Hành trang cho ngàn năm thứ ba

Lòng Tự Tin
 

Hành trang cho ngàn năm thứ ba

TS Nguyễn Văn Thành
Nội Dung
-            Lời Mở Đường : Quan hệ giữa Biết và Tin
-            Chương Một : Lòng Tự Tin ( Tôi Tin vào Tôi )
-            Chương Hai : Thiếu Tự Tin, những Triệu chứng
-            Chương Ba : Kỹ Thuật Hóa Giải Tâm Trạng Thiếu Tự Tin
-            Chương Bốn : Hướng về Tương Lai
-            Kết Luận : Con Đường Nào
-            Sách Tham Khảo
-            Cùng một Tác Giả


  
Lời mở đường
 
Quan hệ giữa Biết và Tin
 
   
     Thông thường trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày, khi chúng ta tin vào ai, chúng ta sẵn sàng giao phó cho họ của cải, tiền tài hay là những công việc quan trọng... Chúng ta không ngại ngùng bộc lộ chia sẽ những tâm sự thầm kín, những trải nghiệm quí hóa về cuộc đời. Tin như vậy có nghĩa là yêu thương và coi trọng, như chúng ta có thể quan sát và ghi nhận trong những quan hệ vợ chồng, cha con, bạn bè tri kỹ... và khi hai người đã tin nhau thực sự và trọn vẹn như vậy, một cách nào đó họ đã đồng hóa với nhau. Họ giao sinh với nhau.
 
     "Mình với ta tuy hai là một.
     Ta với mình sao một mà hai!"
 
     Ngoài cặp song đôi "Tin và yêu" luôn luôn đối đãi, giao thoa chằng chịt với nhau, chúng ta còn ghi nhận một quan hệ thứ hai không thể vắng mặt: Đó là Tin và biết. Hẵn thực, khi chưa biết gì cả mà tin; hay là nhắm mắt mà tin... đó là thái độ của những người sống trong mê tín và dục vọng.
 
     Chính vì vậy, để khỏi tin một cách mù quáng, vào một người, một kiến thức, một chân lý hay một giáo điều... lý trí hoặc tư cách "làm người" đòi hỏi chúng ta phải bắt đầu tìm hiểu một số dữ kiện khai đạo, dẫn đường, nhằm tạo cơ sở vững chắc  cho lòng tin của chúng ta. Nói cách khác, để có thể tin mà không bị mê hoặc hay là trở thành ấu trĩ và lệ thuộc, điều kiện tiên quyết là thái độ kiểm chứng hay là rà soát lại những tin tức, trên sáu bình diện khác nhau có liên hệ đến lòng tin của chúng ta:
        
Một : Ai?
Người mà tôi tin có căn cước hoặc lý lịch như thế nào?
 
Hai : Để làm gì? Tại sao?
Cái gì là quan trọng, đâu là giá trị đang thúc đẩy lòng tin của tôi? Tôi tin vì mục đích gì?
    
Ba : Cách nào?
Tôi tin bằng cách nào? Đâu là phương thức và đường hướng tôi cần đeo đuổi khi tin? Cái gì sẽ xảy đến nếu tôi không tin? Tôi được gì  và mất gì?
    
Bốn : Điều gì?
Khi tin tôi có những hành vi cụ thể nào?
 
Năm : Môi trường và điều kiện?
Tôi tin khi nào, ở đâu, bao lâu, với điều kiện nào?
 
Sáu : Quan hệ thế nào giữa người tôi tin và bao nhiêu người khác? Ngoài tôi ra, còn có những ai tin vào người ấy?
 
     Mặc dù với bao nhiêu tìm kiếm, học hỏi một cách nghiêm túc và sáng suốt như vậy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng: Tin không phải là biết. Để biết, chúng ta phải thường xuyên kiểm chứng và đánh giá những sự kiện khách quan, mắt có thể thấy, tai có thể nghe, tay chân có thể tiếp xúc và cảm nhận. Tin , trái lại là phó thác , buông xả, chấp nhận mình không thể kiểm soát một trăm phần trăm. Trong lăng kính và ý nghĩa nầy, khi tin chúng ta tin vào một người. Thậm chí khi chúng ta tin một điều gì, một cách mặc nhiên hoặc minh nhiên, chúng ta tìm nơi nương tựa vào một người có tư cách và giá trị đã làm chứng về điều ấy. Người ấy có thẩm quyền, có uy tín. Người ấy không bị lừa gạt và không đánh lừa chúng ta. Thêm vào đó người ấy trung thực, không nói một đường làm một nẽo.
 
     Trong thực tế, tuy dù khác biệt nhau về bản chất và giá trị, hai động tác "Tin" và "biết" phải nương tựa vào nhau, nuôi dưỡng lẫn nhau và cũng cố cho nhau. Tin mà không đặt cơ sở trên hiểu biết, như trên đây tôi đã nhấn mạnh, đó là mê tín, dị đoan. Đó là lòng tin mê muội, mù quáng xuất phát từ dục vọng hoặc tình trạng ấu trĩ. Trái lại, cho dù ở trong lãnh vực khoa học khách quan chính xác, chúng ta vẫn còn có nhiều lãnh vực tranh tối, tranh sáng. Vẫn có bao nhiêu câu hỏi chưa được khai sáng. Trong nhiều chủ thuyết tự hào là khoa học, như hệ thống Mác-Lê, có bao nhiêu định đề hoặc tiền đề  được coi là hiển nhiên không cần chứng minh. Nhưng thực ra đó là những giả định, giả thuyết mà chúng ta phải chấp nhận, như điều kiện tiên quyết, như chân lý ban đầu. Như cửa ngõ cần thiết để đi vào bên trong một tòa nhà cần thăm viếng, hoặc cư ngụ.
 
     Phải chăng, yêu xã hội chủ nghĩa có thể đồng hòa với yêu đất nước, yêu quê hương và dân tộc?
 
     Dựa vào đâu tôi có thể xác tín: giai cấp vô sản phải chuyên chính, độc tài nghĩa là có quyền tiêu diệt những giai cấp khác không chịu đầu hàng, đầu thú? Nếu đó là lý luận "lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng", đâu là nét khác biệt giữa chế độ độc tài với một tôn giáo bảo căn cực đoan? Phải chăng cả hai đều hô hào "thánh chiến" nhằm diệt trừ đối phương bị đồng hóa với "loại côn đồ vô đạo và vô luân"?
 
     Trên cơ sở nào tôi có thể rêu rao, rĩ rã: tôn giáo tôi đạt 80%, là thuần túy dân tộc và văn hoá? Và cho dù 80% thực sự, một đoàn lũ gào thét, hô hào, la ó… có chứng minh được gì! Chân lý của một người vẫn là chân lý, đang khi sai lạc của hàng triệu người vẫn là sai lạc, từ trong căn đế của nó mà thôi!
 
     Bao nhiêu phân tích chi ly  và cặn kẽ ấy  nhằm chứng minh và nhấn mạnh rằng: Tin không thể thiếu vắng trong cuộc đời làm người và nhất là trong quan hệ giữa người với người, cũng như trong địa hạt hoạt động và dấn thân.
 
     Trọng mỗi quyết định và chọn lựa hằng ngày, con người không bao giờ biết chắc chắn một trăm phần trăm  là "mình có lý, có lẽ phải và đi đúng đường". Những ai ngồi chờ cho đến khi có đầy đủ mọi lý lẽ, mới bắt tay vào việc ... người ấy sẽ hẹn nay hẹn mai, bất định, tê liệt và bất động. Nói cách khác, tin cho phép hoặc thúc đẩy  hành động. Tin không đóng khung trong địa hạt tình cảm. Tin không quanh quẩn, vòng vo trong một lối nhìn, một kiến giải hay một quan niệm hoàn toàn trừu tượng và lý thuyết. Tin đi đôi với hành động. Nghĩa là phải kết thúc và được diễn tả bằng việc làm cụ thể, hằng ngày.
 
     Nói cách khác một cách rõ ràng và khúc chiết hơn, động tác "Tin" - cho dù thuộc bình diện nào: tin vào một người, tin vào Thần Phật, tin vào Thượng Đế... tin vào một chủ thuyết vô thần hoặc hữu thần - là một tiến trình phát triển liên tục, từ trong ra ngoài và bao gồm bốn yếu tố then chốt :
 
- Một là lối nhìn hay là kiến giải.
- Hai là yêu thương hoặc coi trọng.
- Ba là quyết định và hành động.
- Bốn là đánh giá hoặc kiểm chứng lối nhìn lúc ban đầu, bằng cách dựa vào  những thành quả cụ thể của hành động.
 
 Thiếu một trong bốn thành tố căn bản ấy , chữ Tín trong quan hệ giữa người với người  cũng như giữa con người với một thực thể Tâm Linh như Trời, Phật, Thượng-đế, Đấng Kitô, Đạo... không còn là "chánh tín". Nhưng là ngụy tín, một lòng tin thui chột, bất thụ, không sinh sản hoa trái.
 
    
                                                      ***
 
     
     Bốn yếu tố, mà chúng ta vừa xác định, phải có mặt trong bối cảnh tư duy, khi chúng ta muốn khảo sát vấn đề Tự tin và vai trò của nó trong cuộc sống làm người. Hẵn thực, đây cũng là một loại lòng tin, như chúng ta vừa nói tới. Nhưng đặc biệt trong lãnh vực nầy, chủ thể và đối tượng của lòng tin là một người duy nhất: Tôi Tin vào tôi.
 
     Tuy nhiên, đàng sau mệnh đề có vẽ đơn sơ, dễ hiểu ấy, nếu biết đào bới, chúng ta sẽ khai quật lên bao nhiêu câu hỏi phức tạp và phiền toái:
 
     Thứ nhất : Đành rằng, Tin vào mình là chìa khoá vàng có khả năng mở ra mọi kho tàng, vốn liếng cho phép tôi thành tựu cuộc đời. Nhưng kho tàng, vốn liếng ấy  là gì ? Có mặt hay không? Dựa vào những tiêu điểm nào, tôi vừa biết và vừa  tin là tôi có sẵn những gia tài và gia sản ấy ? Nói cách khác, "Tin vào mình" có nghĩa là gì? Đâu là những động tác cụ thể diễn tả và bộc lộ ra ngoài lòng Tự Tin của tôi. Đó là nội dung của chương I với tựa đề "Tôi Tin Tôi".
 
     Thứ hai : Cái gì sẽ xảy ra, đâu là những mất mát, thiệt thòi khi tôi không tin vào tôi? Thắc mắc nầy sẽ được khai mở trong chương hai: "Những triệu chứng của con người thiếu tự tin".
 
     Thứ ba : Đâu là "Những kỹ thuật hóa giải" nhằm thay đổi tâm trạng thiếu tự tin ? Nội dung nầy sẽ được thảo luận trong chương ba.
 
     Thứ bốn : Phải chăng "phòng bệnh" có ích lợi và hữu hiệu hơn "chữa bệnh" ?
 
Để phác họa một kế hoạch hướng lai, nhằm đào tạo những con người "Tự Tin", trong chương bốn với tựa đề "Hướng về tương lai", chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu và giải đáp nhiều vấn đề giáo dục:
 
     - Nguyên nhân sâu xa nào đưa đến tình trạng tâm lý: "Thiếu tự tin"?
     - Làm sao để học lại một lối nhìn tích cực?
     - Làm sao biết nghe với vành tai xôn xao, đầy kính trọng?
     - Làm sao ăn nói môt cách khách quan và tránh những giọng điệu cha chú, khã dĩ làm  thui chột lòng tự tin của người khác, nhất là của các em bé ở tuổi lớn khôn và phát triển?
 
     Sau cùng, trong lời kết thúc, thể theo lời mời gọi của Giáo Chủ Gioan Phaolô II, mỗi người trong chúng ta, trước ngưỡng cửa của Nghìn Năm Thứ Ba, đang phải dứt khoát chọn lựa giữa hai con đường: Một bên là văn minh Tình Thương làm bằng chất liệu tương thân tương ái, tương kính và tương sinh. Bên kia là tương hoại tương tàn, chết chóc và nghĩa địa. Đó là loại văn minh chiến tranh, bom đạn, kỳ thị, chia rẽ và hận thù.
 
     Vậy, hỡi người độc giả, bạn chọn lựa "con đường nào", nếu bạn tin chắc rằng: "Bản sắc của con người làm bằng chất liệu Tình Thương và Lòng Tha Thứ" ?

    
     *****************************
    

Chương một
 
Lòng Tự Tin « Tôi tin tôi »
 
   
     Để lãnh hội đầu đuôi gốc ngọn của lòng Tự tin, chúng ta hãy khởi đầu tìm hiểu và hình dung bộ máy tâm linh của con người, còn mang tên là nội tâm hay là cấu trúc tâm linh. Đây là một tổng thể, theo lối giải thích của P. Senge, bao gồm nhiều yếu tố giao thoa và tác động lẫn nhau (1). Mỗi thành tố vừa làm Nhân phát sinh ra quả. Và một khi đã xuất hiện, thành hình, Quả ấy trở lại gây ảnh hưởng hay là tài bồi, tưới tẩm cho Nhân. Rút cuộc, trong tiến trình phát triển và biến chế thường xuyên, liên tục, thành tố nào là quả, thành tố nào là nhân? Mẹ nuôi con hay là con nuôi mẹ? Nói cho đúng, thành tố nào cũng vừa là nhân, vừa là quả. Vừa là mẹ vừa là con, tùy phương diện, địa hạt và giai đoạn đi tới, lớn lên.
    
Thể theo cách trình bày của Tâm lý đương đại, "Cấu trúc Tâm Linh" bao gồm năm thành tố chính yếu:
 
- Thành Tố thứ nhất là Môi trường sinh hoạt của con người.
- Thành tố thứ hai là năm giác quan, còn mang tên là Cửa Vào.
- Thành Tố thứ ba là Tư Duy, có phần vụ là đề xuất kiến giải hay là thuyên giải, nghĩa là chuyển biến những tin tức, do môi trường cung cấp, thành những ý kiến, những lối nhìn, những quan điểm…
- Thành tố thứ bốn là những phản ứng xúc động của con người, trước những lối nhìn khác nhau, do Tư duy cung ứng.
- Thành tố thứ năm là Cửa ra, bao gồm những lời phát biểu hay là những thể thức hoạt động của con người, để thiết lập những quan hệ tiếp xúc và trao đổi với môi trường chung quanh, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
                             
                                                      ***    
    
    
                                      
1.1- Thành tố thứ nhất : môi trường sinh sống
   
     Môi trường là tất cả thực tại còn được gọi là ngoại cảnh đang có mặt và bao quanh bản thân và con người của chúng ta. Thực tại ấy bao gồm những sự vật, hiện tượng, biến cố và bao nhiêu người khác cùng chung sống và tiếp xúc với chúng ta . Ngoài ra, thực tại cũng là những phản ứng sinh lý hóa, như nhức đầu, tim đập, áp huyết cao, ăn uống khó tiêu... đang có mặt trong cơ thể của chúng ta.
 
     Thực tại phức tạp và muôn màu sắc ấy được nội tâm tiếp thu vào bên trong lãnh vực hoạt động của mình, qua năm cánh cửa giác quan là thị, thính, xúc, khướu và vị. Nói tóm lại, đó là những điều mắt thấy tai nghe, và những gì chúng ta đụng chạm, tiếp xúc với làn da, miệng lưỡi và lỗ mũi.
 
    1.2- Thành tố thứ hai : năm cánh cửa giác quan (2)
    
     Phần vụ của các giác quan là chuyển biến thực tại bao la, khách quan thành hình ảnh, âm thanh và xúc cảm. Con bò được tiếp thu vào nội tâm không còn là con bò bằng xương bằng thịt, đang cạp cỏ trong cánh đồng trước  nhà tôi. Nhưng đó là con bò làm bằng hình ảnh, âm thanh và xúc cảm, phản ảnh một phần nào con bò trong thực tại và thực tế.
     Trong khi tiếp thu, các giác quan phải làm công việc giản lược, thu gọn hay là đơn giản hóa thực tại bằng ba cơ chế hay là ba phương thức hoạt động khác nhau.
   
    1.2.1- Cơ chế một : Tổng quát hóa
 
     Khi nói rằng "bò chỉ ăn cỏ" tôi đã vô tình hay hữu ý loại bỏ ra ngoài những chi tiết vụn vặt, cụ thể, ngoại lệ, khác thường...Khi tổng quát hóa, các giác quan chỉ lưu tâm đến tính qui luật  như : bò khi nào, ở chỗ nào... cũng luôn luôn có đặc điểm "ăn cỏ". Đồng thời, với cơ chế tổng quát hóa này, các giác quan sẽ phải loại bỏ những nét riêng tư, đặc thù, những trường hợp lẻ tẻ.
    
    1.2.2- Cơ chế hai : Thanh lọc
 
     Khi mô tả "Con bò bốn chân" tôi đã chọn lựa tiêu chuẩn cách thức vận động và di chuyển của bò. Ngoài ra tôi không thể lưu tâm đến những tiêu chuẩn khác như : chiều dài bao nhiêu ? Khi bò ngủ, chân nó được xếp đặt như thế nào ? Chân bò khác chân người thế nào...
     Khi dùng cơ chế thanh lọc, các giác quan làm công việc xếp đặt, chọn lựa, nghĩa là trả lời cho câu hỏi: "Bây giờ, yếu tố nào là quan trọng nhất? Cái gì là ưu tiên số một, tôi không thể bỏ sót hoặc lãng quên ? Những yếu tố còn lại chỉ là điều phụ thuộc, không cần được chú ý và ghi nhận.
    
    1.2.3- Cơ chế ba : xuyên tạc, bóp méo còn được gọi là chủ quan hóa
 
     Khi nhìn bò, một họa sĩ sẽ lưu tâm đặc biệt đến màu sắc và hình dạng. Một nhạc sĩ sẽ phân biệt nhiều âm thanh trầm bổng khi bò rống. Một trẻ em sẽ phát biểu ý kiến của mình : nó thích vuốt ve lưng bò và sợ cặp sừng của bò...
     Với cơ chế chủ quan hóa, tôi bộc lộ quan điểm, tâm tình riêng tư của tôi, khi tôi nói về bò.
     Câu chuyện do đức Bụt kể, về năm người mù đi xem voi lột trần được ý nghĩa của cơ chế xuyên tạc nầy: phải chăng con voi giống chiếc gậy, tâm phản hay cột nhà...? Cách so sánh nào cũng đúng. Nhưng không một cách nào đúng hoàn toàn một trăm phần trăm, so với thực tại khách quan, toàn diện, bên ngoài của con voi.
     Chừng ấy nhận xét cho chúng ta thấy rõ : "Ý nghĩa không bao giờ có tính chất toàn bích và toàn diện, cũng như nằm sẵn ở đâu đó trong thực tại". Ý nghĩa của thực tại chỉ xuất hiện cho một người, khi thực tại được người ấy "thuyên giải" nghĩa là lột trần, khám phá ý nghĩa. Một từ chuyên môn khác hay là thuật ngữ thường được dùng là kiến giải. Hẵn thực, khi kiến giải một thực tại, tôi khẳng định và qui định về ý nghĩa mà thực tại ấy cung ứng cho tôi. Một người khác chưa hẵn khám phá và ghi nhận cùng một ý nghĩa giống như tôi, về thực tại ấy.
     Nói tóm lại, không có sẵn trong thực tại một ý nghĩa duy nhất, rõ ràng tách bạch trắng ra trắng hoặc đen ra đen cho mọi người đang cùng đứng nhìn một thực tại ấy. Ý nghĩa chỉ được khai mở từ từ, tùy thể thức kiến giải của mỗi người.
    
         
       
    1.3- Thành tố thứ ba : Kiến giải
       
     Như tôi vừa trình bày, Cấu trúc tâm linh còn được gọi là thể thức sinh hoạt nội tâm, gồm có hai cửa ngõ: cửa vào và cửa ra. Từ chuyên môn bằng tiếng Anh được dùng trong địa hạt vi tính là Input và Output.
     Về cửa vào, chúng ta đã khảo sát chức năng và thể thức hoạt động của năm giác quan.
     Về cửa ra, chúng ta có hai con đường diễn tả và bộc lộ nội tâm: ngôn ngữ là lối diễn tả chính xác có lời và ngôn ngữ « không lời và tương tự » là tác phong hoặc hành vi.
      Tâm lý của con người, ngoài trừ cửa ra va cửa vào, còn có hai nội dung sinh hoạt khác nhau: sinh hoạt thứ nhất là phần kiến giải. Sinh hoạt thứ hai sẽ được phân tích trong số 1.4. Đó là phần cảm trạng còn được gọi là thời tiết của nội tâm, bao gồm những xúc động và tình cảm của con người.
     Trong số 1.3 nầy chúng ta sẽ lần lượt phân tích một cách chi tiết thế nào là kiến giải, hay là thuyên giải.
    
    
     Định nghĩa kiến giải hay là thuyên giải
 
     Kiến giải là một tiến trình sinh hoạt tâm linh nhằm chế tạo lại một mô hình hay là mẫu thức về thực tại đang được tiếp thu vào trong nội tâm, từ những vật tư hình ảnh, âm thanh… do năm giác quan cung ứng.
     Tiếng Anh được dùng là mental processing. Đây là giai đoạn thứ hai sau Input và đứng trước Output, như trước đây tôi đã nói đến.
     Mô hình về thực tại được chế tạo lại trong nội tâm, mang rất nhiều danh xưng và tên gọi khác nhau: bản đồ tâm lý, hình ảnh nội tâm, lối nhìn, cách nhận thức, quan điểm và kiến giải... sở dĩ có rất nhiều tên gọi như vậy , vì tên nào cũng mang trong mình những giới hạn và khuyết điểm. Không một danh xưng nào có khả năng chuyên chở mọi khía cạnh hoặc sắc độ của sinh hoạt tâm linh nầy.
     Tuy nhiên, để định nghĩa "một phần nào" kiến giải là gì, chúng ta cần phân biệt rõ ràng những giai đoạn chúng ta cần kinh qua, khi đứng trước một thực tại hay một vấn đề cần tìm hiểu:
 
     Giai đoạn thứ nhất: Tôi nêu lên những dữ kiện chính xác về thực tại: mắt tôi thấy, tai tôi nghe , tay chân tôi tiếp xúc va chạm một vài khía cạnh cụ thể của thực tại. Đây là giai đoạn quan sát và ghi nhận.
 
     Giai đoạn thứ hai: Đây là giai đoạn thuyên giải (3). Từ những dữ kiện do chính tôi quan sát, ghi nhận, tôi hiểu biết thế nào về thực tại? Thực tại được quan sát có ý nghĩa nào đối với tôi? Khi diễn tả kiến giải của mình chúng ta có thể sử dụng những lối nói như sau:
 
     - Sau đây là cách nhìn của tôi...
     - Ý kiến của tôi về sự kiện ấy là...
     - Dựa vào những điều chính tôi quan sát, tôi có cách giải thích sau đây...
     - Về điều mà tôi đã ghi nhận và quan sát, quan điểm cá nhân của tôi là...
 
     Giai đoạn thứ ba: Diễn tả những xúc động tình cảm
     Ở đây, trong giai đoạn nầy, tôi diễn tả những phản ứng chủ quan được nẩy sinh và xuất hiện trong nội tâm, sau khi tôi có kiến giải về thực tại. Thực tại khách quan bên ngoài, theo tâm lý học, không bao giờ là nguyên nhân chính thức và trực tiếp phát sinh những phản ứng xúc động và tình cảm. Đó chỉ là những yếu tố phát hỏa, châm ngòi mà thôi. Tiếng Pháp phân biệt một cách rất rõ ràng : cause là nguyên nhân, élément déclencheur là yếu tố châm ngòi, là cơ hội dẫn khởi. Tâm lý phật học phân biệt "nhân" là hạt mầm sinh ra cây, duyên chỉ là những điều kiện thuận lợi, giúp cho cây lớn lên như nước, khí, mặt trời... Theo tâm lý học  ngày nay, lối nhìn chủ quan là nguyên nhân của xúc động.
 
     Về mặt ngôn ngữ diễn tả, chúng ta cần sử dụng kỹ thuật « ngôi thứ nhất », theo cách đề nghị của tác giả T. Gordon, để đảm nhận tính chủ quan của đời sống xúc động (4) :
 
     - Sau khi nghe...tôi cảm thấy bực bội, lo sợ...
     - Khi thấy điều ấy, tôi có phản ứng hồi hộp ngột thở...
 
     Giai đọan thứ bốn: đề nghị và trình bày thể thức thể thức hành động hay là yêu cầu kẻ khác  đáp ứng nhu cầu của mình.
     Thể thức diễn tả:
 
     - Vậy bây giờ nguyện vọng của tôi là...
     - Trong hoàn cảnh nầy, nhu cầu thiết yếu của tôi là...
     - Tôi yêu cầu... Xin hãy làm...
     - Xin cho tôi rõ : tôi cần có thái độ hoặc tác phong nào để tôi biết phải làm những gì...
    
                                                      ***
 
     
     Xuyên qua những khảo sát và phân tích về các giai đoạn của kiến giải, chúng ta cần ghi nhận những điểm then chốt sau đây:
 
     Nhận xét một : Thực tại khách quan là một hiện thể bao la, gồm có rất nhiều yếu tố và phương diện khác nhau. Trái lại, những dữ kiện khách quan do tôi quan sát và ghi nhận, chỉ diễn tả một phần rất nhỏ của thực tại ấy, tùy vị trí đứng nhìn hay là tùy những nhu cầu hiện tại và bao nhiêu giới hạn cá biệt của tôi.
     Một người khác, cũng đứng nhìn thực tại ấy, từ vị trí của họ, có thể trình bày  ba trường hợp khác nhau, so với trường hợp của tôi:
 
     - Họ nhìn hoàn toàn giống tôi.
     - Họ nhìn hoàn toàn khác tôi.
     - Giữa họ và tôi, vừa có những nét tương đồng, vừa có những yếu tố dị biệt.
 
     Biết đối chiếu mình và người, rồi từ đó biết chấp nhận và coi trọng tính khác biệt của người: Đó đã là một kỹ năng, một cách "biết làm" rất có giá trị, khả dĩ giúp chúng ta giải quyết nhiều vấn đề, trong cuộc sống tiếp xúc và trao đổi hằng ngày.
     Trong lăng kính ấy, khi một người có ý kiến khác tôi, chưa hẵn họ chống đối hoặc khai trừ tôi. Trái lại, họ có thể bổ túc và làm cho tôi phong phú. Theo lời người xưa, "nhất tự vi sư". Hẵn thực khi mang đến cho tôi chỉ một "chữ", một tin tức, một ý kiến, người ấy đã là vị thầy, dạy cho tôi một bài học làm người.
 
     Nhận xét thứ hai : Chính tôi là tác giả của đời tôi. Tôi là nguyên nhân tạo nên hạnh phúc cho đời tôi. Nói cách khác, chính tôi làm cho tôi thấy mình có phước hay là bất hạnh. Hẳn thực, trong thực tại bên ngoài, cũng như trong lề lối hành xử và tác phong của người khác, vừa có trắng vừa có đen. Vừa có quặng sản, vừa có vàng nguyên chất ở một tỷ lệ nào đó. Vừa có tích cực, vừa có tiêu cực... Ai có toàn quyền chọn lựa và quyết định về tình trang hạnh phúc hoặc khổ đau cho tôi, nếu không phải là tôi? Chính tôi chủ động về lối nhìn, về cách thuyên giải.
     Nói một cách rõ ràng và dứt khoát, chính tôi là chủ thể, chủ nhân của đời tôi. Tôi chủ động về lối nhìn của tôi. Cho nên, cũng chính tôi thấy mình "bất lực, làm nạn nhân". Rốt cuộc, ai có thể chuyển hóa tình trạng ấy, nếu không phải chính tôi?
 
     Nhận xét thứ ba : Tâm linh có chất lượng lành mạnh và sáng suốt khi nào tâm linh ấy biết phân định một cách rành mạch những yếu tố khác biệt sau đây:
 
     - Đâu là sự kiện khách quan mà những người khác có thể ghi nhận, nếu họ đứng ở vị trí giống như tôi?
     - Đâu là lối nhìn của tôi, do tôi chủ động? Nếu tôi chủ động tạo nên và xây dựng một điều, tôi  cũng có thể chủ động thay đổi, hóa giải điều ấy. Theo P. Ricoeur, nếu chính tôi biết lắp ráp, thì chính tôi cũng có khả năng tháo gỡ. Nếu chính tôi thuyên giải, thì cũng chính tôi có khả năng giải trừ  hay là từ chối cách thuyên giải một chiều của tôi (5).
     Trong tiếng Pháp, chúng ta ghi nhận những cặp từ tương phản như: Interpréter (thuyên giải) và Déinterpréter (phá thuyên giải),  Construire (xây dựng) và Déconstruire (tháo gỡ). Nói cách khác, nếu chúng ta có khả năng đi tới, thì chúng ta cũng có khả năng trở lui, khi nhận biết mình sai lầm, nghĩa là :
 
     - Hóa giải những phản ứng xúc động hoàn toàn chủ quan, xuất phát từ lối nhìn của chúng ta,
     - Giải trừ những lời phê phán, đỗ lỗi, tố cáo nhằm qui định kẻ khác là nguyên nhân độc nhất, khi có những sai lạc và lầm lỗi xảy ra trong môi trường,
     - Khám phá những nhu cầu cơ bản ở bên dưới mỗi xúc động và tình cảm của mình, cũng như của kẻ khác,
     - Xác định thế nào là lời yêu cầu, thế nào là những đòi hỏi, khi chúng ta thiết lập những quan hệ hai chiều với người anh chị em,
     - Phân biệt đâu là những khả năng và đâu là những hạn chế trong các chương trình và kế hoạch hành động của chúng ta.
 
     Nhằm phát hiện những khả năng trên đây, « phương pháp chương trình sinh hoạt thần ngữ » (Programmation neuro-linguistique) đề nghị chúng ta tự đặt ra cho mình hai câu hỏi :
 
     - Bạn biết bạn Đang biết những gì?
     - Bạn biết bạn Chưa biết những gì?
 
 
     Nếu đã biết rồi, chúng ta tiếp tục bổ túc và kiện toàn cho đến hồi thuần thục và nhuần nhuyễn.
     Nếu chưa biết, chúng ta tìm kiếm, học hỏi, kiểm chứng, thực nghiệm.
     Nếu chưa chứng nghiệm được một cách trực tiếp, chúng ta dựa vào một người hay một vị thầy. Và khi làm vậy, chúng ta còn ở trong địa hạt "Tin", vì chưa có khả năng tự mình khám phá để hiểu biết một cách tự lập.
     Sau hết, để kẻ khác có thể tin vào những điều chúng ta diễn tả và trình bày, chúng ta phải "nói có sách, mách có chứng", bằng cách trưng dẫn rõ ràng: ai nói, nói ở đâu, nói khi nào và nói gì ? Cũng vậy, khi tin, chúng ta cần xác định nơi nương tựa của chúng ta : chúng ta đang dựa vào ai để bổ túc những gì chúng ta chưa có,  chưa biết, và chưa có khả năng chứng nghiệm một cách trực tiếp. Không làm vậy, chúng ta chỉ ba hoa chích choè, nói láo ăn tiền... hay là nhai đi nhai lại một cách vô thức, máy móc và sáo cưỡng.
    
                                                      ***
     
     Nếu thiếu những phân định rõ ràng như vậy , chúng ta chưa "biết mình"; chưa có một ý thức sáng suốt về mình. Nói cách khác, chúng ta chưa "làm chủ" bản thân. Lối nhìn về mình còn rất mập mờ, hỗn độn. Cho nên, tôi chưa biết trả lời cho mình và cho người khác, về những câu hỏi thiết yếu có liên hệ đến bản sắc làm người  :
 
     - Tôi là ai?
     - Giá trị của tôi là gì?
     - Tôi có khả năng nào?
 
     Làm sao tin vào mình, khi chính tôi đang ngụp lặn trong những điều kiện nhận thức còn rối loạn, vô tổ chức và thiếu cơ cấu.
     Khi bản thân mình không phải là nơi nương tựa vững chắc, tôi sẽ tìm nơi nương tựa khác, ở ngoài bản thân và con người của tôi. Lúc bấy giờ, tôi chỉ sống trong tình trạng lệ thuộc. Đó là mầm mống của lòng thiếu tự tin.
    
 
    
    1.4- Thành tố thứ bốn : Xúc động và tình cảm
    
     Trên đây khi bàn về kiến giải, tôi đã đưa ra những điểm then chốt liên hệ đến xúc động và tình cảm như sau :
 
     Một : Tình cảm và xúc động là những phản ứng hoàn toàn chủ quan.
     Hai : Vì là phản ứng, tình cảm và xúc động thay đổi thường xuyên như thời tiết và khí hậu.
     Ba : Nguyên nhân phát sinh xúc động và tình cảm không phải là thực tại bên ngoài. Không phải là tha nhân. Nhưng chính tôi là tác giả. Nói đúng hơn, chính lối nhìn của tôi  là nguồn gốc phát sinh những xúc động và tình cảm đang hiện hình trong nội tâm của tôi.
     Bốn : Lối nhìn, kiến giải là thể thức tôi thuyên giải thực tại, bằng cách "đăt tên" cho thực tại, theo lối nói của P. Freire (6) . Thuyên giải còn có nghĩa là tìm ra, khám phá cho thực tại một ý nghĩa.
     Năm : Ý nghĩa, phát xuất từ động tác thuyên giải, không hoàn toàn do chủ thể nắn đúc hoặc tưởng tượng ra. Giữa ý nghĩa và thực tại khách quan bên ngoài, có những liên hệ không nhiều thì ít, không gần thì xa. Ý nghĩa được manh nha một phần nào trong thực tại. Chính chủ thể làm công việc khám phá, khi thuyên giải, bằng cách tưới tẩm cho hạt mầm có mặt trong thực tại, có điều kiện và khả năng đâm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết trái.
     Sáu : Lối nhìn lắm lúc còn ở trong tình trạng mập mờ và hỗn độn. Theo lối nói của Phân tâm học, đó là những ý tưởng mộng mơ, chập chờn. Từ ngữ được sử dụng trong tiếng Pháp là Phantame có nghĩa là một ý tưởng chưa được thành hình một cách rõ ràng trong nội tâm. Ý tưởng ấy đang còn ở trong tình huống vừa thực vừa hư.
     Bảy : Khi lối nhìn chưa có những cơ sở chính xác, khách quan, lối nhìn ấy mang tên là những tin tưởng chủ quan.
     Tám : Lối nhìn - tuy dù còn ở trong tình trạng mơ tưởng hoặc tin tưởng – đã có thể là nguyên nhân phát sinh những xức động và hành động. Chính vì vậy, theo tâm lý ngày nay, tin tưởng đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực sinh hoạt của con người. Hẳn thực, chúng ta "Tin" làm sao, thì chúng ta sẽ khuôn đúc thực tại bên ngoài, theo đúng những kích thước đã được cưu mang trong nội tâm của chúng ta.
     Chín : Giữa lối nhìn và xúc động có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Dựa vào xúc động, chúng ta có thể thay đổi lối nhìn. Đồng thời, khi dựa vào lối nhìn, chúng ta có thể thay đổi xúc động.
     Tất cả những phương thức và đường hướng hóa giải xúc động và tình cảm đều phát xuất từ nguyên tắc cơ bản nầy.
 
 
     Cách Hóa giải xúc động và tình cảm
 
     Chín nhận xét vừa được trình bày trên đây đã nói lên tầm quan trọng của xúc động và tình cảm trong đời sống làm người. Động cơ thúc đẩy con người vươn lên, vượt tầm, thực hiện những kỳ công trọng đại đều xuất phát từ lãnh vực nầy của nội tâm. Và đàng khác, bao nhiêu trở ngại khả dĩ bẻ gẫy, làm chùn chân mọi ý chí, hoài bão, lý tưởng, làm tê liệt mọi chương trình phục vụ và thăng tiến con người cũng đặt sào huyệt tại nơi đây. Thiên Đàng, Niết Bàn bắt nguồn từ nơi đây; và địa ngục đọa đày, trầm luân cũng phát xuất từ khởi điểm nầy.
     Để đánh giá hoặc phân định ai đầy tự tin, chúng ta chỉ cần khảo sát đời sống xúc động tình cảm của người ấy. Nếu họ làm chủ được mình, trong địa hạt nầy, bằng cách hóa giải những xúc động tê liệt, phá hoại và biết vận dụng tối đa những tình cảm năng động xây dựng, thì những người ấy có thể lắng nghe và đón nhận làm phần tư hữu của mình, lời thơ sau đây của thi sĩ Kipling (7) :
 
     « Yours is the Earth and everything that's in it,
     « And - which is more - you'll be a man, my son!"
 
     « Khi con thực hiện được bao nhiêu điều trên đây…
     « Trời đất trăng sao và tất cả vũ trụ sẽ thuộc về con,
     « Nhưng một thành quả còn lớn lao và cao cả hơn tất cả càn khôn và vũ trụ , chính là điều :  Con đang trở thành một Con Người đích thực và trọn vẹn ».
 
    
     
                                                      ***
 
    
     Trong khuôn khổ của cuốn sách về Tự Tin, tôi không thể chi li về mọi phương thức hóa giải xúc động và tình cảm. Tôi chỉ muốn giới thiệu tư tưởng của hai tác giả quan trọng sau đây :
 
    
     Tác giả thứ nhất là D. Goleman (8) 
     Trong hai tập sách có giá trị và tầm vóc hoàn vũ, nhà tâm lý nầy đã liệt kê  năm khả năng của con người biết hóa giải đời sống và xúc động.
 
     Khả năng thứ nhất: Ý thức sáng suốt và đầy đủ về đời sống tình cảm và xúc động của chính mình. Ý thức có nghĩa là biết xác định điểm xuất phát, đánh giá cường độ và tầm ảnh hưởng. Một cách đặc biệt, ý thức là biết đặt tên, gọi tên và đồng thời khám phá nhu cầu hiện tại của mình, đang ẩn núp ở bên dưới mỗi xúc động và tình cảm.
 
     Khả năng thứ hai : Làm chủ, đối với những xúc động và tình cảm tiêu cực, phá hoại như giận dữ, lo âu, tuyệt vọng...
Làm chủ có nghĩa là biết ngăn chận, đề phòng, chuyển biến, tránh tối đa những tình trạng tràn ngập, ngụp lặn, tê liệt do xúc động và tình cảm quá mãnh liệt áp đặt và gây nên cho chúng ta. Trái lại, khi xúc động và tình cảm "tức nước vỡ bờ", khống chế tư duy, chúng ta sẽ đánh mất bản thân mình. Chúng ta trở thành nạn nhân của dục vọng.
 
     Khả năng thứ ba: Vận dụng, điều động những tình cảm năng động, tích cực, để động viên chính mình trong vấn đề thực hiện những mục tiêu của đời sống.
 
     Khả năng thứ bốn : Đồng cảm với người khác, tìm hiểu nhu cầu tình cảm của họ, để tiếp xúc nâng đỡ và soi sáng con đường làm người của họ.
 
     Khả năng thứ năm : Phát huy quan hệ hài hòa, tốt đẹp và xây dựng, trong mọi hoàn cảnh tiếp xúc, chung sống và cộng tác với người đồng bào, đồng loại.
 
     Theo ngôn ngữ của D. Goleman, năm khả năng vừa được liệt kê,  tạo nên một loại "Thông minh coi trọng tình cảm". Yếu tố nầy đang thiếu vắng trầm trọng trong xã hội quá duy lý ngày nay. Càng duy lý, xã hội càng trầm luân và gặp nhiều vấn đề ở mọi địa hạt. Trí thông minh coi trọng tình cảm phải chăng là nhu cầu cấp thiết của con người, trong thời đại mới thuộc Nghìn Năm Thứ Ba ?
 
    
     Tác giả thứ hai là Cameron Bandler (9)
 
     Trong cuốn sách mang tựa đề "Làm con tin của đời sống tình cảm và xúc động"  tác giả nầy trình bày rất nhiều kỹ thuật hóa giải, với từng bước đi lên rất cụ thể. Nét đặc biệt của những phương pháp hóa giả nầy được trình bày  và thu tóm trong hai kỹ thuật then chốt sau đây:
    
     Phương pháp hóa giải thứ nhất là « Mẫu hóa »
 
     Tình cảm và xúc động được tháo gỡ ra từng bộ phận, cơ hồ chúng ta tháo gỡ ra một chiếc xe đạp, để lau chùi hoặc sửa chữa. Khi lắp ráp lại chúng ta nhận thấy  "tổng thể" chỉ được cấu thành bằng một số "thành tố" rất hạn định. Khi sửa chữa, chúng ta chỉ cần thay đổi một hoặc hai bộ phận mà thôi, chiếc xe đã lên cấp một cách rõ rệt.
     "Tổng thể" của một xúc động cũng được cấu thành bằng một số  "thành tố" hạn định. Khi khám phá và liệt kê những thành tố ấy, chúng ta làm công việc mang tên là mẫu hóa, có nghĩa là tìm ra "bộ sườn".
     Và khi đã rõ ràng về "mẫu thức" hay là "bộ sườn" của một xúc động, chúng ta chỉ cần tác động trên một vài thành tố, chúng ta sẽ có khả năng biến chuyển toàn diện chất lượng của cả "Tổng thể".
     Để minh họa phương pháp mẫu hóa nầy, chúng ta hãy lấy thí dụ lòng tự tin.
 
     Mẫu thức  hay là bộ sườn của lòng tự tin bao gồm sáu yếu tố:
      - Thành tố thứ nhất : Ý thức về mình, về căn cước : Tôi biết tôi là ai?
     - Thành tố thứ hai : Mục đích và giá trị của tôi là gì? Lý tưởng của đời tôi ở đâu?
     - Thành tố thứ ba là Khả năng. Tôi làm được gì? Thế nào?
     - Thành tố thứ bốn là Tác phong. Bây giờ đây tôi làm gì cụ thể?
     - Thành tố thứ năm là Môi trường sinh sống và hoạt động. Tôi hiện ở đâu? Nghề nghiệp của tôi là gì ? Tôi có thể đóng góp những gì, cho những người đang có mặt hai bên cạnh tôi ?
     - Thành tố thứ sáu : Những quan hệ cơ bản của tôi là gì ?
        Ai là người anh chị em?
        Ai là cha mẹ?
        Quê hương có ý nghĩa gì cho cuộc đời của tôi ?
 
     Nếu chưa trả lời được cho mình và không đi tìm câu trả lời, cho một trong sáu điểm trên đây, lòng tự tin của tôi còn ở trong tình trạng bấp bênh, mơ hồ và vô hiệu.
     Trái lại, khi trả lời được một cách trung thực và đầy xác tín, cho sáu loại câu hỏi trên đây, chúng ta sẽ thuộc loại người có lòng tự tin, trên con đường tiến thân của mình.
    
                                                      ***
    
     Nhà đại văn hào người Nga L. Tolstoi đã "mẫu hóa" con người biết sống hạnh phúc, khi nhấn mạnh rằng : người ấy có khả năng trả lời một cách xác đáng, trước ba câu hỏi sau đây:
 
     - Ai là con người quan trọng nhất trong cuộc đời hiện tại của tôi ?
     - Lúc nào là thời điễm quan trọng nhất, cần tôi nắm bắt và tận dụng?
     - Hành động nào có tầm mức quan trọng nhất, cần được thực hiện lập tức, không thể trì hoản?
 
     Và Tác giả đã giới thiệu câu trả lời sau đây :
 
- Người quan trọng nhất chưa hẵn là cha mẹ, vợ chồng, con cái; Trời, Phật, Thiên Chúa... Nhưng đó là người đang ở trước mặt tôi. Người ấy là hình ảnh của Thiên Chúa, nếu tôi tin vào Ngài.
 
- Lúc quan trọng nhất chưa hẵn là ngày cưới hỏi, giờ lâm chung, lúc trúng số độc đắc. Nhưng đó là giờ phút hiện tại, ở đây và bây giờ.
 
- Công việc nào có tầm mức quan trọng nhất? Đi lễ Chùa, vào dòng tu? Cầu kinh, bố thí? Công việc quan trọng nhất là làm cho người đang ở trước mặt mình, được hạnh phúc, an bình và sung sướng.
 
     Ai làm được như vậy, đó là con người biết sống hạnh phúc, mặc dù còn đang ở giữa trần thế đầy chết chóc và đau thương! Và sỡ dĩ tôi "làm được" cho người khác hạnh phúc, là vì hạt mầm hạnh phúc đã có mặt trong nội tâm của tôi.
    
    
 
       Phương pháp hóa giải thứ hai: "Nhổ neo và khóa neo"
 
 
     Một chiếc thuyền, khi được neo lại, sẽ không trôi dạt bấp bênh, theo sóng gió.
     Khi nhổ neo, chúng ta có thể chèo thuyền đi nơi khác.
     Trong cuộc đời làm người, cũng có những cây neo tâm lý tương tự như vậy.
 
     Chính Pavlov đã thực hiện một cuộc thí nghiệm như sau:
     Giai đoạn một : Ông giam đói một con chó.
     Giai đoạn hai : Ông mang đến một miếng thịt bò tươi đặt trước mặt chó và đồng thời rung một cái chuông nhỏ.
     Thấy miếng thịt, con chó đói thèm ăn, nhưng vì chưa ăn được, nó chảy nước bọt.
     Giai đọan thứ ba : Ông lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong nhiều ngày, hai giai đoạn thí nghiệm trên đây.
     Sau độ hơn một tuần hay 10 ngày, Pavlov chỉ cần rung chuông mà thôi, không cần mang ra miếng thịt, con chó đói đã chảy nước bọt. Sỡ dĩ như vậy vì tiếng chuông đã được neo chặt vào miếng thịt, cho nên có khả năng tác động hoàn toàn giống như miếng thịt.
 
     Phương pháp "Chương trình sinh hoạt thần ngữ" sử dụng lại ý kiến của thí nghiệm nầy, một là để làm sống lại những xúc động tích cực  như hăng say, sung sướng, bình thản. Hai là để giải trừ những tình cảm tê liệt như buồn chán, lo âu... Tất cả vấn đề là tìm ra một cây neo tâm lý vững mạnh và đơn sơ, thích hợp với hoàn cảnh của cuộc sống. Từ đó, chúng ta tìm cách cột chặt cây neo  vào một xúc động.
     Bản thân tôi đã và đang thường xuyên sử dụng những bài hát và câu thơ tạo năng lực và hùng khí. Sau đây là vài ba ví dụ:
 
     - « Em trọng đại vì em là tất cả »,
     - « Đem rừng xanh phủ hết đất tang thương »,
     - « Em là ché lúa đưa tin mùa gặt mới »,
     - «  Em là dòng suối gọi lòng người tắm gội ».
 
     Đó là những "cây neo", những "tiếng chuông" tôi hát lên hay là âm thầm chú niệm khi tôi hăng say, hạnh phúc, đại lượng đầy lòng tha thứ...
     Tôi ngày ngày cột vào những câu thơ, câu hát ấy, cả một tình người bao la trong sáng, hướng thượng.
     Nhờ đó vào những lúc đen tối, tuyệt vọng chán nãn, vì lòng người độc ác, thiếu bao dung, hẹp hòi, phê phán, xua đuổi...tôi nhỏ nhẹ nhắc nhở lại cho mình:
     - "Ánh mắt em là cả một bầu trời!"...
     Nhờ chú niệm vào những vần thơ vắn gọn ấy, tôi bám chặt vào cây neo. Đồng thời tôi giải trừ được những cỏ lùng, đã do ai gieo vào ruộng đồng của tôi, trong một lúc mà tôi không hay biết...
     Kết quả là nhờ bao nhiêu câu hát, câu thơ ấy, tôi vẫn bám chặt vào con đường làm người, đ1ng như lời nói của Thisĩ Kipling : "Thành nhân là một thành quả thật vuông tròn!"
     Cũng nhờ phương pháp "khóa neo" như thế, tôi có sức vươn lên, mặc dù cuộc sống lắm lúc " nặng như chì" và "đen như con kiến đen giữa đêm đen, nằm cô đơn trên tảng đá đen".
 
     Không học tập và tôi luyện cho mình, cách hóa giải như vậy, làm sao tôi có thể khẳng định về con đường làm người của mình :
 
     "Giữa bão tố, hồn đại dương vẫn lặng
     "Ngày sương mù, lòng trời cao cứ nắng".
 
     
                                                      ***
 
    1.5- Thành tố thứ năm : ngôn ngữ và hành động để bộc lộ nội tâm
    
     Nội tâm được so sánh như một "lò luyện thép". Ở đây, thực tại bên ngoài được nung đốt, thanh lọc và chuyển biến, để cuối cùng trở thành hai thực thể: Kiến giải về thực tại và phản ứng nội tâm là tình cảm và xúc động.
     Vào giai đoạn thứ năm, nội tâm được bộc lộ ra bên ngoài, trở lại tác động trên môi trường và ngoại cảnh bằng hai phương tiện: Ngôn ngữ và tác phong.
     Dựa vào hai sinh hoạt nầy, chúng ta cũng có thể đánh giá chất lượng và cấp độ tự tin của một chủ thể:
 
     Thứ nhất : người ấy có ý kiến rõ ràng và khúc chiết không? Lời nói có diễn tả minh bạch và trọn vẹn quan điểm và lập trường không?
     Thứ hai : xúc động có được diễn tả ra ngoài một cách dễ dàng, trung thực, thanh thoát, thoải mái không? Hay là bị cầm giữ, dồn nén, ngụy trang?
     Nói cách khác, chủ thể có khả năng bộc lộ một cách thích ứng những nhu cầu tình cảm cơ bản cũng như những nguyện vọng và yêu cầu của mình không? Thích ứng có nghĩa là đúng lúc, đúng độ, đúng cách và đúng đối tượng.
     Thứ ba : khi diễn ta kiến giải cũng như khi bộc lộ cảm trạng của mình, chủ thể phát biểu đã tạo nên xung đột, tranh chấp hay là phát huy quan hệ và bồi dưỡng hòa khí?
 
     Hai tác giả D. Goleman và B. Sommer đã sỡ hữu hóa một tiêu chuẩn do M. Csikszentmihalyi (đọc là síc-xê-mi-hai) đề xuất để đánh giá con người tự tin (10). Đó là tư cách có tên gọi là Flow trong tiếng Anh. Flow có nghĩa là trôi chảy dễ dàng, xuôi thuận, thoáng thoát, tự nhiên. Không bị trục trặc. Không căng thẳng gò bó. Không gồng mình lên, như con nhái muốn sánh mình vời con bò. Không che đậy, giấu diếm dưới những lớp áo quần chói chang láng bóng. Flow là tư cách của trời xanh, của biển cả. Lại gần con người có tư cách nầy, chúng ta cảm thấy mình cao cả, trọng đại nhưng vẫn còn muốn vươn lên. Không bị nhận chìm, đè bẹp. Tư cách Flow có mặt nơi một trẻ thơ. Nơi con người hạnh phúc. Nơi một nhà trượt tuyết vô địch đang bay lượn nhẹ nhàng qua nhựng sườn tuyết trùng trùng, điệp điệp. Nói tóm lại, Flow là nước chảy xuôi dòng. Nhận vào để nuôi dưỡng mình và cho ra để phong phú hóa người tiếp xúc với mình. Là tình yêu vô điều kiện, không có gợn mây lo sợ, đề phòng, so đo hơn thiệt. Không tố cáo, kết án. Trước lỗi lầm chỉ có liếc nhìn đầy tha thứ! Như nước, con người tự tin chỉ nối kết và bắc nhịp cầu. Lời nói của họ không bao giờ là tên bay, đạn nổ.
    
    1.6- Thành tố thứ sáu: Quá khứ là kho tàng chứ không phải là vết thương hay vết nhơ trong lý lịch
   
     "Hóa giải quá khứ" phải chăng là kỹ năng to lớn của người tự tin? Nhưng quá khứ tôi muốn nói ở đây là gì, nó tác động ở đâu, cách nào trên nội tâm của con người?
     Bao lâu một dân tộc chưa hóa giải được toàn bộ quá khứ của mình bằng cách đối diện và nhận diện những bộ mặt gian manh những bàn tay đẫm máu, những ý đồ thực dân, diệt chủng, những thủ đọan thanh toán, diệt trừ người anh em... cái vô thức, vô minh ấy vẫn còn là cái ung thư nhức nhói chờ ngày xuất hiện trở lại.
     Bao lâu một tập thể còn có mặt ngoài mặt trong, còn sợ "vạch áo cho người xem lưng", tập thể ấy đang kéo lê lết một gánh nặng vô hình cản trở con đường tiến thân và lớn mạnh.
     Đối với từng mỗi cá nhân cũng vậy, quá khứ như mặt trăng gồm có hai mặt: mặt sáng và mặt tối. Mặt tối ám ảnh, kích thích, đeo đuổi chúng ta.
     Theo thánh Phao-lô "Hồng ân cứu độ" chỉ tràn trề khi mặt tối được thú nhận: nghĩa là đảm nhận, chấp nhận, đối diện, nhìn thẳng mặt. Theo tâm lý học, được "cứu độ" có nghĩa là được giải thoát, giải phóng, giải tỏa. Không bị kẹt, không bị ối động, không bị ung thối, không bị ô nhiễm hoặc đầu độc vì một vết thương không được chữa lành.
     Một số người học thiền chưa đến nơi đến chốn, thường eo xèo, nhễ nhãi rằng:
 
     "Quá khứ đã qua rồi!
     Tương lai thì chưa tới!
     Chỉ có giây phút hiện tại là thực!"
 
     Không, quá khứ không đi qua. Theo duy thức học - một loại tâm lý học Phật giáo - quá khứ đang còn có mặt trong cung lòng của kho lẫm, mang tên là tàng thức hay là A-lại-gia- thức. Đó là từ tương đương với Vô thức của Phân tâm học. Quá khứ rơi rụng và đang được chất chứa trong kho tàng vô thức, dưới hình thức chủng tử hay là hạt mầm.
     Những lối nói "kho lẫm", "kho tàng" chỉ là hình ảnh, hình tượng. Thực ra nội tâm không phải là một nơi chốn vật chất có nhiều phòng ốc khác nhau. Nội tâm như chúng ta đã quãng diễn sâu rộng, là lối nhìn và xúc động.
     Khi thực tại đi vào nội tâm, nội tâm không phải là "vườn hoang, nhà trống". Nội tâm đã có một quá trình kinh nghiệm, một quá khứ. Cho nên khi thuyên giải thực tại, nội tâm không thể không chịu ảnh hưởng của quá khứ. Nhưng quá khứ ấy là mẹ hiền nâng đỡ đùm bọc, soi sáng, hướng dẫn. Quá khứ cũng có thể là bà dì ghẻ, như trong câu chuyện tấm cám:
     Bà luôn luôn xoi mói, hằn học, hành hạ, tố cáo, chưởi bới, không cho phép đứa con ghẻ ngoi đầu lên.
     Trong đời sống thực tế, tôi không cần có cha ghẻ hay mẹ ghẻ. Trong mỗi người cha mẹ của chúng ta , như tôi đã triển khai và trình bày trong cuốn "Đối Thoại, quê hương tình người", luôn luôn có hai bộ mặt Cha Mẹ Hiền và Cha Mẹ Ghẻ (11).
     Nếu trong quá khứ, nhất là trong vòng năm sáu năm đầu đời, tôi đã có kinh nghiệm với " Cha Mẹ Hiền ", tôi sẽ học lại kinh nghiệm "Hiền" với con cái của tôi, với những người tôi tiếp xúc hằng ngày trong môi trường xã hội. Trái lại, nếu tôi đã sống kinh nghiệm "Ghẻ" với cha mẹ, tôi sẽ tái diễn bộ mặt "Ghẻ", với con cái và bạn bè xa gần, trong cuộc sống thường ngày của tôi.
     Trong tinh thần và lăng kính ấy, hoá giải quá khứ là thấy, biết, ý thức về nhiều bộ mặt khác nhau trong chính mình: vừa Hiền vừa Ghẻ và sáng suốt chọn lựa bộ mặt Hiền trong mọi tiếp xúc và trao đổi ới anh chị em đồng bào, đồng loại :
    
         
      Không phải chọn một lần là đủ.
     Nhưng là ngày ngày chọn lại. Ngày ngày quyết định lại.
     Và cho phép người anh chị em mình cũng có khả năng làm lại cuộc đời, "trở lại" với bộ mặt Hiền của mình.
     Hóa giải như vậy cũng mang một tên khác là Tha Thứ.
     Và chúng ta không chỉ thứ tha một lần. Nhưng triệu lần mỗi ngày . Thứ tha cho mình, để có thể thứ tha cho người khác.
     « Nhật tân, nhật nhật tân,
     « Hựu nhật tân! »
    
     Con người tự tin, dân tộc tự tin khi con người và dân tộc ấy có khả năng nhìn mình, biết mình. Từ đó can đảm và sáng suốt đối diện và nhận diện hai bộ mặt Sáng và Tối luôn luôn có mặt trong mình, không che dấu, không ém nhẹm, không làm ra vẽ. Cuối cùng, chúng ta quyết định chọn lựa con đường sáng, để rồi nắm tay nhau, nâng đỡ nhau và thúc dục nhau mà đi. Ai té ngã, toàn thể anh chị em nâng đỡ họ đứng dậy mà đi.
     Phải chăng đó là "phép lạ" mà mỗi người có thể làm, trong đời sống hằng ngày?
     Bạn tin mình làm được như vậy không?
     Nếu có, đó là Tự Tin.
     Nếu không, đó là thiếu tự tin.
     Chỉ thế thôi, không có gì quanh co khó hiểu !
  
  
 
 **************************************
  
  
  
Chương hai
 
Thiếu Tự Tin, Những Triệu Chứng
   
  
     Trong chương một vừa rồi tôi đã quãng diễn sâu rộng thế nào là lòng tự tin, khi nào tôi tin vào tôi. Dưới nhiều hình thức và ở những giai đoạn khác nhau, tôi đã kết luận: Tự tin là một tiến trình, một con đường đòi hỏi chúng ta dấn bước đi tới :
 
     Bước một : Tiếp thu thực tại, mở mắt nhìn để phân biệt tôi đang thấy gì. Đâu là sự kiện khách quan?
     Bước hai : kiến giải thực tại, từ những sự kiện khách quan. Lối nhìn của tôi là gì? Dựa vào đâu tôi khẳng định như vậy?
     Bước ba : Hóa giải xúc động và tình cảm do lối nhìn phát sinh hay gọi về những năng động vì nhu cầu có mặt trong hiện tại:
     Xúc động nào đang có mặt?
     Tôi làm gì để chuyển biến?
     Tôi cần năng động nào?
     Làm sao để gọi về năng động ấy?
     Bước bốn : Xây dựng quan hệ
     Tôi có khả năng diễn tả và bộc lộ nội tâm không?
     Khi làm như vậy, tôi xây dựng thế nào những quan hệ giữa người với người không?
     Bước năm: Chuyển biến quá khứ thành hành trang
     Quá khứ ấy xây dựng đời tôi như thế nào?
     Nếu quá khứ gây cản trở, tôi hành xử như thế nào?
 
     Dù muốn dù không, khi khảo sát những bước đi lên ấy, để xác định những cách làm tự tin, tôi đã đồng thời đưa ra những nhận định thế nào là thiếu tự tin.
     Trong cách trình bày, thay vì sử dụng tư tưởng nội dung, nghĩa là nêu lên những quan điểm trừu tượng, lý thuyết, tôi đã phát huy tư tưởng cấu trúc, bằng cách đề cao cách làm, tôi giới thiệu một phương pháp khảo sát, học tập, nghiên cứu. Xuyên qua đó, người độc giả thấy mình đang ở đâu. Trong mỗi giai đoạn, họ sẽ tự hỏi mình: tôi đã làm hay chưa? Nếu đã làm, tôi cần bổ túc, sửa sai, kiện toàn gì? Nếu chưa, tôi sẽ bắt tay vào việc thế nào?
     Và sau khi làm được, họ sẽ có khả năng hướng dẫn kẻ khác cùng làm như mình.
 
     Trong chương hai nầy, thay vì lặp lại chương một và thực hiện một cuộc đảo ngược 180 độ, tôi dùng phương pháp "định bệnh" nghĩa là khảo sát, rà soát những triệu chứng.
Khi định bệnh như vậy , chúng ta sẽ đi từ những dấu hiệu thô thiển hiển nhiên và kết thúc với những đường nét tế vi, chấm phá.
 
 
     Triệu chứng thứ nhất :
 
     * Hẹn rày hẹn mai
     * Lương ương khó quyết định,
     * Nước lên trôn mới nhảy.
 
     Khi xác định mục đích và mục tiêu hành động cho cuộc đời, tôi cần thắp sáng ngọn đèn ý thức, để soi chiếu ít nhất sáu vấn đề khác nhau:
     Một : Phân tích hiện tình (điểm xuất phát)
     Hiện tại, tôi ở trong hoàn cảnh hoặc tình huống nào?
     Một cách đặc biệt, vấn đề của tôi là gì? Tôi cần gì?
 
     Hai : Mục đích, mục tiêu (điểm đến)
     Tôi muốn gì?
     Giá trị hoặc nhu cầu tôi cần đeo đuổi là gì?
     Đâu là điều quan trọng đối với tôi?
     Mục đích tối hậu là gì?
 
     Ba : Trở ngại còn được gọi là Bị động.
     Để đạt đến mục đích hoặc mục tiêu, tôi đang có những khó khăn, trở ngại nào?
     Tôi vượt qua được không, thế nào?
 
     Bốn : Lợi điểm còn gọi là Năng động.
     Tôi có năng động và động cơ nào thúc đẩy?
     Tôi được gì, khi đạt mục tiêu?
     Nếu chưa có sẵn năng động ấy , tôi đi tìm đâu? Trong tôi?
     Ngoài tôi?
     Nếu không có ở ngoài, tôi sẽ hành xử ra sao?
 
     Năm : Những bước cụ thể đi tới, lịch trình thực hiện.
     Tôi phân chia, công việc thành những bước đi cụ thể như thế nào?
     Khi nào tôi bắt đầu bước một.
     Tôi hoàn tất bước sau cùng khi nào?
 
     Sáu : Đánh giá.
     Tôi dự trù đánh giá đợt một, để điều chỉnh khi nào?
     Tôi đánh giá lần cuối khi nào?
     Tôi sẽ đánh giá trên những tiêu chuẩn nào?
     - Tiêu chuẩn về những bước thực hiện?
     - Tiêu chuẩn về mục tiêu?
     - Tiêu chuẩn về năng và bị trong đó có quan hệ, nếu có nhiều người hợp tác  trong một chương trình hoặc dự án?
 
     Trong mỗi cách xử lý triệu chứng ở đây, hay là trong các triệu chứng khác sau nầy, chúng ta đánh sáng lòng tự tin bằng cách nhấn mạnh hai lãnh vực :
     - Tôi có giá trị, mục đích và ý nghĩa trong cuộc đời.
     - Tôi làm được, tôi có khả lực.
     Bao lâu chưa tìm được giá trị cần đeo đuổi và khả lực nằm ở đâu, chúng ta chưa có điểm tựa vững chắc để khẳng quyết và mài nhọn lòng tự tin.
                                          
       
     Hẳn thực, như lời người xưa đã dạy :
« Có đi mời biết đường dài
« Ở lâu mới biết con người phải chăng! »
     Vậy tự tin là tự mình động viên mình, tìm cách biết mình và chủ động học tập để trở thành con người có giá trị và có khả lực. Lẽ đương nhiên, khi đi tới, tôi sẽ gặp những vấp ngã. Nhưng tôi rút tỉa bài học để thăng tiến bản thân.
     Trái lại, khi không làm và ngồi chờ quả sung từ trời rơi vào miệng, đó là tình cảnh của người thiếu tự tin.
 
 
     Triệu chứng thứ hai:
 
     * Tự cao tự đại,
     * Luồn cúi, nịnh bợ
     * Ba phải
     * Thay đổi như chong chóng
     * Lệ thuộc
     * Tự ti mặc cảm.
 
     Triệu chứng loại một nằm ở khâu giá trị và mục đích của đời sống.
     Triệu chứng loại hai nằm ở khâu ý thức về căn cước hoặc bản sắc đích thực của mình:Tôi là ai?
     Tác giả E. Berne - người sáng lập "phương pháp phân tích những trao đổi" (12)  - đã dùng lối nói "lập trường tâm lý" để mô tả thể thức một người xác định vị trí của mình so với người khác:
     - Tôi ở trên?
     - Tôi ở dưới?
     - Tôi đứng ngang hàng?
     Thể theo lối nhìn của tác giả, không có vị trí xấu hoặc tốt, theo quan điểm đánh giá nhị nguyên. Đây là vấn đề ý thức về trách nhiệm làm người, phát xuất từ chỗ đứng của mình, trong môi trường gia đình và xã hội.
     - Khi tôi biết mình đang ở trên tôi có trách nhiệm sáng soi hướng dẫn về nguyên tắc và phương thức hành động cho người ở dưới. Đồng thời, tôi tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích, nâng đỡ, cũng cố những gì thuộc về bản sắc của họ.
     - Khi tôi ở dưới, tôi học tập cho biết những qui luật hành động. Đồng thời tôi cũng tập luyện ăn nói làm sao cho « đúng người đúng lúc », nhất là khi diễn tả nhu cầu tình cảm.
     - Khi làm người anh chị em ngang hàng nhau, tôi chia sẽ, đồng hành và trao đổi...
     Trong quan hệ giữa người với người, không ai "luôn luôn cố định" ở trên. Ví dụ, trong trường hợp thuyết minh một vấn đề, tôi được chỉ định ở trên. Sau đó vào giờ cơm, tôi không cần ở trên, đòi cho mình quyền "ăn trên ngồi trước". Tiếp theo đó, trong cuộc sống, nếu tôi cần một đồ dùng, tôi phải xin, tuân theo qui luật của đời sống, nếu đó là những đồ dùng của tập thể. Đối với tập thể, tôi đặt mình ở dưới.
 
     Con người tự tin có một lối nhìn "xuôi chảy", hài hòa, tự nhiên như vậy. Trái lại, vì thiếu tự tin, tôi khư khư ôm lấy đặc ân đặc quyền và không tuân hành bổn phận và nhiệm vụ.
     Trong tinh thần nầy, ở trên không có nghĩa là có mọi giá trị. Và khi ở duới tôi vẫn là một "người", một chủ thể. Tôi không bao giờ là đối vật, đối tượng hoặc nạn nhân, chính khi tôi đảm nhiệm những công việc được gọi là "hạ cấp" như quét nhà, lau chùi phòng vệ sinh. Thực ra không có gì là hạ cấp khi tôi biết tôi đang làm người phục vụ, trong lòng quê hương và đất nước. Trái lại, khi người dân, vì lý do lý lịch bị xếp loại hạng siêu công dân và hạng hạ công dân, hạng có quyền công dân và hạng bị mất quyền công dân, hạng có thành tích, hạng có vết nhơ, đó là tình trạng phản lại con người.
 
     Hẵn thực, Tôi không bao giờ mất căn cước làm người.
     Không ai có thể truất phế chức người của tôi.
 
 
     Triệu chứng thứ ba:
 
     * Tâm thần bất ổn,
     * Bùng nổ,
     * Khép kín, sợ sệt,
     * Mặt ngoài mặt trong xung khắc với nhau,
     * Thiếu trung thực,
     * Dồn nén.
 
     Những ai mang những triệu chứng nầy đang thiếu khả năng hóa giải đời sống xúc động và tình cảm. Một là họ không ý thức một cách rõ ràng về cảm trạng của mình. Họ không mô tả một cách rõ ràng chính xác nội tâm của họ. "Khó chịu" có nghĩa đích thực là gì? "Hồi hộp" là hiện tượng sinh hóa hay là căng thẳng nội tâm ?
     Lẽ đương nhiên, loại người nầy cần học tập phân biệt:
     - Sự kiện khách quan là gì?
     - Lối nhìn là gì?
     - Xúc động mang những tên gì?
     - Nhu cầu tình cảm cần đuợc diễn tả làm sao?
     - Không ý thức về tình cảm, làm sao biết mình?
     - Không biết mình, làm sao có khả năng đánh giá căn cước và khả lực đang có mặt, bằng cách nầy hay cách khác trong chính mình?
     - Không coi trọng mình đúng tầm, làm sao tự tin, nghĩa yêu thương vun bón chính mình?
 
 
     Triệu chứng thứ bốn:
 
     * Ăn nói hồ đồ tỏ ra mình "biết một mà không biết mười".
     * Lời lẽ "rau muống" luộm thuộm, dài dòng, cầu kỳ, chơi trò "chữ nghĩa", nghĩa là không biết mình nói gì. Nói "không có sách", mách "không có chứng".
     * Ngôn từ chuởi bới, tố cáo, mạ lị kẻ khác...
    * Tiêu cực về mình, nói về mình như là nạn nhân, "bị kẻ khác ức hiếp, bắt bớ, thực dân".
     * Không dám từ chối, muốn "làm vừa lòng mọi người" nhưng sau đó chua cay.
 
     Triệu chứng thứ bốn nầy xuất hiện ở khâu bộc lộ nội tâm, sử dụng phương thức diễn tả lối nhìn hoặc xúc động. Nói cách chung, trong triệu chứng nầy, lời lẽ thiếu chất lượng "chính xác". Ba cơ chế "vơ đũa cả nắm"; "thiên vị" và "xuyên tạc" luôn luôn có mặt tràn đầy, ở dưới mỗi lời phát biểu.
     Bao lâu loại người nầy không học tập phân biệt một cách chính xác yếu tố nào là sự kiện, yếu tố nào là lối nhìn của chính mình, yếu tố nào là phê phán chủ quan về người khác... họ chỉ tạo nên những căng thẳng, xung đột trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Và kết quả cuối cùng là "gậy ông trở lại đập lưng ông".
 
     Trong những cuốn sách trước đây (13), tôi đã đưa ra nhũng kỹ thuật giúp chúng ta rà soát lại lời ăn tiếng nói của mình. Hẵn thực, chánh ngữ nghĩa là ngôn ngữ chính xác, càng đưa chúng ta lại gần thực tại bao nhiêu, càng có giá trị bấy nhiêu. Có chánh ngữ mới có chánh tư duy, nghĩa là suy tư một cách đứng đắn. Và khi có tư duy đứng đắn, chánh kiến, nghĩa là lối nhìn trung thực, mới có cơ may xuất hiện. Sau hết, có lối nhìn trung thực, chúng ta mới thực sự có chánh tâm, nghĩa là biết yêu mình và yêu người, trong những quan hệ hằng ngày của chúng ta.
 


     ******************************
 
 
    
Chương ba
 
Kỹ thuật hóa giải tâm trạng thiếu tự tin
 
   
     Rãi rác trong hai chương vừa qua, tôi đã sử dụng tư tưởng cấu trúc nhằm trình bày những bước đi cụ thể, từ dễ đến khó. Một cách nào đó, như người thợ sửa xe đạp, tôi đã tháo gỡ nội tâm thành từng bộ phận cơ bản. Và khi một bộ phận không có khả năng sinh hoạt một cách "xuôi chảy", vì thiếu dầu, thiếu mỡ hay bị "trục trặc" vì nằm không đúng chỗ, tôi đã giới thiệu một vài kỹ thuật hóa giải. Khi khác, tôi yêu cầu độc giả trở lại tìm kiếm và tôi luyện những kỹ thuật đã được trình bày trong những cuốn sách trước đây (14, 15).
 
     Trong chương nầy, tôi chỉ xin trình bày ba kỹ thuật có quan hệ trực tiếp với phương thức hóa giải nghĩa là biết cách hành xử đứng đắn, khi chúng ta cảm thấy mình bị lung lay trong lãnh vực tự tin.
     Sỡ dĩ tôi chọn lựa thể thức hành động như vậy, vì nhiều lý do sau đây:
 
     Lý do thứ nhất : Tự tin là một tiến trình.
 
     Không quán triệt điều nầy, chúng ta sẽ lầm tưởng: nhân loại được phân chia thành hai khối:  khối người tự tin và khối người thiếu tự tin. Thực ra, tôi có thể rất thoải mái, trôi chảy, vững vàng trong lãnh vực tâm lý. Trái lại, trong vấn đề sử dụng máy vi tính, tôi sẽ vụng về, dốt nát, đụng vào đâu là sai hỏng đến đó. Lý do căn bản là trong điều kiện và hoàn cảnh hiện thời, tôi không đặt vi tính thành mục tiêu ưu tiên số một. Cho nên tôi thiếu động cơ học tập, để trau dồi khả năng nầy.
 
 
Phải chăng Pascal đã nói: "Hãy cho tôi một đòn bẫy và một điểm tựa, tôi có thể dời núi lấp sông » ? Trong địa hạt Tự Tin, dòn bẫy là lối nhìn. Điểm tựa là năng động tình cảm, còn được gọi là động cơ thúc đẩy. Tuy nhiên, dù đòn bẩy và điểm tựa có sẵn, bao lâu cánh tay tôi chưa làm, thì chưa có gì xảy ra.
 
     Chẳng hạn, vào thời vua Tự Đức, trong những hoàn cảnh đen tối nhất của Giang Sơn, anh tài đâu có khan hiếm, như "lá mùa thu". Không có Nguyễn Trường Tộ nầy, sẽ có biết bao nhiêu Nguyễn Trường Tộ khác. Nhưng vào thời ấy lòng người "rối ren". Và khi tâm "bị loạn", thì trí không còn thấy một cách quang minh. Cho nên triều đình lúc bấy giờ chỉ thu mình trong nếp sống bị động, không làm, ngồi chờ. Hoặc giả, làm thì làm lung tung, lộn xộn. .
     Trong hiện tại, chúng ta có rút tỉa được bài học của thời vua Tự Đức, để rồi trong mọi chương trình đổi mới, chúng ta đừng lặp lại sai lầm của các bậc đàn anh ?
 
     Lý do thứ hai : Thực thể ngoài và trong.
 
     Con người không là vật chất đơn thuần. Không là tâm linh vàng nguyên chất. Vừa có ngoài, vừa có trong. Tuy nhiên, tiến trình làm người đi từ trong ra ngoài "inside-out": Đó là con đường tiến bộ. Đảo ngược tiến trình để đi từ ngoài vào trong "outside-in", như xây cất rùm beng, mà thiếu lập trường và ý nghĩa, thiếu "chất liệu nội tâm" để làm người thực sự và trọn vẹn, chúng ta chỉ lặp đi lặp lại mãi hoài một kinh nghiệm đau thương quá khứ, chặt cây để trồng hai bên vệ đường, nhằm chứng minh cho chính khách đến thăm viếng là "chúng ta đang đi lên". Bao giờ chúng ta mới có gan khước từ "mặc áo giấy" nhằm khoe với thiên hạ "một cái gì hoàn toàn bên ngoài, bịa đặt, giả dối". Phải chăng chúng ta đuổi bắt những trình diễn bề ngoài", những bóng hình tạm bợ?
 
     Lý do thứ ba : Làm người là mục đích tối hậu của lòng tự tin.
 
     Tự tin là giá trị của một con người có "chất người". Cho nên, người tự tin thường xuyên kiểm chứng "tiến trình làm người" của mình, trong lời ăn, tiếng nói, việc làm hằng ngày. Một cách đặc biệt, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người vời người, chọn lựa của họ là làm người và tạo cho kẻ khác điều kiện thuận lợi và tốt hảo để làm người.
     Trong tinh thần và lăng kính ấy, theo lối nói của E. Berne (16), người tự tin không bao giờ khoác bộ mặt cha chú hay là đóng vai trò Cha Mẹ độc tài và bao cấp quá khích. Họ không đã phá, mạ lị, chưởi bới, chỉ trích phê bình, tố cáo. Trong lối nhìn, họ không "vạch lá, tìm sâu". Thay vì chỉ ghi nhận những khía cạnh tiêu cực, khuyết điểm, sai hỏng, họ tìm cách khám phá yếu tố xây dựng, đóng góp, tích cực trong mọi người, mọi biến cố và mọi hoàn cảnh. Đối với tha nhân - bất phân lớn bé, nam nữ, xa gần - thái độ của họ là soi sáng, nâng đỡ, hướng dẫn và cũng cố.
     Thêm vào đó, họ tận dụng mọi cơ hội để học hỏi, rút tỉa những bài học với những ai có kinh nghiệm.
     Đối với người ngang hàng, họ đồng hành và chia sẽ, biết lắng nghe nhưng đồng thời cũng có khả năng diễn tả, khẳng quyết ý kiến hoặc lập trường của mình.
     Nói tóm lại, con người tự tin tìm cách bắc nhịp cầu, xây dựng quan hệ với mọi người, thay vì la ó, chưởi bới, đập phá, phản loạn, như chúng ta đang chứng kiến,  trong nhịp sống xô bồ, hỗn loạn của giời trẻ, trong các thành phố công nghiệp, trên khắp mặt địa cầu.
                                                      ***
 
     Dựa vào những yếu tố vừa được trình bày  trên đây và trước đây, trong hai chương I và II, chúng ta cần đánh giá tiến trình tự tin, theo những chuẩn mực sau đây:
 
     Một : Tôi "biết" tôi không? Căn cước và giá trị đích thực của tôi là gì ?
     Trên bình diện căn cước hoặc tư cách làm người, tôi luôn luôn có giá trị. Và giá trị ấy không ai cất khỏi tôi, ngoài tôi ra.
     Dù thành công hay thất bại, tôi vẫn làm người có giá trị nội tại.
     Dù ở vào môi trường nào, giá trị làm người của tôi vẫn không mai một. Một ông vua không hơn một người phu quét đuờng, trên bình diện thành nhân. Phải chăng đó là xác tín của tôi?
 
 
     Hai : Tôi có "khả lực" không?
 
     Khả lực liên hệ đến vấn đề học tập và kinh nghiệm. Cho nên, trước một công việc, tôi có thể tự đánh giá, bằng một trong hai kết quả sau đây:
     - Tôi biết làm : Trong trường hợp nầy, tôi bổ túc kiện toàn.
     - Tôi chưa biết làm : Trong trường hợp nầy tôi học tập, tôi luyện và từng bưóc đi lên. Một đàng tôi xác định mục tiêu hoạt động, khám phá động cơ thúc đẩy tôi. Đàng khác tôi tìm ra con đường hay là phương pháp dể từ từ thực hiện mục tiêu gần và xa.
 
     Ba : Tôi có "làm người" hay không?
 
     Trong mỗi hành động, chính mục đích tối hậu "Làm người" điều hướng đời tôi. Một cách đặc biệt, mọi phương tiện được sử dụng phải hòa hợp với cứu cánh. Tôi không thể làm người, nếu chính tôi không tôn trọng bản chất làm người của kẻ khác và tạo cho họ mọi điều kiện để làm người giống như tôi và với tôi!
 
                                                      ***
 
     Khi bàn về kỹ thuật "Hóa giải", chúng ta chỉ đề cập những cách làm sau đây :
     - Tôi học tập thế nào?
     - Tôi tìm động cơ thúc đẩy ở chỗ nào?
     - Tôi chủ động hay bị động trước lời chỉ trích, phê bình tiêu cực của kẻ khác?
     -  Nói cách khác, tôi đáp ứng thế nào trước bao nhiêu điều kiện tê liệt phát xuất từ môi trường?
    
                                                     
      Kỹ thuật hóa giải loại một : Biết trở lui về trước.
    
     Trong mọi nỗ lực học tập, nhằm tôi luyện và trang bị cho mình về cách biết làm một cách thuần thục và nhuần nhuyễn, tác giả L.S. Vygotsky đã phân biệt ba vùng học tập khác nhau (17) :
 
Vùng thứ nhất là vùng tự lập.
 Vùng nầy bao gồm tất cả những hoạt động mà chúng ta đã có khả năng thực thi một cách dễ dàng khéo léo, thuần thục và tự nhiên. Kỹ năng hay là "cách làm" đã trở thành "xương thịt, máu huyết" của chúng ta, được hội nhập một cách nhuần nhuyễn đến độ ba thực thể nội tâm là lý trí, tình cảm và cơ thể hòa nhập vào nhau. Không còn những tình trạng giằng co, gò ép như: muốn mà không làm, hiểu phải làm gì nhưng châu thân còn vụng về chưa đạt mức độ "xuôi chảy, thoáng thoát và thảnh thơi", như chúng ta đã khảo sát trước đây.
 
Về mặt kiến thức, đây là vùng "xác tín, rõ ràng minh bạch, hiển nhiên". Đây là những kiến thức, do chính tôi trực tiếp kiểm chứng.
    
Với những kiến thức và kỹ năng như vậy, con người tự nhiên toát ra ngoài lòng tự tin. Tự tin đã có mặt ở bình diện bản chất và tư cách làm người, còn được gọi là căn cước.
 
 
  Vùng thứ ba là vùng  xa lạ.
 Vùng nầy hoàn toàn ở ngoài tầm hiểu biết và học tập của chúng ta. Mặc dù dùng ý chí tối đa, chúng ta không thể nào thành tựu mục tiêu. Bao lâu thực tại còn ở trong vùng nầy, thực tại thoát ra ngoài mọi khả năng tưởng tượng của chúng ta. Nói khác đi, thực tại còn ở trong tình trạng vô hình, vô tượng và vô thanh.
 
Bị ép buộc hoặc xô đẩy  đi vào vùng nầy, chúng ta mất chân đứng, bị lạc đường. Mất khả năng tự định hướng. Cho nên tâm trạng trở nên bất ổn, thiếu tự tin.
 
 
Vùng thứ hai : Vùng học tập
 Vùng nầy ở giữa vùng một và vùng ba. Đây cũng là vùng xa lạ như vùng thứ ba. Nhưng tôi không ở một mình. Có người khác đang cầm tay hướng dẫn tôi đi từng bước vững chắc. Nhờ sự hiện diện ấy, tôi có khả năng biến lạ thành quen.
     Theo ngôn ngữ của bác sĩ tâm thần D. Winnicott (18), tôi không có khả năng sống một mình, trong vùng xa lạ nầy. Tôi cần có người làm trung gian, giúp tôi bắc nhịp cầu từ cái đã biết rồi, đến cái chưa biết.
     Và người trung gian mẫu tượng - nghĩa là có khả năng làm mẫu khuôn cho mọi người trung gian khác - là người mẹ. Nếu vì một lý do gì đó trong cuộc đời, người mẹ không có mặt trong nội tâm của đứa con, hay là không có ai thay thế, đóng vai trò người mẹ, đứa con ấy gặp rất nhiều khó khăn trong lãnh vực học tập. Và nhất là học tập làm người, vì thiếu tự tin.
     Trong lăng kính ấy, thiếu tự tin bắt nguồn từ khởi điểm thiếu mẹ. Không có mẹ trong cuộc đời. Không có mẹ trong tâm tưởng. Cho nên tôi không có mẹ làm nơi nương tựa , làm bàn đạp để tiến thân. Để mạo hiểm trên mọi nẻo đường làm người.
    
 
Tiếp nối công trình nghiên cứu của D. Winnicott, các nhà tâm lý khác còn ghi nhận thêm ba yếu tố bổ túc trong vai trò người mẹ :
     - Từ chín tháng trở lên, một đứa bé phải bắt đầu học tập chấp nhận, một cách an ổn sự vắng mặt ngắn hạn của người mẹ. Vì nhu cầu sinh sống, mẹ ra đi, từ biệt mình. Nhưng trong tâm tưởng của đứa con, thế nào mẹ cũng sẽ trở về, như mẹ đã báo trước.
Hơn nữa mẹ ra đi, nhưng có những người có quan hệ xa và gần với mẹ, như ba, anh chị em, bạn bè người láng giềng, cô giáo vườn trẻ... vẫn tiếp tục thương mình, lo lắng chăm sóc mình. Quan hệ mẹ con không khai trừ loại thải nhưng loại quan hệ muôn màu muôn sắc, thuộc hệ chiều dọc và chiều ngang.
     - Từ hai tuổi trở lên, đứa bé bắt đầu học tập bập bẹ tiếng nói của loài người. Mẹ là người đầu tiên dạy cho mình học tập về thực tại, trong đó có những qui luật, những cấm đoán của người cha. Mẹ trùng tuyên, nhắc đi, nhắc lại  cho mình ghi lòng tạc dạ những nguyên tắc làm người, nhất là khi người cha vắng mặt.
Khi thực tại, cho dù nghiêm khắc, hạn chế, làm tổn thương, được mẹ trình bày và giải thích, thực tại sẽ luôn luôn khoác hai bộ mặt bổ túc kiện toàn cho nhau: Bộ mặt thực tế và bộ mặt vui thích. Nhờ đó, con người tự tin luôn luôn có khả năng khám phá những năng động, thậm chí trong những hoàn cảnh đen tối, bế tắc làm tê liệt sức sống của nhiều người khác.
     - Từ bốn tuổi trở lên, mẹ cho dù mắng phạt, la rầy, từ chối... vẫn là mẹ. Mẹ không bao giờ trở thành "dì ghẻ" hay là "bà phù thủy" trong cuộc đời của mình. Thêm vào đó, mẹ đã có mặt trong nội tâm. Mẹ không biến tan. Mẹ tồn tại trong cuộc đời, cho dù mẹ qua đời. Nhờ hình ảnh của mẹ trở thành bất diệt, đứa con được vững vàng, kiên cố, không mong manh, dễ vỡ về mặt xúc động và tình cảm. Mặc dù người đời trắng đen lật lọng, dèm pha, trù ẻo, tôi vẫn là tôi. Tôi là người được thương và có khả năng thương "vô điều kiện". Không một ai, không một biến cố nào có thể dập tắt ngọn lửa yêu thương ấy, đã có mặt trong bản chất và căn cước của tôi. Tôi đã nhận rất nhiều. Cho nên tôi có khả năng cho.
Bao lâu con người còn có khả năng trở lại với ngọn nguồn, gốc rễ hay là căn nguyên ấy, con người vẫn tìm lại được lòng tự tin. Chính vì vậy trong mọi tôn giáo lớn như Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, khi trở về với nguồn gốc của mình, chúng ta sẽ ý thức đuợc giá trị đích thực của chính mình. Không một quyền lực nào cho dù siêu phàm đến đâu, không một súng ống, bom đạn nào cho dù tối tân với sức hoại diệt kinh khủng nào, có thể đánh mất khả năng bất tử và trường sinh của chúng ta. Tôi chỉ là hạt nước bé mọn, tầm thường. Nhưng tôi còn, thì toàn thể đại dương cũng còn để nuôi dưỡng tôi. Và bao lâu đại dương còn thì tôi không sợ một ai có thể giết chết con người tâm linh của tôi.
Tâm lý ngày nay nhằm nuôi dưỡng lòng tự tin, đề nghị chúng ta "bám trụ" vững chắc vào giá trị siêu việt của chính mình.
 
Chúng ta bám trụ bằng hai hình thức quán tưởng:
     - Thứ nhất là thinh lặng đi vào bên trong nội tâm thấy mình như một ngọn đèn cháy, một đóa hoa nở, một cây cổ thụ đang vươn lên, một đại dương bao la... Từ ngày nầy qua ngày khác, theo một thời khắc biểu được ấn định, chúng ta làm cho lòng mình thấm đậm hình ảnh mà chúng ta đã chọn lựa. Nhờ đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc đòi, chúng ta vẫn có khả năng "tươi nở" như nụ hoa, cháy sáng như ngọn đèn...hùng vĩ như biển cả, mênh mông sâu thẳm như bầu trời.
     - Thứ hai là sử dụng những câu chú niệm năng động. Chúng ta lặp đi lặp lại, để cho mình thấm nhuần những câu nói diễn tả bản chất và giá trị của mình, do mình sáng tạo và chọn lựa.
Đó là những câu nói làm ngọn hải đăng chiếu sáng cuộc đời, giữa đêm tối đầy sóng gió và phong ba.
Những câu nói ấy  khẳng quyết về giá trị của cuộc sống làm người. Chúng ta sử dụng chúng nó, để đối trị những lời nói dèm pha, công kích, hạ bệ và đã phá, do kẻ khác tung vãi.
     Trên đây tôi đã nêu lên vai trò của những bài hát, có công năng tạo nên những thành quả chú niệm như vậy, đối với lòng tự tin của giới trẻ:
    
     - "Em trọng đại vì em là tất cả"
     - "Em là điệu nhạc làm nên bản hoan ca"
     - "Giấc mơ chưa tròn, vấn đề còn đo đây, cuộc sống thiếu sum vầy...Mặt trời em vẫn sáng!"
     - "Em là hạt nước hay Đại dương? Cả hai làm một tình thương nối liền".
        - " Xin Trời đổ mưa!
Cho núi sông em trở về lòng biển cả,
Hân hoan ngày hội, họp mặt khắp muôn người
Tình nghĩa anh em lên đường từ mọi ngã".
 
     Hẵn thực, nếu chúng ta không chủ động mang sinh khí nuôi sống môi trường, bằng những cách làm :
     « Lo băng bó vết thương còn lỡ lói
     « Gieo an lạc vào lòng ai mòn mõi »...
 
     Thì lúc bấy giờ, chính môi trường sẽ trở lại làm ô nhiễm cuộc đời của chúng ta, với bao nhiêu điệp khúc chia rẽ, kỳ thị, bạo động và hận thù... đáng được nhai đi nhai lại trong các kênh đài phát thanh và truyền hình.
 
     
   
    Cấu trúc của não bộ
   
     Chính cấu trúc của não bộ - còn được gọi là hệ thần kinh trung ương - cho phép các nhà tâm lý sáng tạo những phương thức tác động như thế, trong hai địa hạt sư phạm và trị liệu (19).
 
      Cấu trúc chiều ngang
 
     Xét về cấu trúc chiều ngang, não bộ gồm có hai phần: phần mặt và phần trái. Mỗi phần có nhiệm vụ thực hiện một trách vụ khác biệt.
     Não bộ phần trái mang tên là não bộ suy luận, phân tích. Não bộ nầy « chia ra để đối trị và kiểm soát ». Thực tại bị tháo ra từng mãnh. Cho nên, chúng ta không còn có một lối nhìn toàn diện về thực tại muôn màu sắc. Thực tại trở thành vấn đề cần giải quyết, khắc phục. Cuối cùng với não bộ phía trái, chúng ta có một lối nhìn nhị nguyên nghĩa là phân biệt rõ ràng trắng đen, xấu tốt, đúng sai.
     Hệ quả là chúng ta đề cao một bên và loại trừ một bên. Chúng ta lựa chọn cái tốt và bỏ rơi cái mà chúng ta gọi là xấu. Chúng ta hoan hô phía đúng và đả đảo phía sai.
     Thế giới càng ngày càng đi vào con đường duy lý cực đoan nầy trong mọi sinh hoạt. Một cách đặc biệt, để có thể sản xuất cho nhiều, cho nhanh, mỗi người thợ chỉ tiếp xúc một phần rất nhỏ của thực tại. Trong ngành may công nghiệp, một người thợ chỉ may một cái túi áo suốt ngày, từ ngày nầy qua ngày khác, và không biết những bộ phận khác như cổ áo, thân áo... Hệ quả là con người trong thế giới công nghiệp, trở thành máy móc. Không còn sáng tạo, không còn là tác giả của một công trình có đầu có đuôi, có ý nghĩa. Đời sống làm người bị khô cằn, mất hết ý nghĩa.
 
     Não bộ phần mặt được gọi là não bộ phụ nữ có phần vụ tổng hợp liên kết những thành phần lại với nhau.
     Hẳn thực, phụ nữ có phần vụ sanh con, nghĩa là đặt nặng, coi trọng ý nghĩa làm người.
     Thay vì đề cao suy luận, người phụ nữ lưu tâm đến đời sống tình cảm và xúc động. Mơ mộng tưởng tượng được phát huy trong những ngành nghề trang trí, họa sĩ, tạo hình, đòi hỏi tiếp xúc, trao đổi...đó là những môi trường được chọn lựa, khi người phụ nữ dấn thân vào con đường nghề nghiệp.
     Trong tinh thần và ý nghĩa nầy, để "băng bó bao nhiêu vết thương lở lói" của con người, để "gieo vãi hạt mầm an lạc" trong  nội tâm căng thẳng, xung đột...tâm lý đã sử dụng những phương thức sinh hoạt của não bộ phần mặt.
Hai kỹ thuật "tạo hình" và "chú niệm", mà tôi đã trình bày trên đây, dựa vào sinh hoạt tưởng tượng và sáng tạo ý nghĩa, nhằm thiết lập cán cân thăng bằng cho con người quá thiên về não bộ duy lý phía trái, trong thế giới ngày hôm nay.
     
     
     
                                                      ***
     
     
    Cấu trúc chiều dọc
       
     Trong quá trình tiến hóa từ con vật độc bào (chỉ có một tế bào duy nhất) đến con người, não bộ đã đi qua ba giai đoạn (20) :
    
     Giai đoạn thứ nhất là não bộ phản xạ
     Vì vấn đề sống còn trong cuộc đời, đa số sinh vật chỉ cần phản ứng rất nhanh: lại gần để kiếm ăn hay là chạy trốn vì nguy hiểm.
    
     Giai đoạn thứ hai là não bộ tình cảm
     Não bộ hệ viền (Limbic) đặc trách phần vụ chọn lựa quyết định trong đời sống.
     Để đơn gian hóa vấn đề, chúng ta chỉ lưu tâm đến hai thành tố rất quan trọng của hệ viền.
     Thành tố thứ nhất mang tên là Đồi thị (Thalamus).
     Mọi tin tức từ khắp nơi trên cơ thể đều tập trung về đây.
     Từ đây, tin tức được chọn lọc để tiếp tục gửi đi bằng hai con đường khác nhau: con đường khẩn trương và con đường suy luận.
     Thành tố thứ hai mang tên là Hạnh nhân (Amygdala).
     Con đường khẩn trương phát xuất từ Đồi thị và kết thúc ở Hạnh-nhân. Tại nơi đây, sau khi nhận tin tức khẩn trương, nếu cần phản ứng gấp, Hạnh nhân phát ra mệnh lệnh cấp bách.
     Khi có mệnh lệnh cấp bách phát đi,  như tiếng còi báo động, mọi cấu trúc khác phải bị tê liệt, ngưng hoạt động, để nhường chỗ cho lệnh cấp bách.
     Thông thường những mệnh lệnh đó tạo nên tình trạng tràn ngập của tình cảm, xúc động. Lúc bấy giờ cơ hồ những vụ cướp chính chuyền, lật đổ chính phủ, não bộ các thùy (lobes) nhất là Thùy Trán (frontal) không còn hoạt động để điều hướng cơ thể.
 
     Giai đoạn thứ ba là não bộ suy luận tư duy, tổng hợp.
     Tân võ não (Néo cortex) bao gồm các thùy (lobes) tạo nên não bộ suy luận, tư duy và tổng hợp.
     Thông thường, nếu không có những những hiện tượng tràn ngập, tin tức về đời sống tình cảm và xúc động được tiếp tục gửi lên não bộ phần mặt, nhất là những xúc động và tình cảm tiêu cực, để được khảo sát, đánh giá. Sau hết, mệnh lệnh cuối cùng được phát đi từ Thùy Trán (Frontal) thuộc não bộ phần trái.  Bổn phận của cơ thể, nhất là những quan có liên hệ, lúc bấy giờ là tiếp nhận mệnh lệnh để chấp hành.
    
                                                      ***
    
     Tất cả những cấu trúc rất phức tạp và chuyên môn của não bộ của con người,  được các nhà khoa học nghiên cứu, phát hiện và mô tả, cho phép chúng ta kết luận rằng trí thông minh không được đồng hóa với  công việc phân tích và suy luận mà thôi. Trí thông minh thực sự, cần được phát huy trong mọi đời sống, phải là trí thông minh coi trọng tình cảm. Mọi quyết định "làm người" phải vừa có tình vừa có lý. Mất một trong hai, con người trở nên bán thân bất toại. Không còn là con người toàn diện, quân bình.
     Trong lăng kính ấy, những gì chúng ta tạo nên bằng tưởng tượng cũng có tác dụng ngang bằng những gì chúng ta tạo nên thực sự bằng tay chân...
     Tạo nên những hình ảnh đầy tự tin cũng là một phương thức sáng tạo cuộc đời.
     Dành ra một thời khắc biểu để thấy mình, nhìn mình, nhắc nhỡ mình tự tin cũng quan trọng như một thành tựu thực sự, hiện thực. Hơn ai hết, tác giả M. Maltz (21) đã trình bày những kỹ thuật "tạo hình" như vậy trong tác phẩm của mình, nhằm giúp chúng ta nâng cao và nâng cấp lòng tự tin.
     Tạo hình như vậy là trở lại thời kỳ trong đó chúng ta đầy tự tin, có khả năng sống hạnh phúc, bén nhạy, để học tập mọi điều một cách nhanh chóng.
     Sỡ dĩ như vậy là nhờ có Mẹ thương và chúng ta thương Mẹ.
     Vậy khi nào chúng ta thương và được thương, chúng ta đạt cao điểm của lòng tự tin, để có thể "Biến đời thành phép lạ".
 
    Kỹ thuật hóa giải loại hai là  Bắc nhịp cầu với những lúc tràn đầy  sinh lực hay là gọi quá khứ trở về với những năng động mà chính chúng ta đã thực sự chứng nghiệm.
    
     Để nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của Kỹ thuật "làm sống lại quá khứ", chúng ta bắt đầu bằng cách ghi nhận những nhận xét thông thường sau đây:
 
     Một: Dù thiếu tự tin đến độ nào chăng nữa, trong suốt cuộc sống từ lúc sinh ra làm người đến hôm nay, chúng ta đã có cơ hội kinh qua một vài kinh nghiệm hạnh phúc, sung mãn, đầy lòng tự tin.
     Theo tâm lý học, nếu có cơ năng đánh thức và nhớ lại một vài kinh nghiệm như vậy, với những yếu tố hình ảnh, âm thanh và xúc cảm, chúng ta sẽ có khả năng gọi lòng tự tin trở về trong giây phút hiện tại, qua con đường tưởng tượng, hình dung...
     Trong thực tế bao nhiêu người đang khổ đau, trầm cảm tê liệt, chỉ vì một lời nói đã làm sống lại vết thương trầm trọng thuộc quá khứ! Hằng ngày, rất nhiều người "mất ăn mất ngủ" chỉ vì một hoài niệm thương đau, đang trở về, khi một hình ảnh rất nhỏ nhặt, không đâu...như một mái tóc thề, một nụ cười má núm đồng tiền, làm sống lạ quan hệ tình cảm. Cơ hồ khi rút một sợi giây leo, tôi có khả năng làm náo động cả một khu rừng hoài niệm...
 
     Hai: Nhiều bà mẹ đã rất đảm đang một cách tự nhiên trong công việc nuôi con. Bổng nhiên một đứa con khuyết tật ra đời. Nó thổi bùng lên những cơn bão tố kinh hoàng trong cuộc đời của bà mẹ. Nó xé toang ra một vết thương rất nhỏ nhặt...Với cảm trạng "bất hạnh" ấy, những gì trước đây bà đã làm đuợc một cách thông minh và hồn nhiên, bây giờ bà không còn biết phải bắt đầu từ đâu... thậm chí dỗ dành con, líu lo, vui chơi, trao đổi với con., sung sướng ngắm nhìn con. Há miệng ra khi đút cơm cho con, để nó cũng bắt chước há miệng...
 
     Ba: Thể theo những khám phá mới nhất của Tâm lý học, một biến cố, một kinh nghiệm đã xảy ra đâu đó trong quá khứ. Kinh ngiệm ấy vẫn còn tồn tại dưới ba hình thức: hình ảnh, âm thanh và xúc cảm. Tôi chỉ cần có khả năng tiếp cận một yếu tố trong ba loại yếu tố ấy, tôi sẽ có thể làm sống lại toàn bộ kinh nghiệm. Y khoa ngày nay chỉ cần có một tế bào để chế tạo lại toàn diện con người. Công an chỉ lượm được một sợi tóc, là có thể tìm ra ai là thủ phạm.
 
     Bốn: Kỹ thuật "bắc nhịp cầu" với một kinh nghiệm tràn đầy sinh lực để hóa giải một khó khăn trong hiện tại, đặt nền tảng trên nhận xét số ba trên đây.
     Chúng ta cũng có thể tiếp cận một biến cố hồ hỡi, hạnh phúc, hân hoan đã có mặt trong cuộc đời, để nuôi dưỡng lòng tự tin của mình, trước khi lên đường đối đầu với một trở ngại.
 
     Năm: Trước đây, nhân cơ hội nói đến kỹ thuật khóa neo và mở neo, chúng ta cũng sử dụng một phương pháp tương tự, trang bị mình để sẵn sàng đối diện với bất kỳ một hoàn cảnh nào trong tương lai. Chúng ta chuẩn bị một kho tàng và chúng ta có sẵn một chìa khóa để mở kho tàng ấy bất cứ lúc nào, khi cần đến.
     Hẵn thực trong hiện tại, mỗi lần tràn đầy sinh lực  và lòng tự tin lên cao, chúng ta cột chặt hoặc liên kết kinh nghiệm năng động ấy với một cây neo. Cây neo có thể là một cau hát hay la một hình ảnh.
    
     Thế rồi trong một hoàn cảnh nào đó, khi chúng ta nhận thấy bầu trời của tâm hồn đang có những đám mây đen báo hiệu một cơn bão tố sắp bùng nổ, chúng ta thở vào một buồng phổi đầy khí mát và xướng lên câu hát để nhắc nhỡ mình:
    
     Các bà mẹ già Việt Nam không cần học tâm lý, đã sử dụng kỹ thuật nầy. Hẳn thực,  để nhắc mình nhớ một chuyện gì, các bà có thói quen dùng khăn quàng thắt lại thành một chiếc nút tròn. Đi đâu, các bà đem nó theo bên mình như một chiếc bùa hộ mạng. Nhờ đó, các bà nhớ mồn một mình phải làm những gì. Có bà khác, mỗi lần đi buôn bán hoặc du hành xa, phải mang theo nhiều hành lý. Trước khi đi, bà đếm số và nhắc đi nhắc lại một cách lớn tiếng và cố ý. Rồi những khi lên xe hoặc xuống thuyền, bà nhắc lại to tiếng con số hộ mạng. Nhờ đó bà không bao giờ quên, sót một gói hành lý nào.
     Con số hoặc nút khăn là những "cây neo" của các bà mẹ Việt Nam.
    
     
                                                      ***
   
    Kỹ thuật hóa giải loại ba : Chủ động thay vì bị động
    
     « Mặc ai nói ngã nói nghiêng,
     « Tôi đây đứng vững như kiềng ba chân!*
 
     Câu ca dao nầy lột trần ý nghĩa của kỹ thuật hóa giải loại ba.
 
     Hôm ấy, theo bài thơ dụ ngôn của La Fontaine, hai cha con người nông dân đem lừa lên tỉnh bán lấy tiền.
     Trên đoạn đường thứ nhất, người cha dắt lừa đi trước, đứa con đi sau. Người khách đi đường dị nghị:
-            "Người đâu mà dại khờ! Của bọc thân. Ai đời: thân bọc của!".
 
     Trên đoạn đường thứ hai, sau khi nghe lời bình phẩm, người cha bảo con lên ngồi trên lưng lừa. Một khách bộ hành khác mở lời nhận xét:
-            "Ở đời phải biết tôn ti đẳng cấp một chút, mới biết sống!"
 
     Trên đoạn đường thứ ba, người cha bảo con ra trước dắt lừa. Còn ông, lần nầy ông cỡi lên lưng lừa.
     Lại có người cất tiếng phát biểu:
-            "Nầy ông nhà quê kia, hành hạ con như thế, lúc về già ai sẽ nuôi ông?"
 
     Trên đoạn đường thứ tư, cả hai cha con đều ngồi trên lưng lừa. Con lừa quằn lưng chịu đựng, nhưng vẫn bước tới.
     Thêm một lời bình phẩm nổi lên, trong đám người đi ngược chiều:
     - "Đầu óc ở đâu mà không biết tính toán. Lên đến tỉnh, con lừa có khá lắm là còn sống với da bọc xương. Cho cũng chẳng ai thèm. Đừng nói chuyện mua bán!".
     Lần nầy hai cha con nhìn nhau và cùng nhau quyết định: hãy bỏ ra ngoài tai những dư luận xầm xì của kẻ khác.
     
                                                      ***
    
     Thực ra để sống cuộc đời làm người, nghe tất cả mọi dư luận, sẽ tạo cho mình nhiều khó khăn. Trái lại, không nghe, bịt tai, chúng ta sẽ đánh mất nhiều cơ hội để học hỏi.
     Vậy con người tự tin phải hành động như thế nào?
     Để trả lời một cách đứng đắn cho câu hỏi nầy, chúng ta nên trở lại vấn đề Thuyên Giải mà tôi đã khảo sát, với nhiều yếu tố bổ túc lẫn nhau trong chương Một :
 
     Một: Ý kiến của người khác không gói ghém toàn diện chân lý. Cũng không hoàn toàn sai trái một trăm phằn trăm (22).
 
     Hai: Chúng ta không thể nghe theo hay là phủ nhận toàn bộ những ý kiến của kẻ khác. Trong những nhận xét của họ, dù thế nào chăng nữa, cũng có ít nhất một vài mầm móng hay là chủng tử của sự thật.
 
     Ba: Tự vệ, biện minh, khuớc từ hay là thay đổi hoàn toàn lập trường và lối nhìn một cách vội vã...đều là những phản ứng tình cảm, phát xuất từ tâm trạng thiếu tự tin và bất ổn.
 
     Bốn: Thay vì phản ứng, con người tự tin luôn luôn cố gắng chủ động, sáng tạo, nghĩa là quyết định hành động với tư cách là một chủ thể. Đó là ý nghĩa chủ yếu của kỹ thuật hóa giải lời chỉ trích, phê bình, hạ bệ do kẻ khác mang đến từ ngoài...
    
                                                      ***
     
     
    Nội dung của kỹ thuật với nhiều giai đoạn
    
     Sau khi một người đưa ra lời phê bình, chỉ trích, tố cáo...điều chúng ta cần thực hiện gồm có (23) :
     Bước một: Lắng nghe, tìm hiểu, ghi nhận ý kiến của kẻ khác:
-            "mầy là thằng cha vô ơn".
 
     Bước hai: Phản ảnh hay là làm tiếng vọng khách quan.
     - "Nếu tôi không nghe lầm, chính ông bà đã nói: tôi vô ơn".
     Nếu họ từ chối, để cho họ nói lại.
     Nếu họ đồng ý với tiếng vọng, chúng ta mới tiếp tục.
 
     Bước ba: Tìm hiểu ý nghĩa của lời nói:
     "Thế thì xin ông bà giải thích thêm: Vô ơn nghĩa là gì? Trong hoàn cảnh nào? Tôi đã nói, làm gì cụ thể?"
     Trong giai đoạn nầy, chúng ta không cướp lời, bao lâu họ còn nói.
     Nếu họ dừng lại, chúng ta chỉ phản ảnh: bằng cách nầy hay cách khác, dưới nhiều hình thức khác nhau, chúng ta nói lại cho họ nghe ý kiến của họ.
     Trong đa số trường hợp, giai đoạn nầy kéo dài cho đến khi người phát biểu được thõa mãn, vì được lắng nghe. Và chính họ sẽ dần dần thay đổi ý kiến. Nhiều lúc họ có lời lẽ tố cáo. Nhưng thực ra, họ đau khổ, bất an. Họ có nhiều vấn đề. Chúng ta chỉ là cơ hội, giúp cho họ ý thức về mình.
     Chấp nhận "làm bia đỡ đạn" như vậy là một quà tặng có khả năng trị liệu, hàn gắn vết thương. Can đảm làm như vậy có nghĩa là : "Ngày ngày cưu mang Đất Trời cao cả!"
 
     Bước bốn: Sau khi hiểu rõ ý kiến kẻ khác, với những tương đương cụ thể về lời nói và việc làm, chúng ta đi qua giai đoạn hướng lai:
     "Bây giờ tôi hiểu: Ông bà gọi tôi là vô ơn, vì tôi đã không đến thăm ông bà được. Hôm ấy vợ tôi vào bệnh viện.
     Vậy ông bà cho phép tôi lại thăm vào ngày nào, trong tuần tới?
     Trong giai đoạn hướng lai chúng ta đề nghị, giải thích gọn ghẽ hay là yêu cầu kẻ khác cho biết ý kiến.
     
                                                      ***
    
     Theo ý nghĩa của Kỹ thuật nầy, khi lắng nghe lời chỉ trích và vọng lại cách khách quan, chúng ta đã giải quyết một phần lớn của vấn đề.
     Trong đa số trường hợp, sỡ dĩ họ chỉ trích, tố cáo, vì họ lo sợ, bất ổn, có vấn đề. Họ cần chúng ta lắng nghe, để giải tỏa cho họ. Họ tố cáo, vì họ cần có quan hệ với chúng ta. Nhưng họ làm điều ấy một cách vụng về, tiêu cực...
     Tất cả vấn đề còn lại là chúng ta có đơn phương tự nguyện làm người « vô điều kiện" không?
     « Từng bước đi đường Quê Hương diệu vợi,
     « Quyết ấn mạnh dấu chân con người mới! ».
     
                                                      ***
    
     Hồi năm 1974, tôi ở nhà trọ, tầng một, khu Ông Tạ.
     Đi dạy học về, tôi thường gặp hai đứa con gái lên 4 và lên 6 của ông bà chủ nhà, chơi đùa gần chỗ tôi dựng xe Honda.
     Lần nào tôi cũng dừng lại đôi ba phút để âu yếm ngắm nhìn các em chơi.
     Sau một tháng trời, đứa bé gái lên bốn tỏ ra có thiện cảm đặc biệt đối với tôi. Cha mẹ của bé rất vui tươi, cho phép con chạy ra đón chào và đứng nhìn tôi, mỗi lần tôi về nhà.
     Một hôm bé muốn chuyện trò, trao đổi, tạo quan hệ. Bé hớn hở chạy ra và la lớn:
     "Ông Xành ăn cứt gà!"
     Bà mẹ hoảng hốt chạy ra đưa tay bụm miệng con lại và xin lỗi. Tôi mĩm cười,  nói đôi lời giải thích cho bà mẹ: "Bé quí tôi lắm mới cố gắng nói được một câu dài 5 tiếng như vậy".
     Hẵn thực, bé có gì, bé cho điều ấy. Đó là "cây nhà lá vườn" của bé!
     Sau 30 năm, tôi vẫn còn sung sướng mĩm cười, khi nghe lại câu nói ấy bên tai và hình dung lại khuôn mặt rạng rỡ của em bé đang còn nhìn và mỉm cười với tôi.
     Vậy tôi đâu có "buồn lòng", khi "bị cho ăn cứt gà" như vậy! Bởi vì lúc ấy, tôi đầy tràn lòng tự tin và tình yêu thương trong nội tâm.
   
   
    *****************************
 
   
Chương bốn
 
Hướng về Tương-lai
 
    
     Một nền giáo dục hà khắc  dùng roi vọt và lời chửi mắng, hay là một học đường với đường hướng duy lý quá khích,  chỉ thai sinh những thế hệ bạc nhược,  luồn cúi, bịa đặt , mua bằng cấp hay là những người trẻ phản loạn, đạp phá, hút xách, nghiện ngập, bỏ nhà đi lang thang, lập băng đảng cướp giật...
     Ngàn năm thứ hai sắp kết thúc để lại một gia tài với bao nhiêu vấn đề liên hệ chặt chẽ đến những con người thiếu tự tin. Không lớn lên với một hành trang giàu lòng tự tin, một số thành phần trẻ đang bơ vơ, lạc lõng. Không mục đích, không lý tưởng. Không có ý nghĩa. Không có nơi nương tựa trong cuộc đời. Chỉ còn lại một phương cách khẳng định  là phá phách, bạo động, đốt cháy xe cộ và bôi bẩn những thành quách, vách tường...
    
     Gốc rễ sâu xa
 
     Gốc rễ của tác phong diễn tả những cảm trạng chao đảo, thiếu tự tin trong nhiều thành phần giới trẻ hiện nay,  đã có mặt trong năm sáu năm đầu tiên, kể từ khi họ sinh ra, chào đời. Mùa màng tang thương mà họ đang gặt hái trong cuộc đời đã được gieo vãi, do những người làm cha, làm mẹ thiếu an lạc.
     Sống thường xuyên trong xung đột, chạy đua theo những đòi hỏi tiện nghi của xã hội, các bậc cha mẹ đã đánh mất bản thân mình. Và hệ quả là con cái đã trở thành nạn nhân của các bậc cha mẹ. Một cách đặc biệt, tôi muốn nói đến những câu nói, những lời phát biểu, những mệnh lệnh bề ngoài xem ra có vẽ vô thưởng vô phạt, tự nhiên và thường tình. Nhưng theo ý kiến của các nhà tâm lý, những sứ điệp phá hoại, chỉ trích, phê phán được gieo vào lòng của trẻ em, nhất là khi chúng nó chưa có khả năng ngôn ngữ, để hóa giải, chuyển biến và diễn tả ra ngoài...
     Đó là những hạt mầm, những chủng tử đã trở thành xương da, máu thịt, hơi thở của chúng nó. Chính những hạt mầm ấy ngày nay lớn lên, đâm chồi nẩy lộc một cách man rợ và giết chết lòng tự tin.
 
     Cha mẹ độc tài, bao che
 
     Nói tóm lại, thay vì làm cha mẹ có khả năng soi sáng, nâng đỡ hướng dẫn, còn được gọi theo lối nói của E. Berne, là Cha mẹ Từ tâm  và Kỹ cương, chúng ta đã làm Cha mẹ Độc tài, bao che (24). Cho nên con cái đã dần dần trở nên những trẻ em lệ thuộc, bị động hay là phản loạn, đập phá, bạo hành và phạm pháp...
     
                                                      ***
   
   
    Những "Cấp" phát triển
    
     Nhằm giúp người làm cha mẹ ý thức về vai trò của mình, tác giả P. Levin đã trình bày những cấp phát triển của một con người từ lúc mới sinh ra đến ngày thành người, chung quanh 20 tuổi (25).
     Ở mỗi cấp phát triển, trẻ em hay là người thanh thiếu niên có một nhu cầu, một khát vọng đặc biệt. Nếu nhu cầu ấy được vun tưới, chăm sóc, trẻ em sẽ lớn khôn, tràn đầy sinh lực cũng như lòng tự tin. Nhờ đó chúng nó có thể hiên ngang và vững chãi đi tới. Ngược lại, như một cây không được vun bón, tưới tẩm, trẻ em sẽ hao hụt, mòn mõi, phôi pha về mặt tâm linh, nhất là trong địa hạt tự tin, ý thức về ý nghĩa và giá trị làm người.
     Những từ tôi sử dụng như "vun tưới, chăm bón", chỉ là hình tượng diễn tả quan hệ qua lại, hai chiều giữa cha mẹ và con cái. Quan hệ có thể đi theo hệ hàng dọc, khi cha mẹ soi sáng, nâng đỡ, giải thích, trình bày, động viên. Quan hệ cũng có thể đi theo chiều hàng ngang, khi cha mẹ đồng hành, chia sẽ lắng nghe, phản ảnh.
     Quan hệ đi đôi với tác phong và ngôn ngữ. Khi cha mẹ phát biểu, hãy tìm cách ăn nói làm sao, để con cái có thể nhận lãnh ba loại sinh tố làm người, bắt đầu bằng chữ P trong tiếng Pháp:
 
     P. 1 là Puissance có nghĩa là khả lực, năng động
     - "Tôi có thể làm, tôi có khả năng...",
     - "Tôi biết cách làm..."
 
     P. 2 là Protection có nghĩa là nâng đỡ. Khi cảm thấy mình được bao bọc, trẻ em không lo sợ, hiên ngang, mạo hiểm và can trường bước tới.
     - "Tôi có động lực từ bên trong thúc đẩy tôi...
     - "Tôi có đầy đủ ánh sáng để bước tới"
     - "Tôi có sức mạnh, nghị lực".
 
     P. 3 là Permission, cho phép.
     - "Tôi có phép..."
     - "Tôi được quyền..."
     - "Tôi biết rõ cái gì phải, cái gì trái"
     - "Nguyên tắc hành động có mặt trong nội tâm".
 
     Ba yếu tố cơ bản ấy tạo nên lòng tự tin.
     Đó là kiềng ba chân trong câu ca dao:
     « Mặc ai nói ngã nói nghiêng
     « Tôi đây đứng vững như kiềng ba chân!".
 
     Trái lại ba triệu chứng sau đây diễn tả những quan hệ có vấn đề trầm trọng, trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái:
     - Một: Cha mẹ bao thầu tất cả,
     - Hai: Cha mẹ bắt bớ, xua đuổi, đánh đập,
     - Ba: Cha mẹ phàn nàn rên rĩ, trách móc, chửi, rủa.
     Ba yếu tố ấy tạo nên một tam giác xung đột, xói mòn lòng tự tin.
 
     Khi cha mẹ phát biểu trong chiều hướng "Kiềng ba chân", đó là những sứ điệp xây dựng lòng tự tin.
     Trái lại, khi cha mẹ vòng vo, luẫn quẫn trong tam giác bi kịch, khủng hoảng xung đột, cha mẹ chỉ tuôn trào, nói ra những sứ điệp làm ô nhiễm lòng tự tin của con cái.
 
     Sau đây là những cấp được khảo sát, ở hai bình diện nhu cầu và sứ điệp xây dựng.
 
     Cấp 1- Nhu cầu "có mặt trong cuộc đời"
     Nhu cầu nầy được diễn tả từ 0 đến sáu tháng. Những con số về ngày tháng chỉ có giá trị tương đối.
     Khi đứa con sinh ra dù ngôn ngữ chưa xuất hiện, toàn thể con người nó đã diễn tả thể thức khẳng định và yêu cầu của nó đối với môi trường:
     - Tôi muốn sống!
     - Hãy yêu thương đùm bọc tôi!
     - Hãy coi tôi là người quan trọng trong cuộc đời của quí vị.
     - Hãy nhìn ngắm tôi.
     - Hãy trao cho tôi hơi ấm của làn da thịt.
     - Hãy vuốt ve, bồng ẵm, thoa bóp tôi.
     - Cho tôi ăn, cho tôi bú.
     - Hãy lại gần khi tôi khóc.
     Và chúng ta, người lớn trong gia đình có thể đáp trả thế nào?
     - Con là hạnh phúc của đời Mẹ.
     - Mẹ hiểu con cần gì.
     - Mẹ đây sống cho con.
     - Trai hay gái, con cũng là con người.
     - Con mang đến cho mẹ niềm vui!
     - Mẹ vui thích, sung sướng ôm ẵm con vào lòng.
     - Mẹ "xi" cho con đi đại và tiểu tiện. Nhưng mẹ không thúc hối con. Con thư thả theo tốc  độ của con.
     Người lớn cần tránh tối đa những sứ điệp lệch lạc:
     - Lớn nhanh đi để nuôi mẹ!
     - Con cứ mãi mãi làm con búp bê của mẹ.
 
 
     Cấp 2- Nhu cầu múa máy lay động, đụng chạm, di chuyển, nghe ngóng
     Thời gian: từ 6 đến 18 tháng.
     Nhu cầu trẻ em:
     - Bồng con đi chơi đó đây.
     - Cho con nhìn cái nầy cái khác, những đồ vật di động càng tốt.
     - Cho con nghe bất kể âm thanh nào.
     - Con cần tiếp xúc, đụng cạm phân biệt nóng lạnh...
     Sứ điệp:
     - Con nhìn phía nào tùy con.
     - Nhìn mẹ cũng được- Ngoảnh qua nơi khác cũng không sao!
     - Cúc cù, mẹ đây. Nghe mẹ gọi cúc cù. Nhìn mẹ đi!
 
  
     Cấp 3- Nhu cầu suy nghĩ
     Thời gian: 18 tháng đến 3 tuổi
     - Con cần biết con khác cha mẹ thế nào!
     - Con học nói "không",
     - Con muốn học cho biết con làm được gì?
     - Sao cha mẹ nhìn đâu vậy? Hãy nhìn con. Con chơi với lửa đây nầy. Sao không nói rõ cho con  biết con có được phép không? Nguy hiểm thế nào?
     - Con ra đường, con chạy thoát khỏi tay cha mẹ, để xem cha mẹ có thương con, lo cho con, chạy theo không...
     Sứ điệp:
     - Cha mẹ sung sướng thấy con ngày càng lớn khôn.
     - Con có quyền bực bội, tức giận. Nhưng tuyệt đối cấm không được đánh em, đánh mẹ...
     - Con nói ra cho mẹ biết con muốn gì? bực bội về chuyện gì?
     - Con cần gì? Hãy tập nói ra ý kiến của mình!
     - Con muốn cái khác. Con có phép chọn lựa.
     - Con có phép...
     - Con có sức...
     - Con biết...
     - Mẹ thấy con làm không được. Con cần mẹ giúp con không?
     - Nếu con muốn qua chơi bên cạnh, con tới xin phép Ba con.
     - Con có thể vào bếp tìm cho mẹ cái muỗng...
 
 
     Cấp 4- Nhu cầu khẳng quyết và xác định mình
     Thời gian: từ 4 đến 6 tuổi.
     Nhu cầu:
     -Xác định tôi là ai ?
     -Trắc nghiệm, kiểm chứng "Tôi với ý kiến ấy có được chấp nhận không".
     -Tôi có khả năng gì?
     Sứ điệp nâng đõ, cũng cố:
     - Con có quyền nói ra ý kiến chấp thuận hay là không!
     - Con không cần giả bộ...Con chỉ cần nói rõ con muốn gì và cha mẹ sẽ cho biết ý kiến,
     - Trong trường hợp ăn mặc, con đã biết chọn lựa. Vậy con mặc gì, khi đi về thăm ngoại ?
     - Ba đồng ý cho con quyết định tùy con.
     - Con thử tưởng tượng em con cảm thế nào khi con đánh em!
     - Con làm như vậy, cái gì sẽ xảy ra, hậu quả thế nào?
 
 
     Cấp 5- Nhu cầu thành đạt, thu lượm kết quả khả quan, cụ thể
     Nhu cầu:
     - Biết làm theo cách riêng của mình,
     - Biết rõ nguyên tắc hành động.
     - Biết rõ phương pháp và các giai đoạn đi lên...
     Thời gian: từ 6 đến 12 tuổi
     Sứ điệp soi sáng, nâng đỡ :
     - Trước khi làm, con cần suy nghĩ...
     - Trong trường hợp nầy, con cảm thấy phải chọn gì?
     - Con hiểu làm sao, thì cố làm như điều con hiểu.
     - Con có quyền không đồng ý, nếu con đã cân nhắc...
     - Vì con đã quyết định như vậy, cho nên bây giờ hậu quả là...
     - Con thử tìm cho ra 3 cách khác nhau... Bây giờ theo con, cách nào hợp ý con?
 
 
     Cấp 6- Nhu cầu có tiếng nói, có lập trường, có quan điểm
     Thời gian: từ 13 - 18 tuổi
     Nhu cầu:
     - Có tiếng nói riêng biệt,
     - Có vị trí,
     - Có lập trường.
     Sứ điệp: Con có thể có những nhu cầu riêng biệt.
     - Con có trách nhiệm về tình cảm và hành động...
     - Con có quyền tự lập, nhưng con luôn luôn là con được yêu thương và tôn trọng trong tâm hồn và cuộc đời của cha mẹ.
     - Con có tôn trọng người khác , qui luật...hay không?
 
 
     Cấp 7- Nhu cầu tự lập, tự túc
     Thời gian: từ 19, 20 tuổi trở lên
     Nhu cầu :
     * Biết từ chối, nói không.
     * Vẫy cánh bay xa để nhìn, để nghe, để cảm với những hạng người khác nhau trên mặt địa cầu.
     * Tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời, thậm chí trong những hoàn cảnh ngõ cụt và bế tắc.
     * Nhu cầu đổi mới, sáng tạo thường xuyên.
     * Nhận để cho, cho để nhận, cũng như học và dạy quyện vào nhau.
     * Nhu cầu được cũng cố.
     * Nhu cầu được rút tỉa những bài học từ thất bại, sai lầm.
     * Nhu cầu đảm nhiệm một vai trò để phục vụ.
     Sứ điệp :
     * Bạn được lắng nghe và tôn trọng.
     * Bạn hãy cho biết ý kiến?
     * Bạn muốn làm gì?
     * Bạn có thể làm gì?
     * Bạn giải quyết, thay đổi thế nào?
     * Bạn thấy tôi thế nào?
 
     
    Mẫu đối thoại giữa Đức Bụt và Đại đức Punna (26)
    
     Để có một ý niệm khá rõ rệt về sứ điệp của một người trưởng thành đối với một người trưởng thành khác, tôi xin trích dẫn ra đây những lời trao đổi giữa Đức Bụt và thầy Punna (thường được gọi là Phú Lâu Na trong tiếng Việt) :
 
     Hôm ấy, sau mùa an cư, Đại đức Punna có ý trở về quê hương mình để hành đạo.
     Bụt hỏi:
     - Dân cư vùng đó còn rất hung dữ. Bao động thường xảy ra. Về đó có tiện không?
     - Bạch Thế Tôn, Đại đức Punna trả lời, chính vì họ còn hung ác nên con muốn về đó, để khai hóa lòng người.
     - Nếu họ đến chửi mắng thầy?
     - Dạ cũng chưa can chi! Ném đồ dơ bẩn lên đầu còn khó chịu hơn!
     - Nếu họ đến ném đồ dơ bẩn lên đầu Thầy?
     - Dạ cũng chưa hề gì, nếu họ chưa hành hung con.
     - Một ngày nào đó, họ đến hành hung, thì sao?
     - Nếu họ chưa giết, thì con còn chịu được!
     - Họ giết thì sao?
     - Lúc gần tắt thở, con cám ơn họ đã cho phép con chết một cách hiên ngang, chính lúc con "làm người".
 
     Bụt kết thúc:
     - Thực ra tôi tin vào Thầy, từ ngày chúng ta gặp nhau. Nhưng sỡ dĩ tôi hỏi thầy cách cặn kẽ như vậy, để Thầy cũng cố cho những Thầy khác thuộc đàn em của Thầy và các cháu chắt sau nầy...để họ cũng "làm người".
     Thật tuyệt diệu, khi cõi lòng mình là Đại Dương chấp nhận mọi dòng sông chảy về từ muôn nẽo. Xin cám ơn Thầy, hỡi Đại dức Punna! Thầy bất diệt!
     
                                                      ***
    
     Trong tư tưởng Đông-phương, chưa có một tác giả nói đến những cấp phát triển với đầy đủ chi tiết cụ thể như trên đây, nhất là từ 15 tuổi trở xuống cho đến ngày sanh ra khỏi lòng Mẹ.
     Tuy nhiên trong vấn đề học đạo, và thấm nhuần đạo làm người, chúng ta có thể ghi nhận những điểm mốc như sau (27) :
 
     - Mười lăm tuổi:
     "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học": Chuyên chăm vào việc học.
     - Ba mươi tuổi
     "Tam thập nhị lập": Tự lập vững vàng.
     - Bốn mươi tuổi:
     "Tứ thập nhi bất hoặc": Không lầm lẫn.
     - Năm mươi tuổi:
     "Ngũ thập nhi tri thiên mệnh": Hiểu biết ý của Trời.
     - Sáu muơi tuổi:
     "Lục thập nhi nhĩ thuận": Lắng nghe thực sự.
     - Bảy mươi tuổi :
     "Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du cũ": Đi theo con đường  của Tình Thương :
 
Bài thơ sau đây diễn tả khả năng « Tùng Tâm »  ấy :
    
     « Hãy lắng nghe Thinh Lặng và Mênh Mông,
     « Như người mẹ hân hoan mở rộng lòng,
     « Sẵn sàng cho suốt cuộc đời hiện diện
     « Sồng vì con trọn Lời Kinh Dâng Hiến.
 
     « Hãy lắng nghe Bao La và Vô Tận
     « Suốt ngày đêm giăng hai tay đón nhận,
     « Những khuôn mặt quen thân và xa lạ,
     « Nối kết lại thành Chân Trời Cao Cả » (28).
  
  
  
  
  
********************
  
     
  
 
Kết luận 
 
 Con đường nào?
 
    
     Trước ngưỡng của Thời đại Ngìn Năm Thứ Ba, ở Âu châu và Mỹ châu,  nhất là ở Hoa Kỳ, những ai theo dõi các trào lưu tư tưởng mới, đang xôn xao nhiều về các ý kiến « động trời » của  F. FUKUYAMA (29). Tác giả nầy là người Mỹ gốc Nhật, thuộc thế hệ thứ hai của một lớp người qua định cư ở Hoa Kỳ, từ đầu thế kỷ 20.
    
                                                      ***
    
     Thể theo lối nhìn của F. FUKUYAMA, những ngày cuối cùng của Thế kỷ 20 đang báo hiệu « ngày tàn » của Nhân Loại, với bao nhiêu vấn đề sôi bỏng: thất nghiệp, bệnh sida, đồng tiền mất giá, bạo động trong các đô thị khổng lồ...Hơn bao giờ hết, toàn địa cầu đang bị giao động, bàng hoàng trăn trở về ngày mai. Nhìn trở lại thế kỷ đang « hoàng hôn », tác giả đã ghi nhận ba biến cố làm đảo lộn lịch sử, gây chấn động về lâu về dài trên chính bản sắc và căn cước của con người, trên mọi lục địa từ Đông sang Tây.
 
     Biến cố thứ nhất là viên thuốc ngừa thai đã ra đời vào những năm 1960. Các nhà chính trị đã hy vọng rắng : nạn nhân mãn sẽ từ đây được giải quyết một cách êm đẹp. Người phụ nữ sẽ thực sự được giải phóng.
Không ngờ, với viên thuốc nầy, những "Rạn Nứt" đã bắt đầu xảy ra và trở nên càng ngày càng trầm trọng trong địa hạt gia đình và học đường. Giới trẻ từ 15, 18 đến 30 đang lạc lõng bơ vơ, vì càng ngày càng trơ nên tự do quá đáng, « phóng túng » một cách bừa bãi. Bạo động đã tràn xuống đường, nhất là trong các đô thị...Phải chăng đó là cái "ung nhọt lở lói », do viên thuốc ngừa thai đang cưu mang và phát triển, trong xã hội ngày hôm nay ?
 
     Biến cố thứ hai là bức tường ô nhục ở Berlin đã bị sụp đổ vào năm 1989. Biến cố nầy cũng đã được đón chào như một ngày giải thoát của Nhân Loại, khỏi những gông cùm của một ý thức hệ chính trị vô tưởng. Nhưng rồi, chiến tranh vẫn tiếp tục có mặt , khi không còn tình trạng hai đối thủ đe dọa, thách thức nhau, bằng mạng lưới phòng vệ chống nguyên tử. Hơn bao giờ, chiến tranh nguyên tử vẫn còn có thể xảy ra một cách dễ dàng, khi có nhiều vị lãnh tụ « trẻ con » muốn chơi với lửa, không chấp nhận mình là « nhược tiểu », ăn chưa no, lo chưa tới, theo nghĩa đen của từ ngữ.
     Hẵn thực, không còn những trại tập trung chính trị kiểu « Goulag », nhằm đày ải những tù nhân khác lập trường và khác chính kiến. Nhưng trong thế giới tư bản cực đoan, con người vẫn còn đàn áp con người một cách rất tinh vi, văn minh và khoa học. Nạn mãi dâm trẻ con bành trướng khắp mọi nơi, với nhu cầu du lịch đang càng ngày càng đi lên! Người phụ nữ, nhờ viên thuốc ngừa thai, có khả năng thi thố tài năng ngang bằng người đàn ông trong mọi ngành nghề và địa hạt.
     Tuy nhiên, khi lăn xã vào một xã hội quá duy lý, người phụ nữ còn là mình với bản chất cho và nuôi dưỡng mầm sống hay là đã từ từ đánh mất bản sắc của mình? Ý thức hệ chính trị đã sụp đỗ. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, con người vẫn còn có xu thế "đồng phục và đồng dạng hóa con người". Lý luận làm nền tảng cho những đòi hỏi đồng dạng ấy là: "Tôi không chịu thua. Tôi muốn  hoàn toàn giống các ông nam nhi".
Tuy nhiên, phải chăng "khác" có nghĩa là « thua »? Và khi chấp nhận mình "thua",  có gì là xấu xa, phản con người và phản tiến bộ?
Thêm vào đó, vị trí "hơn" sẽ mang lại chất lượng làm người nào cho tôi?
 
     Biến cố thứ ba là con người có thể chế tạo con người trong ống nghiệm. Một mai rất gần kề, con người có khả năng tác động trên "mầm sinh" trên "gên". Con người lúc bấy giờ còn "làm người" nữa không hay là chơi trò "làm Thượng Đế" ?
     Pascal đã nói: ai chơi trò làm thiên thần, người ấy sẽ biến thân  thành ngạ quỉ. Một mai với khả lực "tạo mầm sinh hay tạo gên", nếu con người muốn chơi trò "hơn thua" với Thượng Đế, con người sẽ biến thân thành cái gì?
    
                                                      ***
    
     F. Fukuyama rất bi quan, ít nhất trong lời lẽ, ngôn từ có vẽ thách đố của ông. Đối với ông, "ngày tàn của nhân loại" đã bắt đầu.
     Lý luận của ông được tóm lược như sau:
     - Ngày tàn của người phụ nữ đã bắt đầu từ năm 1960, khi họ không còn muốn chấp nhận làm người, với những hạn chế cũng như với những đặc quyền riêng tư và độc đáo.
     - Ngày tàn của lịch sử đã bắt đầu từ năm 1989, khi lịch sử không còn là một cuộc đấu tranh liên lĩ. Hẳn thực, đấu tranh đã gieo vãi chết chóc và hoang tàn ở khắp mọi nơi. Nhưng đấu tranh cũng là lò luyện kim sản xuất những bài học cho con người. Bây giờ không còn đấu tranh giữa hai khối, chúng ta sẽ lấy gì viết Lịch Sử!
     - Cuối thế kỷ 20, ngày tàn của Nhân loại đã điểm, khi con người không muốn làm người. Khi con người đánh mất bản chất hoặc căn cước của mình. Họ sẽ lạm dụng khả năng chế tạo và thay đổi mầm sống để chơi trò " làm Thượng Đế toàn năng". Với cách điều trị thay đổi gên, Y khoa sẽ cho phép con người trở thành "đại thọ", "siêu nhân" hay là "thần đồng". Nhưng mấy người có những phương tiện ấy ? Và đoàn lũ đông đúc phải chăng sẽ trở thành một "bầy trâu bò, chó ngựa", không còn có giá trị làm người?
     Theo quan điểm của tôi, luận cứ của Fukuyama đã bị lệch lạc, khi ông không phân biệt số chung và số riêng. Ông đã quá "vơ đũa cả nắm".
       
     Người phụ nữ là ai?
    
     Đâu phải là mọi người phụ nữ đều dùng thuốc ngừa thai. Thậm chí vì lý do nào đó, khi họ dùng thuốc ấy, họ dâu phải luôn luôn muốn đấu tranh đòi tự do và bình đẳng. Còn rất nhiều người phụ nữ tự tin, hãnh diện về căn cước làm phụ nữ của mình. Và nếu còn một người phụ nữ như vậy, thì ngày tàn sẽ không bao giờ đến cho giới phụ nữ.
     Con cháu bà ấy sẽ sanh ra, đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển. Người phụ nữ vẫn làm mẹ. Người phụ nữ vẫn sanh con. Bản chất của người phụ nữ vẫn là "cho", không đòi lại, không đợi trả ơn.
     
 
                                                      ***
 
      Đấu tranh là gì?
    
     Sau khi bức tường ô nhục Berlin bị bình địa , khả năng đấu tranh của con người không bị mai một, cùn mòn!
     Tôi vẫn còn phải đấu tranh, bao lâu còn một người chưa có phần cơm ăn hằng ngày!
     Có triệu triệu cách đấu tranh, ngoài cách la ó, chĩa súng và ném bom...
     Thêm vao đó, cuộc sống làm người đâu cần có hai phe thù địch nhau, mới có đấu tranh thực sự và chân chính. Khi nắm tay nhau, trở nên "một", để sát cánh nhau đấu tranh, công cuộc đấu tranh ấy  mới hữu hiệu, cao cả!
     Giặc nghèo, giặc ngu dốt... bao nhiêu mặt trận đang chờ những ai có tinh thần đấu tranh thực sự.
     Khi tranh đấu như vậy, chúng ta mới viết được nhưng trang sử hoàn toàn mới, dành cho con người mới, có liên hệ mật thiết với trời mới, đất mới!
     
 
                                                      ***    
     Nhân loại là ai?
    
     Là Anh, là tôi, là bạn. Là mọi người...
     Trong số đó, có những người muốn chơi trò phù thủy, biến người nầy thành siêu nhân. Biến người kia thành hạ nhân. Biến người nầy thành người yêu nước chân chính. Và biến người kia thành Ngụy, thành Việt gian, theo Tây, theo Mỹ...
     Bên cạnh những người muốn làm phù thủy, còn rất nhiều người muốn làm người. Họ can trường và sáng suốt chấp nhận chết, trở thành tro bụi...để nuôi sống và nhưởng chỗ cho mầm non! Ngọn lá nào thực sự muốn làm lá, chấp nhận rơi rụng vào cuối mùa thu...để cho các chồi non xuất hiện vào mùa xuân, thay thế chỗ của mình!
     Nếu trong lòng nhân loại còn có người không muốn chơi trò hơn thua. Họ chấp nhận thua, bị truất phế khỏi mọi khả năng. Bị còng tay nhốt vào tù...mà vẫn làm người biết tha thứ... Nhân Loại ấy sẽ không có ngày tàn...
     Sau 1975, khi đã bị mất khả năng dạy học, mất khả năng khám nghiệm tâm lý cho những bệnh nhân…tôi cũng như nhiều người đã đi về vùng quê, học trồng rau và làm rẫy... Tuy nhiên, nhờ thất nghiệp đói khổ, tôi đã học được khả năng "nhịn đói", giống như nhân vật Tất Đạt trong tác phẩm « Câu chuyện dòng sông" của văn hào H.Hess » (30) :
 
     - « Tôi có thể suy tư, chờ đợi, nhịn đói.
     (...)
     - « Nhưng những thứ ấy dùng để làm gì? Ví dụ nhịn ăn, để làm gì?
     - « Nó có giá trị lớn lắm, thưa ông. Khi một người không có gì để ăn, nhịn đói là điều khôn ngoan nhất... »
 
     Bao lâu trong lòng nhân loại, còn có người biết nhịn đói, nhịn khát , để có khả năng hiến tặng cho Người anh chị em mình một Tình Yêu... Làm sao nhân loại ấy có thể có ngày tàn?
 
                                                      ***
    
     Hỡi Người Em Việt Nam!
 
     Nếu em tin vào Tình Yêu, Tình Yêu sẽ làm cho em trở thành bất diệt và cao cả.
     Tình Yêu ấy không đến từ trên và từ ngoài. Nhưng Tình Yêu ấy ở ngay trong tấm lòng của Em.
     Tin vào Tình Yêu là tin vào chính mình. Đó là ý nghĩa căn cơ của Lòng Tự Tin (31).
     Bản sắc và căn cước của Em là Tình Yêu. Đó là điểm xuất phát. Và đó cũng là điểm tận cùng mà Em hướng đến mỗi ngày. Cho nên, bao lâu Em còn sống, con đường của Em là Tình Yêu. Chỉ với Tình Yêu « bàn tay Em  mới có thể làm nên tất cả ». Chỉ với Tình Yêu, « sỏi đá mới có thể trở thành cơm! » cho Em và bao nhiêu người khác, đang có mặt với em trong lòng cuộc đời.
   
     

************************************************************************

Bí Chú   
               
1) Senge P. - The 5th Discipline - Century, London 1992.
2) Nguyễn Văn Thành - Phát huy Nhân lực - Tình Người, Lausanne 1998.
3) Ricoeur P - De l 'Interprétation - Seuil, Paris 1965.
4) Gordon. T - Etre Parent, ca s'apprend - Marabout, Belgique 1995.
5) Ricoeur P. - De l'interprétation - Seuil, Paris 1965.
6) Freire P - Pedagogy of the oppressed - CP, N.Y 1994.
7) Kipling - IF - Mille-et-une-nuits, Paris 1998.
8) Goleman D - Emotional Inelligence - Bantam, N.Y  1998 I và II.
9) Cameron-B. L - The Emotional Hostage - FP, CA  1986.
10) Sommer B. - Psycho - cybernetics 2000 - PH, U.S.A  1993 P. 333.
11) Nguyễn Văn Thành - Đối Thoại , quê hương Tình người - TN, Lausanne, 1999 tr. 67.
12) Berne E. - A.T. et psychothérapie - P. BP, Paris 1971.
13) Nguyễn Văn Thành - Phát Huy Nhân Lực  -  TN 1998.
                                    - Đường Vào Nội Tâm - TN 1997.
14) Triết, Tập san Triết học và tư tưởng số 1+ 2  San Jose, CA  95173 - 0363 tháng 6.1996 và 9.1997.
15) Nguyễn Văn Thành - Đối Thoại, quê hương tình người - TN 1999.   - Em là quê Hương - TN 1997.
16) Berne E - Sđd.
17) Vygotsky L.S - Pensée et langage . ESF, Paris 1985.
18) Winnicott - Processus de Maturation chez l'enfant - P.BP, Paris 1972.
19) Portelance C. - Relation d'aide - Cram, Québéc 1992 tr. 31.
20) Goleman D. - L'intelligence Émotionnelle - R. Laffont, Paris 1997. Tome I tr. 29.
21) Maltz M. - Psycho - cybernetics - PH, NY 1960
22) Steiner C. - L'A.B.C des Emotions - Inler Ed. Paris 1998 tr. 122.
23) Nguyễn Văn Thành - Lắng Nghe - TN 1999.
24) Jaoni G. - Le Triple Moi - R. Laffont Paris 1997.
25) Levin P. - Les cycles de l'identite - Tnter Ed., Paris 1986.
26) Thích Nhất Hạnh - Đường xưa mây trắng - Lá Bối, SJ-U.S.A. 1992, tr. 453.
27) Phan Bội Châu  -  Khổng Học Đăng - Anh Minh, Huế 1957, I tr. 15.
28) Nguyễn Văn Thành - Lắng Nghe - TN - Lausanne 1999
29) Báo Coustruire số 38, ngày 21.9.1999
  Fukuyama  F. - La fin de l'histoire et le dernier homme - Chanps - Flammarion Paris 1994
30) Hess H. - Câu chuyện dòng sông -Chùa Khánh Anh, Paris, tr.57-64.
31) LaPorte D. - Pour Favoriser l 'estime de Soi - C.H.U, Montréal 1997
 
    
Sách tham khảo
    
       
1.-André C.  L'estime de Soi  -  Ed.O. Jacob, Paris 1999.
2.-Branden N.  -  Les six clés de la Confiance en-Soi  -  Ed. J'ai lu, Paris 1995.
3.-De Saint Paul J.  -  Estime de Soi, Confiance en Soi  -  InterEd. Paris 1999.
4.-Dubois V.  -  Les Emotions - ESF, Paris 1993.
5.-Grinda G.  -  Pour l'enfant - Fayard, Monaco 1996.
6.-Die P.  -  Comaitre ses blessures  - Ed. Emmanuel, Paris 1993.
7.-McKay M.  -  Self - Esteem  -  NH Pubbl, CA 1987.
8.-Monbourquette J.  -  Je suis aimable, Je suis capable - Novalis, Canada 1996
9.-Nguyễn Văn Thành  -  Comment gérer les émotions  -  S.C.E.S Lausanne 1991.
10.-Poletti R.  -  L' estime de Soi - Ed Jouvance, Genève 1998.
11.-Sommer B.  -  Psycho - cybernetics 2000  -  PH, NJ 1993
12.-La Porte D.  -  Pour Favoriser l'estime de soi   -  C.H.U, Montréal 1997