Năm
Hết
Nhớ
Tết Quê Hương Ta
Nguyễn Phú Thứ
Mừng Đông đất khách nhớ
Xuân sang,
Kính chúc mọi nhà được
bình an,
Nợ nước tình nhà nhân lễ
Tết,
Đem lại an lạc cho dân
gian.
Tôi nhớ phần đông gia đình
Việt Nam đều sống bằng nghề nông, nhứt là ở miền Tây Nam Phần Việt
Nam, cho nên sau vụ lúa chánh xong vào khoảng giữa tháng 11 âm lịch
hoặc trễ lắm là rằm tháng chạp, kế đến lo trồng hoa màu phụ như :
Khoai, bắp, đậu.v.v. cho nên trong dân gian có câu :
Tháng chạp là tháng trồng
khoai,
Tháng giêng trồng đậu,
Tháng hai trồng cà,
Tháng ba cày vỡ rung ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa
đầy đồng...
Quả đúng vậy, quý bà con nhà
nông chúng ta ngày xưa, làm việc tùy theo từng mùa, từng tiết, cho nên
thường phân chia một năm có bốn mùa rất giản dị chia đều nhau, mỗi mùa
có 3 tháng tính theo âm lịch như sau :
- Mùa Xuân bắt đầu mùng
một Tết tháng giêng cho đến cuối tháng ba.
- Mùa Hạ từ đầu tháng
tư cho đến cuối tháng sáu.
- Mùa Thu từ đầu tháng
bảy cho đến cuối tháng chín.
- Mùa Đông từ đầu tháng
mười cho đến cuối tháng chạp.
Trong khi đó, đất nước chúng
ta thời tiết ở miền Nam không rõ ràng như miền Bắc, mặc dù vậy, cũng
tính từng mùa theo năm dương lịch như sau :
- Mùa Xuân bắt đầu lập
Xuân là ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng 5, giữa mùa Xuân có ngày 21
tháng 3 thì đêm và ngày bằng nhau. Đó là ngày Xuân phân.
- Mùa Hạ bắt đầu lập
lập Hạ là ngày 6 tháng 5 đến ngày 8 tháng 8, giữa mùa Hạ có ngày 22
tháng 6 là ngày dài nhứt trong năm. Đó là ngày Hạ Chí.
- Mùa Thu băt đầu lập
Thu là ngày 8 tháng 8 đến ngày 8 tháng 11, giữa mùa Thu có ngày 23
tháng 9 thì đêm và ngày bằng nhau. Đó là ngày Thu Phân.
Đối với mùa Thu, ở các nước
Âu Châu những chiếc lá thường đổi màu vàng, rồi từ từ rơi rụng trông
rất đẹp, tuy nhiên, nếu chúng ta có dịp đến nước Gia Nã Đại (Canada)
vào mùa này, thì sẽ thấy cái màu đỏ thẩm của lá toàn thân cây, tạo
thành một vùng tuyệt đẹp hơn hẳn Âu Châu.
- Mùa Đông bắt đầu lập
Đông là ngày 8 tháng 11 đến ngày 5 tháng 2, giữa mùa Đông có ngày 22
tháng 12 là ngày ngắn nhứt trong năm. Đó là ngày Đông Chí.
Ở nước Pháp, một năm cũng có
bốn mùa như nước Việt Nam chúng ta, được phân chia trong năm 2006 như
sau :
- Mùa Xuân bắt đầu ngày
thứ hai 20-03 đến 20-06.
- Mùa Hạ bắt đầu ngày
thứ tư 21-06 đến 22-09.
- Mùa Thu bắt đầu ngày
thứ bảy 23-09 đến 21-12.
- Mùa Đông bắt đầu ngày
thứ sáu 22-12 đến 19-03-2007
Trở lại, Phong Tục Lễ Tết
Nguyên Đán, chúng ta biết chữ Tết là do chữ Tiết mà ra, tức thời tiết,
còn Nguyên Đán tức là bắt đầu năm mới. Hằng năm, cứ 4 mùa luân chuyển
trong năm, hết Xuân đến Hạ rồi Thu và sang Đông, cho nên cứ hết mùa
Đông thì bắt đầu đón mùa Xuân năm mới và có một con vật trong Thập Nhị
Địa cầm tinh khác nối tiếp, ví như năm Ất Dậu bắt đầu giờ giao thừa
ngày thứ tư, 09-02-2005 để cầm tinh đến 24 giờ ngày 28-01-2006 và được
bàn giao giữa đêm ngày chủ nhựt, 29-01-2006 cho năm Bính Tuất, để cầm
tinh đến 24 giờ ngày 17-02-2007.
Khi nói đến Tết, thường quý
bà con đồng hương mình lo từ sau vụ lúa mùa, tức khoảng giữa tháng
chạp, bắt đầu lo xay lúa, xay nếp để chuẩn bị tráng bánh, bánh tráng
thì tráng ban ngày, nào bánh tráng trắng hay ngọt có rắc mè để nướng
hay ăn sống, bánh tráng mỏng để gói chả giò, làm bánh cuốn... bánh
tráng làm bằng bột gạo, thông thường vào khoảng mùng mười, mười một
tháng chạp thì bắt đầu làm. Còn ban đêm, thì quết bánh phồng liên hồi,
tạo âm thanh vui nhộn, vì nhà này làm dần công nhà kia, bánh phồng làm
bằng nếp. Ngoài ra, các bà nội trợ cũng bắt đầu chọn ngày để làm dưa
cải, dưa kiệu, cà rốt, củ cải... để cho kịp chua ăn Tết, cũng như còn
phải mua sắm quần áo mới cho cả nhà từ mấy tháng trước. Nhà nào có
trồng những cây mai trước nhà, cũng chuẩn bị lặt lá mai từ hôm rằm
tháng chạp, để nó nở đúng vào dịp Tết, gia đình tôi, Ông Bà nội và
song thân tôi có trồng những loại huỳnh mai 5 cánh, bạch mai rồi tứ
quý... cho nên vào dịp Tết chúng nó đua nhau nở rộ, các màu vàng, đỏ
trắng rất đẹp mắt.
Chiều 23 tháng chạp âm lịch
hằng năm, mỗi nhà thường tổ chức lễ tiễn đưa ông bà Táo về chầu trời,
để tấu trình mọi việc dưới trần gian cũng như việc trong nhà, ông bà
Táo cũng được chủ nhà mua sắm quần áo mới, với con cá chép sống (thông
thường mua những loại cá làm bằng giấy do người Hoa làm bán, không
biết phong tục này đã có tự bao giờ. Nếu quý bà con đồng hương muốn
tìm hiểu thêm Táo Công Một Bà Hai Ông, xin đọc quyển Thượng từ trang
83 đến 84 trong tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý của Nguyễn
Phú Thứ).
Khoảng các ngày 24, 25, 26
Tết, thường các đàn ông con trai làm việc lu bù, nào sơn phết nhà cửa,
hàng rào, cửa ngõ, đánh bóng những bộ lư hương bằng đồng, dọn dẹp
trang hoàng tủ thờ... Tất cả phải làm thật mới để đón mừng Xuân Tết
đến, nhà nào có đất ruộng, thì lo tát đìa bắt cá ăn Tết. Hằng năm, ông
bà nội và ba má tôi sau khi chọn một cặp cá lóc biết nói (lớn nhứt)
để cúng đất đai vào chiều 30 Tết, đặc biệt đáo lệ hằng năm, cặp cá lóc
này chỉ đánh vảy cho thật sạch, mà không chặt kỳ và đuôi để nấu cháo
cúng. Riêng các đàn bà, con gái thì trổ tài làm bánh mứt đủ loại như :
Bánh chưng, bánh tét, bánh ít, bánh kẹp, báng gan, bánh bông lan, bánh
in... Mứt thì cũng có đủ loại mứt như : Khóm, hạt Sen, Me, Mãng cầu...
thật đủ màu đẹp mắt. Đặc biệt các ông bà cụ già thường đi rảo chợ bông
để mua nào là : Vạn Thọ, Mai, Cúc, Thược Dược, Huệ, một vài chậu Thủy
Tiên, cành Đào... để đem về tỉa, gọt xén để trồng cho kịp nở hoa đúng
vào mùng một Tết. Ngoài ra, còn đến mấy chỗ ông thầy đồ, để chọn lựa
mua những đôi liễn nào ưng ý đem về dán trước nhà hoặc hai bên bàn thờ
hay bàn thông thiên trước sân nhà hoặc là nơi đền miếu cũng được trang
hoàng một cách trang trọng, bởi các câu liễn đơn cử ví như sau :
Phước dư Đông Hải - Tứ hải giai huynh đệ - Xuân đáo hoan hỷ - Phúc thọ
khang ninh - Công thành danh toại.
Thịt mở dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao pháo nổ bánh chưng
xanh...
hoặc là :
Tân niên hạnh phúc bình an
tiến,
Xuân nhật vinh hoa phú quí
lai.
(Năm mới hạnh phúc bình an
đến,
Ngày Xuân vinh hoa phú quí
về)
Địa sanh tài thế nghiệp
quang qui,
Thiên thủ phúc gia thanh
hiện thái.
(Đất sanh tài nghiệp đời
sáng lạng,
Trời ban phúc nhà tiếng
tốt tươi.)
Thiên tăng tế nguyệt niên
tăng thọ,
Xuân mãn càng khôn phúc
mãn đường.
(Trời thêm năm tháng tuổi
thêm thọ,
Xuân khắp đất trời phúc
khắp nhà.)
Môn đa khách đáo thiên tài
đáo,
Gia hữu nhân lai vạn vật
lai.
(Cửa nhiều khách đến nhiều
tiền đến,
Nhà có người vào lắm vật
vào.)
Sơn thủy thanh cao xuân
bất tận,
Thần tiên lạc thú cảnh
trường sanh.
(Phong cảnh thanh cao xuân
mãi mãi,
Thần tiên vui thú cảnh đời
đời.)
Khi viết đến đây, tôi lại nhớ
nhà thơ Vũ Đình Liên thời xa xưa ở miền Bắc Việt Nam, đã làm bài thơ
như sau :
Mỗi năm hoa Đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua...
v.v
Ngoài ra, các ông bà cụ già
còn mua thêm chữ liễn như : Phước, Lộc, Thọ... để về dán vào các trái
Dưa Hấu, Bưởi, Dừa... Viết đến đây, tôi nhớ lại người Hoa cũng có
phong tục như thế, nhưng lại dán ngược chữ Phước, có ý nghĩa là Phước
Đáo (Nếu quý bà con đồng hương muốn tìm hiểu thêm Phước Đáo = Phước
Đến, xin đọc quyển Thượng từ trang 87 đến 89 trong tác phẩm Tìm Hiểu
Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý của Nguyễn Phú Thứ).
Kế đến, sang hàng Trà, để lựa
mua các loại trà ngon có danh tiếng như : Trà Sen, Trà Cúc, Trà Lài...
để trước cúng ông bà, mừng giao thừa, sau biếu bạn bè hoặc mời khách
thưởng xuân.
Sau khi chuẩn bị xong trong
nhà, đã có đầy đủ các thứ trái cây như : Dưa Hấu, Vú Sữa, Mẵng Cầu, Đu
Đủ, Dừa Xiêm, Xoài, Cam, Quýt, Bưởi, Khóm, Chùm Sung...thì các bà nội
trợ bắt đầu chuẩn bị gói bánh Chưng, bánh Tét, bánh Ít...
Theo phong tục Tết, nhà nào
không có nồi thịt kho với : trứng Vịt, cá Lóc và nước Dừa tươi, kế đến
bánh Chưng, bánh Tét, bánh Ít, cây Nêu trước nhà (ngõ), các đôi Liễn
viết bằng mực tàu trên giấy đỏ (hồng điều), mấy phong Pháo để chuẩn bị
đốt đón giao thừa và chờ Lân đến múa trước nhà, thì xem như nhà đó
không có ăn Tết, cho nên việc gói bánh Chưng, bánh Tét, bánh Ít là món
ăn chánh cổ truyền phong tục Việt nam, các loại bánh này được gói
bằng Vông cho bánh Chưng và bằng lá Chuối Hột cho bánh Tét hay bánh
Ít.
Bánh Chưng và bánh Tét nhân (nhưn)
mặn, thì được làm bằng thịt heo ba rọi (ba chỉ), đậu xanh bóc vỏ, bao
bởi lớp nếp ở ngoài, còn bánh Tét nhân ngọt, thường làm bằng đậu xanh
bóc vỏ trộn với đường, ngoài ra còn có bánh Tét nhân chuối xiêm nữa,
một đặc điểm đáng lưu ý, nếu chúng ta gói bánh Tét làm bằng nếp sống,
khi cột bánh không được cột chặt, vì để nếp sống nó nở ra là vừa, trái
lại nếu cột chặt như gói bánh Tét làm bằng nếp chín thì nó sẽ bị nín
làm cho bánh Tét bị sống. Khi bánh chín quyện lẫn mùi lá thật quyến rủ.
Miếng bánh ngon nhứt là miếng bánh ăn ngay khi vừa nấu chín. Tùy gia
đình, thường nấu bánh vào đêm 27 hoặc 29 Tết, canh nấu suốt đêm đến
sáng mới chín, thời gian phải mất khoảng trên 5 giờ đồng hồ. Bánh chín
vớt ra cho ráo nước, rồi mới vội vàng đem biếu cho bà con, họ hàng
thân tộc trong gia đình, trong khi bánh còn nóng hổi (Nếu quý bà con
đồng hương muốn tìm hiểu thêm Sự Tích Bánh Dày & Bánh Chưng, xin đọc
quyển Thượng từ trang 91 đến 93 trong tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số
Và Địa Lý của Nguyễn Phú Thứ).
Về lễ rước ông bà, cúng thần
đất đai, thì tùy theo nơi rước ông bà sớm là chiều ngày 28 thay vì
chiều ngày 30 Tết, phần đông những gia đình theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo
ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hậu Giang như : Ômôn, Cao My, Ba Rích...
(Cần Thơ) Thốt Nốt (Long Xuyên), Hòa Hảo (Châu Đốc), Cái Vồn (Vĩnh
Long)... thường làm lễ rước ông bà chiều 27 hay 28 Tết (tùy theo tháng
thiếu hay đủ) và đến mùng 1 Tết cúng chay và đến mùng 2 cúng mặn lại.
Bữa cơm cúng rước ông bà là một trong những bữa cơm cuối năm ăn ngon
nhứt của mọi gia đình sau những ngày chuẩn bị Tết mệt nhọc. Trên bàn
thờ ông bà, được đặt chánh giữa nhà, thông thường có bộ lư hương bằng
đồng được lau chùi sáng choang, hai bên có chân đèn để cắm cặp đèn cầy
số 1 màu đỏ, một cặp dưa hấu hạng nhứt và kèm theo đủ loại trái cây,
bánh mứt, hoa quả như : Mãng Cầu, Chùm Sung, Dừa tươi, Đu Đủ, trái
Xoài... nếu thiếu một trong mâm ngũ quả, thì có thể thay thế bằng trái
Thơm (Khóm) hay một nải Chuối Cau. Nhưng ít khi nào tìm không đủ ngũ
quả này tương trưng : Cầu Sung Vừa (Dừa) Đủ Xài (Xoài). Ngoài ra, một
bàn thờ cũng được thiết lập l thiên đặt cạnh bàn thông thiên và cây
tre làm cây nêu dựng sẵn trước cửa nhà, trên bàn thờ này cũng chuẩn bị
nhang đèn hoa quả, mặt quay về hướng chánh Nam, để phù hợp với phong
tục xưa là : "Thánh Nhân Nam Diện Nhi Thính Thiên Hạ" để đón giao thừa.
Riêng bàn thông thiên thường
đặt chính giữa trước sân nhà, nếu ai có dịp đến miền Tây Nam phần Việt
Nam sẽ thấy, cái bàn thờ l thiên này thành lập trên trụ cột cao, ngay
vừa tầm mắt, thường có đặt bình bông, chung nước, lọ cắm nhang và chân
đèn cầy để hằng ngày cúng kiến tất cả các vị Phật, Pháp, Tăng ở cõi
mười phương thế giới và tất cả chư vị hiện đang hảnh sự tại cõi ta bà
và tây phương nữa, cho nên chữ thông thiên mọi người sẽ nghĩ ngay là
thấu trời. Bởi vì, những gia đình có bàn thông thiên, thường theo đạo
Phật Giáo Hoà Hảo hay đạo thờ ông bà, hằng ngày sáng chiều sau khi đốt
nhang niệm Phật trên bàn thờ Phật hay ông bà tổ tiên trong nhà xong,
thì mới quay mặt để đi thẳng đến bàn thông thiên để khấn nguyện với
câu niệm như sau : " Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Phật
Tổ, Nam Mô Thập Phương Phật, Nam Mô Thập Phương Pháp, Nam Mô Thập
Phương Tăng, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại Thần, Trăm Quan Cựu Thần,
Chư Vị Sơn Thần, Chư Vị Năm Non Bảy Núi... cảm ứng chứng minh nay con
nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, qui y theo mấy Ngài, tu hiền
theo Phật Đạo." (tuy nhiên có nhiều người thêm bớt câu niệm này tùy
theo căn duyên hay sức khỏe), rồi mới lạy 4 lạy.
Riêng các trẻ con là sung
sướng nhứt, khoảng gần xế chiều 30 Tết, thì được tắm rửa sạch sẽ để
thay quần áo mới, xúng xính còn thơm mùi vải, còn người lớn thì phải
lo đủ thứ kể cả mấy bao gạo, lu nước, hũ muối cũng phải châm cho đầy,
còn mấy ông bà nghiện trầu cau, thuốc hút cũng phải đi mua cho đủ, vì
ba ngày Tết ít có tiệm nào mở cửa bán.
Sau khi làm lễ đón rước ông
bà và ăn uống xong, các trẻ con thường đi xem múa Lân hoặc đi từng
đoàn từ nhà này qua nhà khác vui chơi và khoe quần áo mới, để chờ giờ
đón giao thừa. Còn người lớn, nhứt là quý bà ni trợ, phải lo nấu nồi
chè, nồi nước, hoa quả, cắt bánh Chưng, bánh Tét... để chuẩn bị đón
giao thừa đúng 12 giờ đêm 30 hoặc 29 (nếu tháng thiếu) rạng mùng 1 Tết.
Boong boong... còn hai phút, rồi còn một phút, giờ giao thừa đến, thì
đài phát thanh (radio), đài truyền hình, Chùa, Đình... thi nhau đánh
hồi trống hay chuông, để báo hiệu giờ tống cựu nghinh tân để tiễn đưa
năm cũ rước năm mới vào. Thật lạ lùng thay ! Tất cả cảnh vật trở nên
nghiêm trang, rất là thiêng liêng, nhà nhà đều cúng lễ gia tiên giao
thừa, treo bùa nêu lên đọt cây tre, rồi đốt pháo. Tiếng pháo đì đùng
vang rền khắp mọi nơi, có người đốt cả phong hoặc lẻ tẻ trước nhà hay
kế cận bàn thông thiên hoặc xung quanh nhà để đuổi trừ những cái xui
xẻo năm cũ và đón mừng năm mới, với ước mơ hy vọng bước sang năm mới
sẽ làm ăn phát đạt hơn, may mắn hơn và nhiều tốt đẹp hơn năm cũ. Sau
khi nhang tàn, thì hạ mâm cỗ xuống để cả nhà cùng quây quần ăn chè,
bánh mứt, hoa quả... cùng mừng bước sang năm mới. Vì thế, trong dân
gian mới có câu :
Cu kêu ba (1) tiếng Cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng nêu
ăn chè.
Thế nên, phong tục Tết Việt
Nam hằng năm, thường mỗi nhà nấu một nồi chè đậu xanh để cúng giao
thừa và dựng nêu. Ngoài ra, còn cắt (bổ) dưa hấu đầu năm mữa, nếu trái
dưa hấu thật đỏ, lại ngọt dòn, thì nhà đó tin rằng năm mới sẽ có thời
vận tốt cho gia đình suốt năm, còn trái lại dưa hấu không đỏ, không
ngon ngọt thì xem như năm mới không được tốt và bị xấu cả năm. Đó là
sự dị đoan của phong tục Việt Nam xa xưa. Nếu quý bà con đồng hương
muốn tìm hiểu thêm tại sao ông bà mình dùng tiếng gáy của con chim Cu
mà không dùng con vật khác? Và tại sao có trái Dưa Hấu ? (xin quý bà
con đồng hương đọc quyển Thượng từ trang 97 đến 101 trong tác phẩm
Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý của Nguyễn Phú Thứ).
Còn trẻ con sau khi đốt pháo
và ăn uống no nê thì đi ngủ, chỉ còn người lớn tuổi ngồi nhâm nhi bên
tách trà xanh để thưởng thức cái yên lặng, cái linh thiêng huyền diệu
của đêm trừ tịch với mùi trầm hương quyện lẫn mùi pháo, rồi tưởng nhớ
những người thân đã khuất hay nhắc nhở đến một vài đứa con, đứa cháu
trong gia đình vì đi làm ăn xa hay vì công việc không thể về chung vui
mừng xuân đón Tết bên tổ ấm gia đình.
Có nhiều người hay gia đình,
sau khi cúng giao thừa xong vì tin tưởng vào số tuổi để chọn giờ xuất
hành đầu năm cho hạp và làm ăn phát tài năm mới, rồi còn chọn hướng đi
nơi nào trước, để cúng chùa, cúng đình...hoặc đi hái lộc hay xin xâm
đầu năm, để cho biết thời vận trong năm đó. Việc hái lộc thường chọn
một cành cây xanh tươi tốt, có nhiều mầm non, tượng trưng cho năm mới
được tài lộc sung túc.
Sáng mùng một Tết, thì thói
thường ông bà già hay chủ gia đình thường thức dậy sớm để làm lễ xong
đất, nếu các con các cháu có thức sớm hơn cũng không được mở cửa nhà,
mà phải chờ đợi người gia trưởng trong gia đình mở cửa, tất cả con
cháu trong gia đình phải tề tựu trước bàn thờ để trước làm lễ cúng ông
bà tổ tiên đầu năm, sau mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Các con cháu được lì
xì bằng những phong bì màu đỏ, bên trong có tiền mới toanh, còn thơm
mùi giấy, theo thói thường các con cháu làm tuổi nói như sau : Con
kính xin làm tuổi ông bà (hay cha mẹ) sống ba niên giai lão.
Kể từ mùng một đến mùng ba
Tết, mọi người rất kiêng cử, không được giận hờn, gắt gỏng, la rầy,
không tạo chuyện buồn phiền, vì e rằng sẽ xui cả năm, không được hái
trái cây và cũng không được quét nhà đổ rác đi, vì theo truyền thuyết,
khi quét nhà đổ rác, tiền bạc sẽ ra như rác vậy.
Trong ca dao Việt Nam cũng có
câu : "Mùng một Tết nhà, mùng hai Tết thầy, mùng ba Tết bạn" Nên tôi
dù có bận rộn đi thăm và chúc Tết họ hàng cũng như các thầy cô của tôi
vào sáng mùng hai Tết, nhưng xế trưa cũng phải trở về nhà để ông bà
nội, ba má và các em đi thăm bà con hoặc đi chơi xa, bởi vì tôi là đứa
cháu đích tôn của ngôi nhà thờ ông bà nội tôi đang ở và sau là để đón
tiếp bạn bè hay đồng nghiệp, học trò cũ thân quý của tôi.
Đến sáng mùng ba Tết, trên
bàn thờ lúc nào cũng được thắp nhang, hương khói nghi ngút, đèn sáng
trưng. Mùi trái cây, mùi hương, mùi pháo tất cả hòa lẫn nhau tạo nên
một hương vị đặc biệt của riêng những ngày Tết dân tộc Việt Nam. Những
cành Mai, cành Đào trên bàn thờ hay ở góc nhà cùng vài chậu Vạn Thọ,
Thược Dượt... đang khoe sắc tỏa ra hương thơm ngào ngạt cũng góp phần
tạo nên không khí Tết năm xưa.
Tết là mùa sum hợp, nghỉ ngơi.
Đối với bà con ở nông thôn, việc ăn Tết càng quan trọng hơn, vì trong
năm hết làm những vụ lúa mùa, còn phải trồng hoa màu phụ, ví như phải
canh trồng dưa hấu hay trồng bông hoa hoặc trồng trầu cau... để đón
Tết nữa, cho nên công việc nhà nông làm theo từng mùa, từng tiết,
quanh năm suốt tháng thật bận rộn, vất vả với công việc đồng áng và
đôi khi không được nghỉ ngơi những ngày cuối tuần, như những người làm
việc khác ở thành thị hay công chức hoặc trong ngành giáo dục...Vì vậy,
trong dịp Tết là cơ hội để nghỉ ngơi, bỏ tất cả mọi công việc để mừng
Xuân hưởng Tết, nào là ăn uống linh đình, giải trí, thăm viếng... Tết
ở nông thôn vui lắm, có khi kéo dài đến nửa tháng, mới chọn ngày tốt
để làm lễ hạ nêu, trong khi dân thành thị thì trái lại, chỉ ăn Tết
nhiều lắm bảy ngày, nhưng thường là ăn Tết đến hết ngày mùng bốn hoặc
mùng sáu là hạ nêu và làm lễ khai trương cửa hàng buôn bán, ít ai đầu
năm chịu làm lễ khai trương vào ngày mùng năm, bởi vì ngày mùng năm là
ngày lẻ, nên mọi người cho là không tốt. (Nếu quý bà con đồng hương
muốn tìm hiểu thêm, xin đọc quyển Thượng từ trang 103 đến 105 trong
tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý của Nguyễn Phú Thứ).
Mặc dầu đã hết Tết, nhưng cái
âm hưởng những ngày Tết vẫn kéo dài đâu đó, trên những gốc mai vàng
rực rỡ trước sân nhà, những xác pháo khắp mọi đường đất nước quê hương,
trên nụ cười hớn hở của đám trẻ thơ và trên những bàn Bầu, Cua, Cọp....
Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ