‘Ai chơi gươm sẽ chết vì gươm’…Hãy chiêm nghiệm mà tìm kiếm sự an bình.

Nguyễn Quang
Việt Nam bên bờ vực chiến tranh, và nếu xảy ra chỉ là một sự hợp thức hóa cho việc chiếm đóng của Trung quốc, và chắc chắn cuộc chiến này, cả thời hậu chiến sẽ dẫn đến không biết bao đau thương cho người dân Việt, xin ghi những nỗi đau đã qua để người Việt cùng nhau thức tỉnh hầu có thể tránh được thảm họa diệt chủng này!
Một khách sạn, một tòa nhà, nhà hàng… bỗng chốc nổ tung lên, khói cao bay vút tầng mây với bao tiếng nổ vang rền khác. Các khu dân cư lân cận cùng bồng bế kéo theo nhau chạy và chạy trong cơn hoảng loạn. Chiến tranh là vậy!
Con người cứ chạy và họ cùng nhau tin rằng sẽ đến một nơi an toàn hơn, nhưng nhân loại vẫn chỉ là một cuộc hành trình của sự đi đường. Cuộc chiến Việt Nam sẽ mãi để lại trong dân tộc này với phố Khâm Thiên trong suốt mười hai ngày đêm bị ném bom. Đại lộ Kinh Hoàng khi người dân trên đường chạy tìm tự do đã bị Việt cộng dùng cả súng lớn súng nhỏ bắn vào tất cả những thường dân không có một tấc sắt trong tay đang bồng bế nhau chạy trốn cộng sản, vì nghe đến cộng sản là họ hoảng sợ do từng kinh qua sự thảm sát dịp Tết Mậu Thân mà mọi người đã chứng kiến.
Tất nhiên ở đây có yếu tố ảnh hưởng bởi sự tuyên truyền về cả hai phía, nhưng thực tế những gì đã xảy ra với cái ác khiến họ ‘trăm nghe không bằng một thấy’. Con đường tỉnh lộ Bảy cũng trong nỗi kinh hoàng khi cuộc chiến đi vào giai đoạn cuối. Đoàn người bỏ chạy khỏi nanh vuốt cộng sản ngoài số bị chết dọc đường trong cuộc hành trình từ Tây Nguyên xuống dọc duyên hải miền Trung. Khi về đến hạ lưu sông Ba, còn gọi là Đà Rằng… Họ đã bị tàn sát bởi những quả pháo cùng mìn, lựu đạn, xối xả nã vào đoàn người tưởng sẽ được sống sau chặng đường băng rừng vượt suối…
Tất cả những người này không ai nghĩ mình sẽ chết, họ phải sống cùng con cái họ trên một bến bờ tự do khả dĩ mang bộ mặt người. Thế nhưng mãi mãi họ đã đi vào một dòng suối mà có lẽ tạo hóa cũng chưa hẳn đã nắm được cái bao dung toàn thể, nếu có Ngài, có thể Ngài cũng đi đường… Và chắc chắn sẽ có một câu hỏi thật nhân bản được đặt lên với Ngài: Ta đã tạo nên chủng loại này làm gì để rồi chúng tìm cách giết nhau như thế.
Riêng Pierre Darcourt ghi lại hàng loạt sự việc... ‘cảnh ngộ tàn khốc kinh hoàng không thể tả nổi của hàng triệu người dân từ Cao Nguyên, từ các tỉnh địa đầu miền Trung...
Một cụ già còn giữ được mạng sống trong cuộc tháo chạy từ Pleiku về Phú Yên theo tỉnh lộ 7B đã kể với một nhà báo Sài Gòn về đoạn đường của mình: “Chúng tôi gồm hơn 100 ngàn người đi bộ, gồng gánh tất cả những gì có thể mang theo... Con đường nhỏ xuyên qua rừng giữa những bụi rậm và tre dày đặc. Chúng tôi không có thức ăn, tuyệt đối không có gì để uống và đi suốt ba ngày ba đêm như vậy... Khi gần tới sông Ba thì từ trong rừng xuất hiện một toán bộ đội có người cầm cờ đi đầu. Người chỉ huy toán bộ đội phát loa ra lệnh cho chúng tôi ngừng lại và quay trở về. Nhưng làm sao được bây giờ vì có quá nhiều người ở phía sau cứ đùn chúng tôi đi tới. Tất cả bị dồn cứng thành một khối không nhúc nhích nổi. Thế là bọn cộng sản bắn với tất cả các loại súng họ đang có... các loại pháo nặng nhẹ, súng cối, súng không giật... nã thẳng vào chúng tôi dọc theo con lộ đang bị kẹt cứng. Tất cả đều nổ đồng loạt. Một trái đạn pháo đã chém ngang con gái tôi và hai đứa con của nó. Trên đoạn đường dài ba cây số thây nằm la liệt, lẫn lộn kẻ chết người bị thương. Hàng trăm xe đủ loại bị cháy, nổ ì ầm như người ta ném đạn vào lửa vậy. Tôi ôm đứa cháu chín tuổi, cố gắng chạy bừa tới đâu hay tới đó. Ðứa bé bị một mảnh đạn pháo xuyên qua lưng. Nó khóc thét lên nhắc đi nhắc lại: “Ông ơi, ngực cháu thủng rồi, đau lắm”. Rồi đùng một cái, tôi không nghe nó nói nữa. Tôi nhìn lại, đôi môi của nó đen hết rồi. Nó đã chết...’
Những đoạn phim chiếu lại sau chiến tranh hình ảnh của hai người con khiêng mẹ mình trên cái thúng nhỏ, người mẹ đã thật già, hay những hình ảnh ngược lại các cháu bé được bồng bế đu trên vai hoặc ngồi lọt trong những chiếc thúng và cha mẹ thay phiên gồng gánh chúng về nơi không tiếng súng. Những ánh mắt dáo dác thẫn thờ của con người trước bom đạn, trước cái chết mọi thứ cũng ngỡ ngàng như chính sự ra đời trong tiếng khóc chào đời của mỗi hữu thể hiện hữu tại thế.
Thế rồi chẳng may có trái pháo nào tạc qua, hay viên đạn trúng phải người nào khiến chết ngay tại chỗ, quả là nỗi kinh hoàng cho người còn sống. Những người mẹ đã ôm xác con, người chồng quấn quít bên xác vợ và bao người thân cùng láng giềng chứng kiến những đau thương của nhau trước hết chính họ là nạn nhân sau là những nhân chứng với Thượng Đế rằng: Dân tộc này có gì để trừng phạt song mãi mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước luôn trong đau thương mất mát hay đây là dấu chỉ ‘nước các con không thuộc về thế giới này’ hãy để thế giới này hình thành và tự hình thành ‘ai chơi gươm sẽ chết vì gươm’… Từ đó các con hãy chiêm nghiệm mà tìm kiếm sự an bình.
Con người tiếp tục chạy và ở đây họ chạy trên những luống cày đã chôn sống người thân của họ, những nhác cuốc bươi nhẹ như thật mềm, họ sợ trúng phải xương xẩu da thịt còn sót lại trong các hố chôn tập thể. Họ từ từ moi lên những thân xác trần trụi bị vùi dập bị chôn sống hay bị đánh bằng búa đến chết và chôn vùi trong các hố tập thể. Đó là sự may mắn còn có dấu tích của chiến tranh còn sự thường với những vụ chết quá đông đều phải đốt bằng lửa như hình ảnh ngày sau hết trong sách Khải Huyền Thượng Đế sẽ rửa sạch và đốt bằng lửa mới thanh tẩy môi trường.
Những chiếc quan tài đơn sơ bằng tre nứa khiêng đi vất vưởng cũng bằng những thanh tre còn quá yếu chưa đủ kịp sự cứng cáp của tre già vì chiến tranh lửa đạn phá hủy hết mọi thứ từ môi trường, nếu không nói là thêm chất độc hóa học từ thuốc khai quang khiến chúng ta nếu có dịp ngay trong thời chiến tranh và sau đó chừng chục năm vẫn còn thấy những khu rừng hoàn toàn trọc lá. Những chiếc hòm bới lên từ mồ chôn tập thể mà người thân nhận ra khi may mắn còn thấy những tấm giấy tùy thân hay dấu vết sót lại trong người lúc họ bị chôn sống…
Chiến tranh kẻ sống người chết quằn quại bên nhau, với người chết họ trong thế giới của những gì không ai biết được, im lặng tuyệt đối của hư vô và những người tại thế giới này trong cái cảm xúc đau thương vô hạn. Người sống ôm chặt kẻ chết nhất quyết không chịu buông, trong giây phút vĩnh biệt cuối cùng không biết cái ngày gọi là tận thế có diễn ra và người thân có còn gặp lại vì đã có lời giải thích vợ sẽ gặp chồng và người thân gặp nhau nhưng trung tính.
Chiến tranh cũng không buông tha bất cứ ngôi thánh đường, chùa chiền, thánh thất, đình làng… Tất cả đều có thể bị phá hủy trong đường tơ kẻ tóc và nếu nó đã bị lợi dụng biến thành nơi đặt bản doanh hay sự trốn lẫn của phe bên này bên kia, điều đó lại càng chóng bị tiêu hủy về cả hai phía.
Hình ảnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quỳ gối trước Vương cung thánh Đường La Vang đổ nát, chỉ còn trơ trụi Cây Thánh giá, tháp cao kia trong hoang tàn…
Hình ảnh Người Phụ Nữ bán vải như vẫn luôn quanh quẩn trong vùng thánh địa này, Đức Mẹ La Vang đã hiện ra qua vai người bán vải để an ủi, cứu giúp các tín hữu chạy trốn vào rừng trước sự bách hại.
Hình ảnh An Lộc là đống gạch vụn và ngôi thánh đường bay hết nóc với cả trăm thi thể chồng chất, thối rữa giữa các hàng ghế nát vụn dưới bàn thờ. Một chiến xa T.54 của Việt cộng đã dùng đại bác bắn trực xạ vào các tín đồ đang cầu nguyện giết không còn một ai và toàn bộ xác chết vẫn nằm tại chỗ.
Chiến tranh mang đến những gì văn minh nhất nhưng cũng lấy đi hết những gì từ cái gọi văn minh, ‘văn hóa là những gì còn lại sau khi quên tất cả’ nhưng chiến tranh là những gì còn sót lại sau khi tiếng súng không còn và riêng tại Việt Nam khi hòa bình lại rơi vào cảnh tang thương ân oán do sự hận thù đến trả thù!


Nguyễn Quang
* Trích từ tác phẩm Chiến Tranh và Hòa Bình Việt Nam của tác giả.