Môi Trường
và các vấn nạn hiện nay ở VN
1. Nhập đề
Môi
trường là gỉ ? Nó bao gồm các yếu tố tự nhiên (như đất, nước, không
khí..) và yếu tố vật chất nhân tạo (như nhà máy, đập nưóc, cơ xưởng..) ở
xung quanh sinh vật, có tác dộng trực tiếp, gián tiếp hoặc tác động qua
lại tới sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của sinh vật.
Những
vấn đề cấp bách về môi trường cần phải đối phó hàng ngày như ô nhiễm
nưóc, ô nhiễm tiếng động, ô nhiễm không khí, trong một khung cảnh đất
hẹp, người đông đã tạo nên sức ép trên tài nguyên thiên nhiên. Khung
cảnh sống thay đổi .. Những danh từ mới về khoa học môi trường đua nhau
xuất hiện như sinh khối (biomass), kiểu sinh học (biotype), sinh cảnh (biotope), quần xã sinh vật (biome), hệ sinh thái (ecosystem), ổ sinh thái ( ecological niche), đa dạng sinh học (biodiversity),bền vững (sustainability), lỗ hổng ozon (ozone hole), sự sưởi ấm toàn cầu (global warming), tái chế biến (recycling).
Các
vấn nạn môi trường có tính cách chung cho toàn thế giới: các nưóc giàu
có thì tiếng động, mưa acit, khí nhà kiếng; các nước nghèo, chậm phát
triển thì phá rừng, nhân mãn; tóm lại với hành tinh càng ngày càng nhỏ
bé và không còn hành tinh nào khác ngoài Trái Đất có điều kiện sinh sống
nữa, con người nhận ra là bảo vệ môi trường là việc chung của nhân
loại. Vào năm 1992, tại Rio, nhiều xứ họp lại để ký bản thoả ước về bảo
vệ tài nguyên trên trái đất, sau đó tại Kyoto lại họp bàn về giới hạn
các sự phát thải các khí độc trên bầu trời..
Các
tổ chức bảo vệ môi trường ra đời, đặc biệt nhất là tổ chức phi chính
phủ Green Peace. Rồi ngày Earth Day xuất hiện, trong đó nhiều công dân
đứng ra tổ chức vận động các chính phủ khuyến cáo các nhà lãnh đạo về
năng lượng sạch (mặt trời, gió ..), tiết kiệm năng lượng, phát triển bền
vững. Phát triển bền vững trong môi sinh là một vấn đề liên ngành vì nó
liên quan đến nhiều thông số của trái đất: giáo dục, kinh tế, dân số,
an toàn lương thực, bảo vệ môi sinh; do đó tiếp cận nhiều chiều kích
nhằm tìm toàn bộ các khía cạnh văn hoá, môi sinh, kiến thức bản địa,
kinh tế .. để cứu xét vấn đề, ngày nay đã trở nên thông thường.
2. Các hệ sinh thái
Hệ sinh thái bao gồm cả quần thể với môi trường quanh ta
- như đất : đất phù sa ven sông, đất phèn, đất mặn, đất cát ven biển..,
- như nước : lụt lội, hạn hán, chất lượng của nước như nưóc mặn, nước lợ, nước ngọt,
- như không khí ta thở :không khí trong lành, không khí ô nhiễm.
Cả ba yếu tố nước, đất, không khí có tác động hỗ tương lên nhau.
Các sinh vật trên đất gồm giới thực vật rừng dày, rừng thưa, thảo nguyên, giới động vật chim muông cầm thú ăn cỏ và ăn thịt và một giới khác ít người nói đến nhưng rất quan trọng là giới vi cơ thể nó
tái chế biến các phế thải động vật và thực vật. Cả ba giới thực vật,
động vật, phân hủy cũng có tương quan và tác động lên nhau .
Ví dụ:
a/
rừng bị chặt phá trên thượng nguồn đều tác động trên nước (nước mặn xâm
nhập, lụt lội), trên đất ( xói mòn đất, chuồi đất, đất màu bị mất đi );
đất nghèo cằn cỗi thì sản xuất nông nghiệp cũng kém đi.
b/
khói nhà máy, khói xe cộ chứa nhiều chất lưu huỳnh, chất chì .. gây ô
nhiễm trên khí quyển, gây nhiều bệnh hô hấp cho con người, tạo nên mưa
axít làm đãt đai bị axít hoá và nước làm hồ ao bị axit nên cá bị chết.
Như vậy rõ ràng là mọi thực tại đều phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau.
3. Các chu kỳ lớn trên trái đất
Có
nhiều tương quan giữa các yếu tố trong các hệ sinh thái : năng lượng
mặt trời , một phần đến được trái đất, nhưng phần khác lại bị phản chiếu
lên trời lại; riêng ở trên trái đất thì nhiều chu kỳ cùng xẩy ra như
chu kì nước, chu kì cacbon, chu kì nitơ, chu kì lưu huỳnh.
3-1 Chu kỳ Cacbon
Rừng
cây,nhờ diệp lục trong lá cây và nhờ ánh sáng nên hút được các chất
dioxit cacbon trong không khí để tạo nên các hydrat cacbon (đường, tinh
bột..) và phóng ra trong không khí chất oxỵ Ngược lại, các động vật phải
hút chất oxy qua sự hô hấp và nhả ra chất dioxit cacbon để dùng lại cho
sự quang hợp. Các phế thải đông vật và thực vật lại được tái chế biến
bởi vi cơ thể. Trong nước ( nước sông, nước biển), cacbon ở dạng
cacbonat và bicacbonat cũng là nguồn cung cấp cacbon cho qúa trình quang
hợp.
Chu
kỳ như vậy cũng nhịp nhàng qua 4 mùa :mùa xuân cây lá nhởn nhơ, ong
bướm chập chờn,..mùa hè, nắng nhiều, cường độ quang hợp mạnh, lá cây hút
mạnh chất dioxit cacbon; mùa thu với‘rừng phong thu đã nhuốm màu quan san’ và
mùa đông, khí trời lạnh lẽo, nên lá rơi lả tả mục dần, tạo thành thảm
chất hữu cơ, chất này sẽ cho lại các chất khoáng chứa các chất Ca, Mg, K
bồi dưỡng lại cho cây. Như vậy, ta thấy hữu cơ đi liền với vô cơ.
3-2 Chu kỳ nước
Nước
luân lưu từ mưa, mưa rơi xuống, nuôi cây cối, giúp tái tạo nước ngầm,
một phần nước chảy tràn xuống suối, sông đổ ra biển, biển bốc hơi gặp
lạnh, ngưng lại tạo thành mây; mây trôi gặp lạnh tạo ra mưa:
Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
3-3 Chu kỳ đạm
Chất
đạm liên quan đến cacbon; chất đạm trong bầu trời bị khoáng hoá thành
đạm vô cơ như nitrat và ammonium; đạm vô cơ do rễ cây hút để nuôi cây và
khi cây chết sẽ tạo ra chất mùn. Chất mùn chứa đạm hữu cơ rồi bị đổi
thành đạm vô cơ và cứ tiếp tục như vậy. Đất thoáng khí có các vi khuẩn
Nitrobacter hoặc Nitrosomonas, nhờ vậy, các ion ammonium được biến thành
nitrat nuôi cây cối ; đất yếm khí (như đất trồng lúa nước) thì vì không
có không khí nên nitrat bị các vi khuẩn khử nitrat biến chúng thành các
hợp chất như N2O (nitrous oxide), chất này bay lên không trung, gặp mưa
tạo thành mưa acid. Sấm sét trên trời cũng phóng ra chất đạm trong
không khí
3-4 Chu kỳ lưu huỳnh
Lưu
huỳnh có trong đất dưới dạng hữu cơ ; bị khoáng hoá thành dạng vô cơ
nuôi cây; cây chết đi, tạo lại lưu huỳnh hữu cơ. Nhiều nhà máy chạy bằng
than đá hay dầu cặn khi phun khói lên nhả ra SO2, chất này gặp mưa
thành acid sulfuaric. Đất phèn chứa nhiều lưu hùynh, đất trở nên chua (‘Quê hương em đất mặn đồng chua’)
Khi
ta phân loại ra các chu kỳ cacbon, đạm, lưu huỳnh như trên là cũng chỉ
để phân tích ra cho dễ hiểu mà thôi vì trên trời đất này, mọi chu kỳ
trên đều ảnh hưởng tương tác lên nhau. Hãy đọc Bà Huyện Thanh Quan:
Dừng chân đứng lại :trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ
có hai câu thơ cổ điển trên mà bao gồm mọi yếu tố môi sinh: nào là dừng
chân trên đất (thổ quyển), nhìn trời tức mây trôi, gió thổi (khí
quyển), nhìn non tức là núi có đá là căn nguyên của đất (thạch quyển),
nhìn nước tức sông suối, biển (thủy quyển) và sinh vật, tức tác giả bài
thơ (sinh quyển)
4. Khí hậu như một yếu tố môi sinh
Khí
hậu là gió, mưa, giông bão, nó tác động lên nhiều yếu tố môi sinh khác
như đất đai, hoa màu, nước, sông ngòi, xói mòn, sập lở. Trong văn học
dân gian, có vô vàn những câu tục ngữ, ca dao đúc kết các kinh nghiệm
của nông dân vì nông dân phụ thuộc nhiều nhất vào khí hậu trong công
việc đồng áng:
Trông trời trông đãt trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Xưa kia, chưa có những công trình thủy lợi nên nông dân không chủ động được nước, do đó, người dân kinh nghiệm rằng:
Mồng chín tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn
Thời
gian chiếu sáng của mặt trời, nghĩa là bức xạ cũng ảnh hưởng đến năng
suất cây trồng: mùa hè, ngày dài hơn mùa đông, do đó, sự quang hợp mạnh
hơn, cây cối nẩy nở mạnh hơn:
Tháng năm chưa nằm dã dậy
Tháng mười chưa cười đã tối
Mùa đông thì ‘hôm nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm’ (Xuân Diệu)
5. Nước như một yếu tố môi sinh
Tục ngữ ta có câu: ‘Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống’ đủ thấy ngay tầm quan trọng của yếu tố nước .
Văn
hoá nước ta là một nền văn hoá lúa nước; trồng lúa thì phải có nước và
ngay từ đời thượng cổ, tổ tiên ta đã biết lợi dụng nước thủy triều lên
xuống để cấy lúa. Đất nước quyện vào nhau mới trồng lúa nước được mà nhờ
lúa nước đòi hỏi một dân số đông đảo, dân Việt mới Nam tiến được, khai
phá cả các vùng sình lầy ở Thủy Chân Lạp trong khi người Miên chỉ sống
trên dất giồng cao ráo. Cây lúa đòi hỏi nhiều nhân công .
Nhiều
lễ hội cổ truyền đã phản ánh cách làm ăn, cày cấy, ước mơ mùa màng tươi
tốt. Nào là lễ rước nước, lễ cầu mưa ..Các vua nhà Lý cũng như nhà Trần
với tinh thần trọng nông còn tổ chức lễ tịch điền trong đó nhà vua đích
thân cầm cày xuống ruộng.
Chất
lượng của nước tạo ra nhiều khung cảnh môi sinh khác nhau: ùng đất có
nưóc ngọt, vùng đất có nưóc lợ, vùng đất có nước phèn, vùng đất có nước
mặn.
6. Thảo mộc như một yếu tố môi sinh
Đồng
bằng châu thổ sông Hồng trưóc kia toàn là rừng với đầm lầy; vì chỉ mới
lồi ra khỏi biển chừng 7000 năm về trước, nên với sự trầm tích của các
phù sa, lúc đó châu thổ mới có nhiều rừng ngập mặn hoặc rừng đầm lầy
(swamp forest). Thực vậy, sách Hậu Hán Thư mô tả như sau: ‘dưới thì nước, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt’,
với sự xuất hiện của rừng giúp sự trầm tích phù sa được lắng tụ dần,
tạo nên một nền nông nghiệp phồn thịnh, kinh tế trù phú khiến văn hoá có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát sinh. Rừng Trường Sơn giữ đất chống
xói mòn, bớt ngập lụt ở hạ lưu, nhưng nay chỉ còn ‘những đồi hoa sim, những đồi hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt’; các vùng có núi đá vôi như ở Ninh Bình với nhiều hình dáng kì vĩ với
‘Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương’
Thảo
mộc thiên nhiên khác xa, tùy theo điều kiện môi trường; thực vậy, cây
cối phụ thuộc nhiều vào đất và nước. Các đỉnh đồi thì nước trong đất
không nhiều nên thảo mộc phải chịu đựng các điều kiện khô khan: loài
thông có lá hình kim nên ít thoát hơi thường thích nghi với các khó khăn
về ẩm độ đất (soil moisture)
7. Núi như một yếu tố môi sinh
Các
khối núi có ảnh hưởng lớn đến khí hậu: dãy Trường Sơn ảnh hưởng đến khí
hậu miền Trung, dãy Hoàng Liên Sơn tác động trên khí hậu miền Bắc .
Tuy
nhiên ngày nay, ở Viet Nam, không phải trên núi là có rừng như xưa vì
nạn làm rẫy, du canh, nạn phá rừng làm núi đồi trọc càng nhiều
8. Tài nguyên và các vấn nạn ô nhiễm môi trường
Các
vấn nạn môi trường có thể kể : phá rừng; thoái hoá đất; thiếu nước ngọt
vào mùa nắng; lạm thác các tài nguyên sinh học; đe doạ các hệ sinh thái
8-1 phá rừng:
Rừng
Viet Nam bị đốn phá qúa mức do nhiều yếu tố như dân đông, du canh, lạm
thác rừng. Rừng là nơi cản bớt sự xói mòn đất, giúp làm chậm giòng chảy
nước tràn, giúp điều hoà nguồn nưóc, bảo toàn đa dạng sinh học, cải tạo
môi trường đất, có tác dụng nâng cao độ phì nhiêu của đất . Với sự phá
rừng, các nơi trú ẩn của các loài động vật hoang dã càng ngày càng nhỏ
dần nên chim muông, thú hoang càng ngày càng hiếm..Đồi trọc càng ngày
càng nhiều:
Khổ chi phận em cha chả là cam phận khổ
Lên non đốn củi, đụng chỗ đốn rồi !
Xuống sông gánh nước
Đụng chỗ cát bồi, khe khô!
Phá
rừng nên chim không còn nơi trú ẩn, vắng hẳn tiếng hát líu lo của chim;
nhiều loài thực vật biến hẳn do phá rừng và nhiều loài động vật có nguy
cơ tuyệt chủng như cọp, nai, voi
Hiện
nay, nhiều vùng như vùng Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu) rừng chỉ còn khoảng
10% tổng diện tích đất đai tự nhiên, trong khi tỷ lệ che phủ các vùng
núi cao đầu nguồn phải cao (50-70%) mới bớt được lụt lội . Tại miền
Trung, các dòng sông thường ngắn và có một lưu vực hẹp. Do đó, nước sông
lên rất nhanh. Mùa lụt đi sát với mùa mưa lớn, vào tháng 11, cùng với
các trận bão nhiệt đới thổi từ Thái Bình Dương.
Câu tục ngữ của dân gian cũng nói lên điều ấy:
‘Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái lụt 23 tháng mười ‘.
Vì
lưu vực các dòng sông thường nhỏ và độ dốc lưu vực rất lớn nên mưa
xuống làm nước mưa dâng cao rất nhanh. Lũ lụt thường đến bất thình lình
và thay đổi tùy năm.. Có lúc mưa bão gây ra một lượng mưa rất lớn, có
thể vài trăm mm trong 24 giờ . Ảnh hưởng của giãy núi cũng gây ảnh
hưởng. Một phần thì rặng núi gần đồng bằng, mặt khác, núi có triền dốc
rất lớn, nên vận tốc của dòng chảy cũng rất mạnh.
Vậy
để giảm thiểu, cần kết hợp giữa việc xây dựng các công trình chống lũ
với việc trồng rừng để làm chậm nuớc lụt. Có thể kết hợp trồng rừng và
cây ăn qủa ở nơi đất tốt để vừa có hiệu qủa kinh tế nhanh, cao và không
làm hại môi trường. Trồng rừng bạch đàn (Eucalyptus) thuần loại sẽ làm
suy thoái môi trường đất . Bảo vệ rừng có nghĩa tăng cường giáo duc về
môi sinh, trồng cây gây rừng, chống nạn cháy rừng, trồng ở các thung
lũng để giảm bớt sức ép trên các đất dốc, đó là chưa kể giáo dục nâng
cao dân trí để chương trình kế hoạch hoá sinh đẻ thực hiện hiệu qủa hơn.
.
8-2 thoái hoá đất
Dưới danh từ thoái hoá đất, có thể gom lại các vấn nạn như sa mạc hoá, bờ biển bị xâm thực, đất dốc bị xói mòn, sụp lở bờ sông
. sa mạc hoá (desertification).
Nhìn các đồi cát trắng mênh mông ở các duyên hải miền Trung tại Bình
Trị Thiên (Hải Lăng, Phong Điền, Quảng Điền ), tưởng chừng ta đang ở
Mauritanie! Thực vậy, cát bay đã khiến nhiều ruộng vườn bị cát che lấp
,gây tai hại đến môi trường sinh thái các làng duyên hải . Chính vì cát
bay, nên diện tích đất nông nghiệp bị giảm đi mỗi ngày và chi phối đến
cảnh nghèo đói các làng duyên hải.
. bờ biển bị xâm thực :bờ
biển Thừa Thiên bị ít đi từng ngày: với chỉ một trận lụt cuối 1999 và
các trận lũ trong năm 2000 đã làm hàng chục cột đèn điện, hàng trăm mét
đường dọc bờ biển Thuận An bị nhận chìm và cuốn trôi ra biển. Bãi cát
trên bờ trước kia rộng 300-400m, nhưng ngày nay, sau một thời gian bị
xâm thực, bờ biển gần như bị xoá sổ trên bản đồ; nhiều nhà trước đây xa
mép nước biển hàng trăm mét thì nay nước biển đã mấp mé chân tường.
- đất dốc bị xói mòn:
Vì
nuớc ta nhiều đồi núi hơn đồng bằng và hơn nữa, phần lớn núi đồi lại là
đồi trọc ít cây cối, thêm vào đó là vũ lượng rất lớn nên xói mòn nặng
nề, do đó mất phì nhiêu Xói mòn phụ thuộc vào nhiều thông số như chiều
dài của độ dốc, độ dốc nhẹ hay nặng, độ che phủ thực vật. Xói mòn trên
các lưu vực sẽ làm các hồ chứa nước bị lắng tụ rất nhanh và làm lòng
sông cạn dần, khiến lưu lưọng nước chảy ít đi. Nên có nông lâm kết hợp,
nghĩa là trồng cây lương thực với cây rừng hoặc với cây công nghệp lâu
năm như chè, cà phê, cao su, hoặc các cây che phủ đất để chống khô hạn .
Nếu cọng thêm các biện pháp công trình (bực thềm, hố ), xây dựng các hồ
chứa nưóc để điều tiết lượng nước tưới thì đất đai sẽ bớt bị thoái hoá .
- sụp lở bờ sông:
nạo vét sạn cát qúa sức lòng sông với những phương pháp máy nổ sẽ làm
cho lòng sông sâu xuống, tạo thành nhiều vực nguy hiểm và gây cảnh sụp
lở nghiêm trọng làm cho nhiều vườn tược ven sông sẽ đổ xuống dòng sông.
Chân bến bị khoét nên nhiều bến nước bên bờ sông là chỗ người dân sinh
hoạt sẽ không sử dụng được. Như vậy nhiều đập chắn cũng có thể bị vỡ,
nguy hiểm tính mạng dân chúng.
8-3 thiếu nước ngọt vào mùa nắng
Mùa
nắng, lưu lượng các dòng sông miền Trung không nhiều và thêm tưới nước
ruộng đồng cho hoa màu nên nước biển xâm nhập sâu lên thượng nguồn, làm
nước sông bị nhiễm mặn, gây trở ngại cho sinh hoạt vì dân không có nước
ngọt. Thêm vào đó, đất phù sa ven sông cũng bị nhiễm mặn không trồng
trọt được. Riêng tại Saigon thì theo báo trong nước:
Tình
trạng nhiễm mặn, ô nhiễm và giảm trữ lượng nước tại 2 con sông Sài Gòn
và Đồng Nai - những con sông cung cấp lượng nước thô chính cho việc sản
xuất nước sạch tại TPHCM đã được cảnh báo từ nhiều năm nay. Thế nhưng,
trong vòng 3 năm trở lại đây, chưa bao giờ nguồn nước này lại bị nhiễm
mặn, ô nhiễm và giảm trữ lượng trầm trọng như hiện nay. (trích Thanh Niên,ngày 18/2/ 2011 )
8-4 Lạm thác các tài nguyên sinh học
Hiện
nay nước ta tập trung qúa nhiều vào đánh cá ven bờ, không có ngư thuyền
đánh cá xa bờ nên tài nguyên cá dễ bị cạn kiệt. Ngoài ra, phải xác định
mức độ khai thác, chọn vùng khai thác để bảo tồn các sinh vật biển có
giá trị đang là đối tượng khai thác như rùa biển.
San hô, đồi mồi cũng bị tàn phá. Diệt rắn diệt chim làm chuột và côn trùng sinh sôi nẩy nở thêm .
Tại miền châu thổ sông Hồng, con cà cuống càng ngày càng ít đi vì sử dụng nhiều thuốc sát trùng quá liều lượng, ngay cả ‘chuồn chuồn có cánh thì bay’ cũng hiếm đi
8-5 Ô nhiễm tăng lên
Các nguồn ô nhiễm dất bao
gồm phân hoá học, thuốc trừ sâu, chất thải công, nông nghiệp. Trong
nông nhiệp, có thể kể sản phẩm thải bỏ các nhà máy thực phẩm đóng hộp,
lò sát sanh, sản phẩm bài tiết của các trại chăn nuôi lớn. Trong công
nghiệp, ngoài những rác thải thông thường như bao nilông, cao su, thủy
tinh, ve chai, đồ kim loại, còn phải kể các rác thải nguy hiểm
(hazardous wastes) như các chất dễ cháy, phóng xạ, chất nổ
Phân
hoá học càng ngày càng được sử dụng nhiều để đảm bảo an toàn lương thực
và xuất cảng. Nhưng muốn giảm thiểu tác động lên môi trường, phải sử
dụng cân đối, đúng lượng, đúng kỳ, hạn chế các tổn thất do bay hơi, rửa
trôi.
Thuốc
bảo vệ thực vật cũng giúp tăng sản lượng nông nghiệp nhưng nếu sử dụng
qúa liều lượng sẽ gây nên nhiều hậu qủa: cá, tôm, tép trong ruộng bị
giảm hẳn, cua, ốc, ếch, nhái, rắn cũng càng ngày càng hiếm.
Với
sự đô thị hoá, rác thải càng ngày càng trở nên trầm trọng vì bãi rác
còn phát sinh ra NH3, H2S, CH4 chưa kể nơi sinh đẻ ruồi muỗi.. Nước mưa
ngấm vào bãi rác tạo thành nước rò rỉ chứa các yếu tố độc hại gây ô
nhiễm môi trường nước ngầm và đất.
Do khói bụi các nhà máy công nghiệp sắt thép, than đá, ximăng v.v., do hàng vạn xe gắn máy chạy bằng xăng có pha chì, ô nhiễm không khí càng
ngày càng trầm trọng khiến trẻ em suy nhược cơ thể. Các nhà máy không
có thiết bị lọc bụi. Kèm theo bụi là khí SO2 gây tác động xấu đến sức
khoẻ con người, gây các bệnh viêm kết mạc, co thắt phế quản, viêm mũi,
viêm họng ..Dân cư sống ở những khu vực ô nhiễm nặng đều mắc các bệnh về
đường hô hấp. Muốn bảo vệ môi trường không khí thì phải trồng nhiều cây
xanh ven đường, sân chơi, phải có nhiều công viên trong thành phố,
quanh các khu kỷ nghệ, giảm bớt hút thuốc lá trong nhà hay tại các khu
công cọng; sử dụng phương tiện công cọng chuyên chở . Các biện pháp vật
lý như sử dụng các thiết bị lọc và làm sạch khí thải từ các nhà máy
(thiết bị lọc bụi, thu khí xoáy, lắng tĩnh điện..). Các năng lượng mới
như năng lượng sức nước, sức gió, Mặt Trời cũng là các năng lượng ít ô
nhiễm.
Ô nhiễm nước do
nước thải sinh hoạt con người tại các khu dân cư và nước thải từ các cơ
sở công nghiệp chưa dược xử lý thường được đổ thẳng vào kinh rạch, sông
ngòi. Do đó, sự đa dạng sinh học giảm đi nhiều, nhiều loài thủy sinh
vật đã không thể sống được. Nguồn nước bị ô nhiễm là nguồn gốc nhiều
bệnh như thương hàn, dịch tả, lị.
9. Kết luận
Môi
trường sống của nước ta bị nhiều chấn thương quan trọng do nhiều nguyên
nhân: cơ chế pháp lý còn lỏng lẻo nên mới có lâm tặc, sa tặc, thạch
tặc; dân đông nên diện tích đất nông nghiệp càng ngày càng giảm.
Đất
hẹp, người đông mà nếu đất không được sử dụng hợp lý thì con ngưòi tự
làm hại đến mình: đất thoái hoá thêm, nghèo thêm , gây ảnh hưởng dây
chuyền đến an toàn lương thực.
Từ
những nền văn hoá cổ truyền có gốc văn hoá nông nghiệp, ngày nay, nẩy
sinh ra, theo đà đô thị hoá, những cuộc sống máy móc, xa rời thiên
nhiên; nạn phá rừng, cuộc sống xô bồ với tiếng xe hàng vạn Honda gắn máy
điếc tai nhức óc suốt ngày càng làm cho con người xa lìa sự cảm thông
với vũ trụ, không còn được nghe tiếng sáo diều trong đồng vắng, không
còn thấy trăng lên với cảnh 'đêm qua ra đứng bờ ao, trông cá cá lặn, trông sao sao mờ',
không còn cảm nhận các cảnh 'sông dài trời rộng bến cô liêu' và cuộc
sống đô thị, thì nhà nào biết nhà đó, chỉ lo bon chen, tiêu thụ qúa sá,
mà không nhận ra cái kiếp mong manh của kiếp người, cái mong manh của
hạnh phúc thoáng qua 'đời sao im vắng, như đồng lúa gặt xong, người về
soi bóng mình, giữa tường vắng lặng câm', do đó chúng ta nên tỉnh thức
để sống, sống trong giây phút hiện tại, tận hưởng cuộc sống trong ngày
hôm nay. Qua các thơ văn trong văn học Việt, ta thấy luôn luôn đề cao
vai trò của môi sinh, từ tạo hoá, sông núi, thác nước.. Ngày nay, giáo
dục môi sinh trong học đường rất cần thiết; những thơ văn, ca dao, tục
ngữ giúp trẻ em học sinh hiểu nhanh hơn vai trò của con người trong các
hệ sinh thái nhằm bảo vệ chung trái đất. Trái đất này là của chung, mọi
việc đều liên quan đến nhau: khí dioxyt cacbon trên khí quyển là một khí
không biên giới; bầu không khí O3 (ozone) là không biên cương. Nó không
tuân thủ các ranh giới hành chánh của các chính phủ .Môi sinh có thể
nhìn dưới dạng vĩ mô hay vi mô . Trên cương vị vĩ mô, đó là trái đất, là
một xứ, trên phạm vi vi mô đó là một quả đồi, một thung lũng, một dòng
sông, một cái hồ. Giáo dục cho mọi người về sự cần thiết của niềm đồng
cảm giữa người và vũ trụ, tình gắn bó giữa con người với thiên nhiên để
con người yêu thêm thiên nhiên, tạo vật, tìm lại mây trời hiền hoà, màu
xanh của nước và của núi rừng, nói theo danh từ thời đại là green awareness.
Giáo dục cho mọi người các vấn đề nóng bỏng của thời đại, các vấn nạn
môi sinh, sự bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ qũy gen (gene pool), phát
triển bền vững .Cũng có thể sử dụng mô hình các hệ sinh thái để giúp
sinh viên hiểu và suy nghĩ theo tư duy hệ thống các ảnh hưởng qua lại
của các yếu tố môi sinh và từ đó thấy sự cần thiết có một sự hài hoà
giữa dân số và thiên nhiên, hài hoà giữa thiên nhiên và phát triển kinh
tế, một sự hài hoà mà chính hệ thống triết học Á Đông luôn luôn đề cao.
THÁI CÔNG TỤNG