Kiều của NGUYỄN DU (1766-1820), một gia sản văn hóa nhân loại

Kiều của NGUYỄN DU (1766-1820),
 một gia sản văn hóa nhân loại

Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận.
Vì  thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại.[1]    

Nguyễn Đăng Trúc

Thi phẩm Kiều của Nguyễn Du là một lời được cảm hứng[2], một tư tưởng.

Vì là lời được cảm hứng, thi phẩm đó ở bên kia bờ của việc mô tả hay biện minh cho một thời đại hay một xã hội nào bất kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định chế và các giá trị đang chi phối nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn đề về ngay chính nền tảng của chúng nhân danh một quyền uy khác hơn quyền uy đương đại, đó là quyền uy của sự thật, của ý nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời được cảm hứngkhông quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội, những tập tục của một cộng đòan, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một nhân vật. Nhưng đưa tòan bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định chế xã hội, trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế : chất vấn về ý nghĩa của nhân tính.

Con người là vấn nạn cho chính mình, đó là một câu chất vấn duy nhất gợi hứng cho đạo lý các thánh hiền, cho minh triết của những nhà  tư tưởng đi tiên phong trong các nền văn hoá khác nhau của nhân lọai

Khi tiếp cận được lời thi ca, cảm hứng được câu chất vấn đến từ bờ bên kia, - lờivượt lên trên những kiến thức giới hạn của con người-, các thánh hiền và các nhà tư tưởng chạm đến con tim con người bất cứ nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp của họ được tiếp nhận như là gia sản văn hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký Ức của các dân tộc.

Nếu gia sản văn hoá của nhân loại không chuyển đạt điều gì khác hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ điệp văn hóa ấy cũng hé lộ cho thấy thân phận con người tự căn vốn kỳ lạ và mâu thuẫn. Nét kỳ lạ ấy là dấu chỉ linh ư vạn vật của nhân tính buộc con người phải dấn thân vào Cuộc Chiến bi thảm, nhưng hào hùng để có thể chu tòanMệnh làm người của  mình.

Dưới ánh sáng của lời được cảm hứng từ bên kia bờ, Cuộc Chiến ngoại thườngnầy [thánh hiền trong văn hóa Hy Lạp gọi là Khôn Ngoan về nhân tính (άνθρωπίνη σοφία)[3] hay Đức Lý (Ήθος)] vượt lên trên các hình thái đối nghịch của vũ trụ, trên các biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội, trên mọi hình thức tự phủ định ý chí muốn sống hay con đường khổ hạnh để tu thân… Cuộc Chiến ngoại thường nầy là :

·         Cuộc Chiến giữa Đạo sâu kín, chân thực, đối nghịch với những đạo giả tạo do trí năng vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của Lão-tử, quyển 1, chương 1).
·         Cuộc Chiến giữa một nhân tính đặt nền tảng trên Ngã đơn độc, tự mãn bên nầy bờ của bến mê và một nhân tính đích thực (Phi Ngãbên kia bờ của Ngãmê lầm đó, trong đạo lý  Phật giáo.
·         Cuộc Chiến giữa Vương Đạo của chính nhân quân tử và Bá Đạo của tiểu nhân, theo Khổng giáo.
·         Cuộc Chiến giữa Tài (Τχνη) và  Mệnh (Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp (đặc biệt trong Prométhée bị trói của Eschyle và trong Œdipe-Vua của Sophocle:
 “Tài (Τχνη) quá yếu so với uy quyền của Mệnh[4].
Cuộc chiến vinh quang mang nguồn sinh lưc cho quê hương, xin Trời đừng dẹp tắt.”[5]

·         Cuộc Chiến (Πόλεμος) giữa Lời siêu việt (Λόγος ) và lý lẽ con người trong tư tưởng của  Héraclite.
·         Cuộc Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý[6], – Đạo được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái nữ của Thần Mặt Trời –, và bên kia là con đường bế tắc của mê lầm mà mọi người đang đi, không trừ một ai[7] trong Thi Ca của Parménide.
·         Cuộc Chiến mà Socrate là một chứng tá sống động trong cuộc sống, trong cái chết bi thương nhưng vinh quang, trong lời giáo huấn ngược đời của ông.
·         Cuộc Chiến giữa nhân tính đặt nền tảng trên (Tài),  trí năng đo lường các sự vật trong vũ trụ,  và một nhân tính khác được cảm hứng bởi « Lý của Con Tim » (Đạo Tâm) trong tư tưởng Pascal...

Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã khơi nguồn cảm hứng cho tư tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt qua hai câu thơ đầu tiên của truyện Kiều:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau (Kiều, c. 1-2)

Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển khai trực giác độc đáo nầy.

Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa hai căn tính con người, một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài và căn tính kia trên chữ Mệnh, ở ngay giữa cuộc sống.

Lời thi ca nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia (qua bóng dáng Đạm Tiên) thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng nhan gắn liền với Nghiệp (Tài), và một Kiều chân thựcbên trong (thanh cao) của Mệnh mà Giác Duyên sẽ cống hiến, sau cái chết rốt ráo của Nghiệp nơi sông Tiền-Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.

Con đường của Tài xuyên qua những hình ảnh tượng trưng như :
-    Sự tự vẫn : con đường vô sinh, vô cảm.  
-    Thúc Sinh – biểu tượng cho khóai lạc cá  nhân và lòng trắc ẩn thường tình.
-    Con đường khắc kỷ ở trong một am thất,
-    Từ Hải – biểu tượng sự giải phóng xã hội...
Nhưng những con đường giải thoát của Tài đều bế tắc.

Tuy nhiên Lời từ bên kia bờ không ngừng âm thầm nhắc rằng thế giới Ảo-tưởng của Tài sẽ tàn, và Con Đường khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác Duyên :
-    Đạo của Mệnh, Đạo-Tâm tuyệt đối ở bên kia bờ của Tài và đòi hỏi cái chết tận căn của Tài (Kiều hồng nhan phải chết trên sông Tiền Đường để sống lại Kiều Giác Duyên).
-    Đạo của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo (Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài). (Kiều c.3252).


Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm Kiều của Nguyễn Du đã cảm hứng tâm hồn và qui hợp con dân Việt-nam. Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm hứng tư tưởng thi ca của nhân lọai, thi phẩm Kiều hẳn sẽ cống hiến cho mọi dân tộc trên thế giới một lời mời gọicấp bách để có thể nhận ra bí nhiệm vô tận, đó chính là CON NGƯỜI.


** * Tóm lược bài chia sẻ về Văn  hóa Truyện Kiều của Nguyễn Du trong buổi trình diễn Nhạc của nhạc sĩ Quách VĩnhThiện tại Conservatoire de Musique J.S. Bach,Bussy Saint-Georges ngày 12/4/2009



[1]Karl JASPERS,  Les grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989, tr.36.
[2] Socrate đã  mô tả thi ca (lời được cảm hứng) như sau: « Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ ! » (PLATON, Ion. 534 c-d; 534 e..).
[3] cf. PLATON, Biện hộ Socrate 20 d-e.
[4]  ESCHYLE, Prométhée bị trói c..514.
[5] SOPHOCLE, Œdipe-Vua, c. 879-880.
[6]  Sđd. II 4.
[7] Sđd. V 9.