Biến Đau Thương Thành Sức Mạnh:
Từ Kinh Nghiệm của Một Thế Hệ
Đến Sự Hình Thành của
Siêu Quốc Gia Việt Nam ở Hải Ngoại
Phạm Cao Dương
Binh giả bất tường
chi khí
Phi quân tử chi
khí
Bất đắc nhi dụng
Điềm đạm vi thượng
(Lão Tử, Đạo Đức
Kinh, Chương 31)
Binh khí là vật chẳng lành
Không phải là vật
dùng của Quân tử
Bất đắc dĩ phải
dùng
Nên điềm đạm làm
đầu.
(Nguyễn Tôn
Nhan dịch, Lão Tử Đạo Đức Kinh.
Saigon,
Văn Học, 1999, tr. 113-114)
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được ngoài 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại
của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn, có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn,
có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những
quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già
cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả
sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn tồn tại không ít của mình. Tuổi
trẻ Việt Nam
ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em
mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều
này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự
đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên
viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học
giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm,
các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các
sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân
đội, kể cả tướng lãnh. Hãy tưởng tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn
đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc,
trong các cuộc thao diễn, dẫn đầu họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh chào cờ
trong căn cứ của đơn vị mình. Vị chỉ huy đó là người Việt. Anh là vị
tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của trận mạc, không phải tướng của phe
phái, nói cách khác, tướng cảnh. Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục
hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng
đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một
cách trịnh trọng. Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn cả thế hệ thứ hai của tị
nạn Việt Nam.
Tất cả đều vẫn còn thông thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các
cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở thành “người”, đã “nên
người”, đã lập được sự nghiệp trên quê hương mới mà không cần tới sự trợ giúp
của các “đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Chưa hết! Bây giờ thì họ
đã ngồi lại với nhau để trở thành một lực lượng quân nhân gốc Việt, ít ra trong
quân đội Hoa Kỳ, và sẽ dẫn đường cho thế hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ
thành công mỹ mãn hơn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi
rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành,
ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành
công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết
về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã
đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt.
Trong tương lai, các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa.
Sang một địa hạt khác
gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói về các
cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các
con em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người
Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm
thày cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên
đầu của thời kỳ di tản. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ
khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và
sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người
đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường sau khi
phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là
quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất
khó vì rất hiếm, vì sự cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều và nạn bè
cánh, phe phái rất cũng không phải là hiếm. Yếu tố quan trọng mà các em
phải dựa vào để lựa chọn là chính mình, là thiên tư và hạnh phúc của chính
mình. Kinh nghiệm của cha mẹ, ông bà của các em và những người đi trước
thuộc thế hệ của các ngài cũng vẫn còn là những gì đáng quý cho các em khi chọn
ngành và nhất là khi hoạt động cộng đồng.
Để hướng về các
con em nhỏ trong cộng đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm và có thể
hàng ngàn lớp Việt Ngữ đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các phòng
ốc mượn của các trường địa phương trong những ngày cuối tuần do các thày cô đã
về hưu hay các sinh viên đại học phụ trách. Hàng ngàn thày cô giáo bất đắc dĩ
đã tham gia công tác này với hàng chục ngàn trẻ em được cha mẹ mang tới
dự. Hãy tưởng tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như thế nào để cứ
tình nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng
khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em, không nửa chừng bỏ
dở. Họ âm thầm làm công việc của mình và dường như ít được cộng đồng biết
đến, thăm viếng và khích lệ.
Cộng đồng của chúng
ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 42 năm qua không hề
phải nhờ vả vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đô la hàng năm đã được
gửi về dưới hình thức này hay hình thức khác, gián tiếp làm giàu cho các cán bộ
và các đại gia ở trong nước và gián tiếp giúp họ chuyển tiền ra ngoại quốc
phòng ngừa khi tháo chạy. Có điều, thay vì để yên cho thành phần thứ hai
của dân tộc ở Hải Ngoại phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát
triển, cùng hướng tới một tương lai dài nhằm biến dân tộc Việt Nam thành một
dân tộc lớn của nhân loại thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã
coi đó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều
hơn, thậm chí bắt và giết nó. Điều này là gì nếu không phải là một tội
đại ác đối với dân tộc và đối với chính họ?
Lịch sử dân tộc Việt Nam
phải được tính bằng ngàn năm
Trong một bài viết
trước đây, nhằm kỷ niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long,
đăng trong Tập San Thế Kỷ 21, số 1, số ra mắt, đã nhắc tới trên
đây, người viết có đưa ra cái nhìn hơi khác về lịch sử của dân tộc Việt
Nam. Đó là lịch sử phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc
chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những năm hiện tại của
thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không thể chỉ tính bằng chục
năm, bằng trăm năm như lịch sử bình thường. Nhìn như thế để chúng ta có
thể thấy những điều vô nghĩa mà nhiều người đã và đang làm. Nhìn như thế để
chúng ta có thể lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của Cộng Đồng
Người Việt ở Hải Ngoại trong thế kỷ 21 này.
Cơ hội ngàn năm một thuở: Mặt trời không bao giờ lặn trên những
miền đất có người Việt cư ngụ
Sự hình thành của Cộng
Đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội
ngàn năm một thuở chúng ta mới có được, sau nhiều chục năm dài đầy chiến tranh,
đau thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi thảm 1975 đã bẩy tung
bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi sau ngót bốn mươi năm cũng họ, cũng
những bà con đã bị bấy tung ra khắp thế giới ấy, bây giờ là Người Việt Hải
Ngoại, đã định cư và đã thành công ở khắp năm châu, không nơi nào là không
có. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền
chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc,
đã phải bỏ xứ ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói
một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc Gia Việt Nam không có lãnh
thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong
lòng mọi người dân của Siêu Quốc Gia ấy. Một Siêu Quốc Gia như vậy thích
hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các
nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả loài người. Cũng nói cách
khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời
không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20,
một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không
bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”
Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự. Họ cũng hiện diện ở khắp nơi trên
thế giới nhưng vẫn không thể so sánh với người Việt. Lý do là vì người
Tầu bỏ nước ra đi là họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa còn người Việt
thì không được chọn lựa. Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương, giết
chóc với ít ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước mắt tràn ngập khắp
Trường Sơn, ra tận Biển Đông. Người Việt đã bất đắc dĩ phải ra đi mà không
biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ thì tự mình và với sự giúp đỡ của các chính
quyền và của người địa phương, bất chấp những sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm
quyền ở trong nước trong những năm đầu, các cộng đồng Việt Nam ở khắp nới trên
thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so với thành phần còn lại ở trong
nước. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ và phát triển nó. Chúng
ta không thể để cho những người đang nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng
đồng chúng ta, coi cộng đồng chúng ta là con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ
nhiều hơn, đẻ mãi, lợi dụng và giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính
chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng ta đang sống ở đây và sẽ chết ở
đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn gây bất ổn
từ bảy mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để cho chúng ta yên. Họ
luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ con cháu chúng ta như họ đã làm ở
trong nước, bây giờ là Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại, cơ hội ngàn năm một
thuở của chung cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng nhỏ
bé và chậm tiến. Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc Có điều họ sẽ bất
cần, sẽ tiếp tục làm như họ đã làm trong quá khứ như các năm 1954, năm
1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được chúng ta. Chiêu bài độc lập
thống nhất không còn hiệu nghiệm nữa. Chuyện đó qua rồi. Cộng Đồng
Hải Ngoại của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền và luật
pháp bản xứ che chở. Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng
vững. Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai ngàn năm và chắc chắn sẽ còn
đứng vững thêm nhiều ngàn năm nữa. Điều này tùy thuộc ở chính
chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh, lợi, tiền bạc của cá nhân hay phe
nhóm là trọng hay sự tồn vong và phát triển của cả Cộng Đồng, cả dân tộc Việt
Nam là trọng. Phải tin tưởng là tới một giới hạn nào đó, Trời đã mở cửa
cho chúng ta, đã “Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư”, đúng như tổ tiên
ta từ thời Nhà Lý đã tin tưởng. Phần còn lại tùy thuộc ở chúng ta, điều
mà bà con đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được vì dù có
muốn họ cũng không được phép làm, chưa kể tất cả hầu như đều đã quá mòn mỏi,
khô cằn đến độ gần như vô cảm, nếu không nói là kiệt lực chỉ còn đủ sức kiếm
sống, ăn chơi và dễ dàng bị ru ngủ và thụ hưởng. Tất cả chỉ còn trông cậy
ở chúng ta và con cháu chúng ta. Hãy chứng tỏ chúng ta có đủ khả năng
và bản lãnh; chúng ta dời bỏ quê hương ra đi không phải để tha phương cầu thực,
để được hưởng “bơ thừa, canh cặn” hay chỉ là “rác rưởi trôi giạt từ bên này đại
dương sang bên kia đại dương”. Cũng không nên và không được quên nửa
triệu thuyền nhân đã bỏ mình dưới lòng biển đại dương khiến cả thế giới động
lòng và mở rộng cửa đón dân tị nạn chúng ta trong suốt hai thập niên tám mươi
và chín mươi của thế kỷ trước, cũng như hàng ngàn tù nhân của các trại học tập
sau năm 1975 đã bị thủ tiêu hay qua đời vì bị hành hạ và kiệt sức.
PCD
(Những ngày giáp Tết
Mậu Tuất, 2018)
Xem toàn văn: