ngã tía sắc lâu đài.
(Đông Hồ: Trong đôi mắt
Huế)
Bồng bềnh mun chảy óng lưng thon
Nhạc tía đền vua chuyển gót son
Yểu điệu Hương Giang mềm nếp áo
Trầm bay khói mỏng vạt trăng non.
(Vũ Hoàng
Chương: Em là công chúa)
Hồng hồng tía tía khắp nơi còn chưa hết thì
màu phượng đỏ phố phường hai bờ sông Hương đã lan xa tận núi rừng trở
thành màu đỏ ráng chiều pha:
Âm thầm cảnh vật vào đêm
Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cùng tắt.
(Nam Trân: Nắng thu)
Màu đỏ khi mặt trời lặn, nhìn ráng chiều bên kia dãy
Trường Sơn càng thấy đỏ rực, nửa tươi nửa hồng. Màu đỏ nào đây? Khó mà
diễn tả thật đầy đủ các sắc độ quấn quít xung quanh màu đỏ này. Gọi đỏ
rực, đỏ au, đỏ chói (rouge vif), chưa hẳn đúng! Đỏ thắm, dỏ bầng bầng
(rouge cramoisi), chưa đủ! Màu lửa vàng (hỏa hoàng), màu lửa cháy
(rouge feu), gần gần đúng!
Màu đỏ khi bóng tà dương gát núi làm nhớ
đến màu đỏ hồng ngọc (rubis) trong ánh lửa long lanh của thầy
H.Cosserat với bài Sur la Rivière des Parfums:
Tandis que sur les monts aux lointains coloris
Un feu de brousse rampe et sertit de rubis
Le bleuâtre manteau des forêts nostalgiques.
Rặng đồi xa còn lung linh muôn sắc
Đám lửa rừng như hồng ngọc điểm trang
áo choàng xanh hoài vọng của núi ngàn...
(Trên sông
Hương, Diên Chi chuyển ngữ)
Và cứ thế, màu đỏ tiếp tục rung rinh tác loạn cho đến
khi chìm đắm hẳn trong không gian ngũ sắc Huế.
Để kết luận:
Thế giới màu sắc Huế qua thi ca bạn đọc vừa
nhìn thấy, không ngưng đọng tỉnh mịch mà lưu lãng chuyển hóa, từ lâu
rồi vẫn mơ về những hợp sắc, biến sắc mỹ lệ hơn thoát khỏi được những
bụi mờ hoen ố từ bên ngoài.
Trên đường sáng tạo, các nhà thơ chúng ta
vừa hội ngộ tìm về Huế đẹp Huế thơ như tìm về cội nguồn xa xăm chờ đợi
lâu ngày. Sống với Huế, người nghệ sĩ trăn trở với mộng mơ, đúng hơn
với giấc mơ tìm về những nét đẹp toàn hảo có khả năng bù đắp được
những gì chưa thỏa mãn lâu nay. Họ đang trên đường tìm về một đích điểm
nào đó, cái phần đích thực Huế trinh nguyên vượt qua được những ràng
buộc của cuộc sống nhân sinh đầy hệ lụy.
Cái tạo nên Huế, vẻ đẹp Huế, tâm linh Huế
các nhà thơ đang trên đường khám phá, chính là cái “tâm” Huế đẹp Huế
thơ đang ôm ấp cưu mang từ buổi đầu tiên cho đến khi không bao giờ tận
cùng.
Của quý báu nhất trong cuộc đời thi nhân
nghệ sĩ là một chữ Tình để sống trọn vẹn với thế gian. Cái tình ấy
cùng với một tấm lòng, người nghệ sĩ đã trao hết, gởi hết trọn vẹn cho
Huế.
Kết thúc thi phẩm Tịnh Hồ Hạ Hứng, tác giả
(vua Thiệu Trị) cảm khái:
Y nhiên nhân trí tình vô hạn
Đồng lạc giao phu vạn vật gia.
Phong cảnh hồ Tịnh Tâm hợp với tình cảm và nhân trí,
mọi người cùng với thiên nhiên vạn vật chung vui chung hưởng an lạc đời
đời.
Không phải chỉ riêng quang cảnh hồ Tịnh Tâm,
cảnh Huế khắp nơi khắp cùng vừa thích nghi diệu lý với trí tuệ, vừa
hòa hợp nhất trí với hai chữ nhân ái và nhân tính. Cái nhân và cái trí
ấy chính là cái Tâm đang bao gồm cả càn khôn vũ trụ Huế đẹp Huế thơ,
cái Tâm đã tạo nên Huế và để lại cho mọi người.
Đây là cái Tâm trinh khiết của những người
đã xây dựng nên kinh đô Huế, cũng với một tấm lòng, sẵn sàng và chờ đợi,
cùng chung chia xẻ với mọi người, với các nghệ sĩ thi nhân, từ quá khứ
xa xăm ấy đến ngày nay và mãi mãi vô cùng tận.
Đây cũng là cái Tâm toàn bích toàn mỹ của
Huế đẹp, Huế thơ, cái Tâm vẫn ước mơ chờ đợi cùng vui với cái vui
chung cả-và-thiên-hạ an nhiên, hòa ái.
Đến đây rồi bạn đọc nhìn thấy rõ hơn, thì
ra thế giới ngũ sắc Huế trong thi ca vừa tạo dựng lại đúng là cái
duyên gặp gỡ của hai tinh cầu rực rỡ, cái Tâm cùng với cái Tình.
Cái Tình của nghệ sĩ thi nhân đối với cái
Tâm Huế đẹp Huế thơ; nói khác đi cái Tâm của Huế đẹp đền đáp lại cái
Tình của thi nhân nghệ sĩ.
Cái Tâm và cái Tình ấy suy đi nghĩ lại chính là nguồn
gốc, khởi điểm và đích điểm của con người trong cuộc sống nhân sinh kể
từ thiên thu vạn đại.
_________________________
Chú thích:
(1) Tô Kiều Ngân, bút hiệu của Lê Mộng Ngân, tác
giả bài thơ “Nhớ Huế”.
(2) Ký ức trên của Đoàn Phú Tứ cũng như của các
nhà thơ Huy Cận, Văn Cao, Phạm Huy Thông (bản viết tay) đều trích dẫn
theo tác phẩm: Bài Thơ Thôn Vỹ. Thơ viết trước 1945. Sông Hương xuất
bản Huế 1987.
Bản đề tặng cùng với băng thơ (ngâm) nhận được nhân dịp
tổ chức văn nghệ TSH năm 1989.
Bài Thơ Thôn Vỹ, tuyển tập thơ Huế đầu tiên, tuy bị hạn
chế vì ảnh hưởng chính trị nhưng nói được là tương đối đầy đũ, gồm 51
tác giả, rất nhiều nhà thơ không có trong Thi Nhân Việt Nam như Ưng
Bình Thúc Giạ Thị. Trần Tuấn Khải, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Trọng Cẩn, Khương Hữu Dụng, Manh Manh, Nguyễn Thị Thiếu Anh,
một số nhà thơ chỉ đến Huế, sống với Huế một thời gian nhưng đã để lại
nhiều kỷ niệm Huế thơ như Yến Lan, Anh Thơ, Tương Phố, Hằng Phương,
Mộng Tuyết, Vũ Đình Liên, Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính...
(3) Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Bộ Lễ. Nhà
xuất bản Thuận Hóa, Huế 1993.
Trang phục, mũ áo Hoàng Đế, Hoàng Hậu, Hoàng Thái Hậu,
Hoàng Tử đến Hoàng Tôn, Tôn Tước; mũ áo văn quan, võ quan, mệnh phụ
văn võ, giám sinh Quốc Tử Giám, tân khoa cử nhân, tiến sĩ ... đều được
triều đình quy định rõ (Q.78) như đoạn ngắn dưới đây trích dẫn:
Thiệu Trị năm thứ 5 (1845): Trước đã chuẩn định: tôn tước
từ thân vương, quận vương, thân công, quốc công, quận công, huyện công,
hương công, huyện hầu, hương hầu, kỳ nội hầu, kỳ ngoại hầu, đình hầu
... tá quốc lang, trợ quốc lang có thứ tự cấp bậc rõ ràng ... theo tước
và phẩm trật có màu sắc áo phẩm phục để phân thứ bậc và tỏ lễ nghi.
(4) Nguyên Hương: Huế thơ, nhớ thầy Henri
Cosserat. TSH 1991.
Sáu bài thơ Huế của thầy H. Cosserat, nguyên tác bằng
Pháp văn, bản dịch Việt ngữ của Lệ Vân, Diên Chi, Võ Như Nguyện, Lê
Văn Lân đều lần lượt đăng tải trên TSH từ 1991-1994.
(5) Tiếng Sông Hương: Bên dòng Sông Thơm. TSH
1989, Tr. 5-6.
(6) Xem chú thích (2).
(7) Nguyễn Thị Thanh: Vài ý kiến về gốm men lam.
TSH 1995, Tr. 5-21.
(8) Xem chú thích (2).
(9) Tế Hanh: Nhớ trường. Trích dẫn từ tuyển tập
Bài Thơ Thôn Vỹ. Xem chú thích (2).
(10) Xem chú thích (2).
(11) Chơi Núi: Sư Viên Thành. Trích dẫn theo Phạm
Quỳnh: Mười ngày ở Huế.
Thanh Tịnh: Kính tặng Sư Viên Thành. TSH 1997. Tr. 24.
(12) Xem chú thích (2).
(13) Vọng Thiên Thai Tự, trích dẫn theo Nguyễn Du
Toàn Tập. Q.IỊ San Jose 1996.