LÊ MỘNG NGUYÊN
Vọng về lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa
Tùy Bút của Gs NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Chưa đến tuổi vào đại học, người thanh niên xứ Huế đầy
tài năng Lê Mộng Nguyên đã được dân chúng biết đến qua những ca khúc Xuân Tươi (1945) Vó Ngựa Giang Hồ, Mừng
Khánh Đản – Rằm Tháng Tư, Một Chiều Thương Nhớ, Chiều Thu (1948), Vó Ngựa Giang
Hồ (1948), Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Cô Gái Huế, Đôi Mắt Nhung, Về
Chơi Thôn Vỹ, Mỵ Châu Trọng Thủy, Mơ Đà Lạt, Ly Hương (1950)… Xuân Tha Hương,Thu
Trên Sông Seine, Thu Sầu, Tôi Sợ Chiều Thu, Chiều Vàng Năm Xưa, Em Có Về Làng Xưa,
Giao Mùa, Việt Nam Thắm Tươi, Người Thơ Năm Cũ, Xa Rời Quê Hương… Nhưng hơn
hết tình ca Trăng Mờ Bên Suối (13
-11-1949) là bản nhạc đã đi vào Đại Ký Ức thi ca của người dân việt.
Giáo sư Trần-Văn-Cảnh và nhà văn Đỗ Bình ở Paris đề
nghị tôi viết vài hàng giới thiệu về nhà văn Lê Mộng Nguyên để đưa vào Tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.
Thực ra viết về Lê Mộng Nguyên, có
quá nhiều để viết. Những dòng chữ dưới đây chỉ là những chấm phá về những ngày
có duyên được quen biết nhà văn tiền bối nầy.
Rời Việt-Nam đi du học ở Pháp năm 1950, chàng thanh
niên nghệ sĩ nầy từng dự định ghi danh học ngành âm nhạc tại Conservatoire national supérieur de musique ở
Paris, phản ảnh ước mơ của không ít
người thanh niên Huế lúc bấy giờ[1],
nhưng số phận đã đưa du học sinh nầy đến ghế trường Luật. Xa quê từ dạo ấy cho
đến nay trên 65 năm, sáng tác âm nhạc của Lê Mộng Nguyên là tiếng vọng nhớ nước, nhớ non, nhớ nhà như lời của thi sĩ tiền bối đồng hương Sảng
Đình Nguyễn Văn Thích có lần đã nhắn nhủ giới trẻ Việt Nam : Lá Thư Cho Mẹ, Sông Seine - Bao giờ Ta Về
Nước Nam ? (1951), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương (1981), Quê Tôi (1991), Kiếp Giang
Hồ (1992), và tiếp đó : Tìm Lại Ngày
Xưa, Thề Non Nước, Lời Cuối Của Anh, Quốc
Hận 30 Năm…
Qua vô số tác phẩm âm nhạc mà danh mục trên chỉ là tượng
trưng, có thể nhận ra rằng cảm hứng âm nhạc của Lê Mộng Nguyên trào vọt lên từ nguồn
thi ca đến từ bờ bên kia theo lối nói của nhà Phật. Thật ra, nguồn thi ca đó đã được gợi
lên một cách cô động nơi lời thơ nầy của chính tác giả trong tuyệt phẩm “Trăng Mờ Bên Suối” : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Nhưng, Lê Mộng Nguyên được giới thức giả, người trên thế giới cũng như
đồng bào, biết đến nhiều, không phải vì các học vị bằng cấp hay chức vụ xã hội
:
Lê Mộng Nguyên đã tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia về luật khoa về ban công
pháp với luận án “Giai cấp xã hội và
phong trào chính trị tại Việt-nam từ 1919 đến 1939” ( luận án được Giải
Thưởng Luận Án Đại Học Paris 1963), đã từng là giám đốc nghiên cứu và giáo sư
công pháp quốc tế tại đại học Paris, luật sư Tòa Thượng Thẩm Paris ,
chuyên gia về các định chế Pháp và quốc tế, những vấn đề Đông Nam Á và đặc biệt
là Việt-nam…, và là thành viên Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp Quốc Hải Ngoại…
mà là vì giá trị của những
biên khảo hàn lâm, những kiến thức uyên bác, những nhận định, phê binh về chính
trị, về các định chế điều hành sinh hoạt cộng đồng và xã hội, về văn hóa… trong
nhiều tác phẩm nghiên cứu được tái bản nhiều lần, tiêu biểu như :
La Constitution de la Ve République, de Charles De Gaules à François
Mitterrand, STH, 4ème édition, 515 pages, Paris 1989 ; Les
systèmes politiques démocratiques contemporains, 4ème édition actualisée, 228
pages, STH Paris 1994, La constitution de
1958, L’Hermès, Paris 1996, Initiation
au droit, L’Hermès, Paris 1996, Finances publiques, L’Hermès, Paris 1997, Les systèmes politiques démocratiques, Éditions Ledrappier, Paris
1987… Les agglomérations urbaines dans
les Pays du Tiers Monde, Institut de Sociologie, Bruxelles, 1971. (100) Contes philosophiques d’Asie,
L’Harmattan, Paris 2005….
Ngoài những tác phẩm viết bằng pháp ngữ về luật pháp, xã hội,
thi ca, văn hóa, Lê Mộng Nguyên đã viết bằng việt ngữ nhiều bình luận văn chương (đặc biệt là thơ và tiểu
thuyết), âm nhạc, về các sáng tác của các tác giả người Việt trong và ngoài nước.
Chưa kể đến những biên khảo về chính trị, những nhận định về tình hình Việt Nam
được phổ biến trong các tạp chí, tuyển tập phát hành trong cộng đồng Việt Nam Hải
Ngoại. Đây không chỉ là những kiến thức uyên bác khách quan, nhưng còn phản ảnh
những nỗi thao thúc, những tình tự của người con xa xứ, khao khát muốn sớm thấy
tổ quốc Việt Nam sớm được dân chủ và tự do.
Nhưng bên trên, bên ngoài một Lê Mộng Nguyên tài ba và thành
đạt đó, điều đáng cho những người tiếp cận ghi nhớ chính là con người và cung cách « kẻ sĩ »
của anh.
Người xa khi nghe đến tên tuổi và sự nghiệp của Lê Mộng
Nguyên hẳn sẽ ngạc nhiên khi trực tiếp tiếp cận qua liên lạc thư từ, trò chuyện,
tâm sự hay sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật với anh. Có duyên gặp anh rất trễ từ
sau năm 2000, nhưng qua cách nói, nơi thái độ niềm nở ân cần, và nhất là với nụ
cười và cái nhìn thiết thân của anh, ngay trong lần đầu tiếp xúc tôi giật mình
đối diện với một « kẻ sĩ »[2]
mà tôi tưởng chỉ có thể hình dung trong ước lệ văn chương. Thái độ khoan thai,
cách ăn mặc nghiêm túc nhưng dung dị, lời nói cẩn trọng nhưng hết sức chân
thành ấm áp, vẽ ra trước mắt tôi chân dung một nhà nho trong văn hóa truyền thống.
Nụ cười dễ dàng và cái nhìn rất hồn nhiên của anh như sao chép hình ảnh một
chân nhân của đạo học hoàn đồng. Phải, nơi anh, có vết tích nét thanh cao, bình
dị của văn hóa Á Châu, có tác phong lắng nghe, lối tiếp cận tự nhiên, thẩng thắn,
tinh thần bình đẳng và sẳn sàng phục vụ
của tinh hoa văn hóa Tây Phương. Nói theo kiểu nói của người Pháp, anh là
« sinh loại họa hiếm » trong một xã hội thích tôn vinh những con người
phô trương, cao ngạo và hời hợt nhất thời.
Có một điểm làm cho người tiếp cận ngạc nhiên nữa đó là sự
tha thiết gần như quá mức của anh về những sáng tác thơ văn và âm nhạc, những
tiểu thuyết, truyện, tùy bút, hồi ký, luận văn … của người Việt sống kiếp
lưu vong. Trong lời nói đầu
cuốn sách của anh tựa đề Nhà Văn Hải Ngoại
do nxb Nắng Mới, Đức Quốc, xuất bản
năm 2006, anh từng thổ lộ :
« Tôi đã viết với quả
tim, hơn là theo lý trí, và với nhiều cảm xúc, rung động của tâm hồn, tôi muốn
quí độc giả chia xẻ nhũng giây phút hạnh phúc hay nhớ nhung mà thơ văn, nhạc viễn
xứ đã đem lại cho tôi. » (trang
7)
Mối thâm tình thân thuộc đối với đồng hương xa quê, nỗi nhớ nhung kỳ lạ đã chi phối chính con
người anh, văn phong trong các sáng tác, tất cả
như cũng chỉ là những biểu hiện phát xuất từ nguồn suối thi ca mà chúng
ta đã ghi nhận qua nhạc của Lê Mộng Nguyên : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Văn hóa Hy-lạp gọi Suối Xưa (ẩn kín) nơi bản nhạc Trăng Mờ
Bên Suối là Đại Ký Ức (Μνήμη), là Nguồn hứng của thi ca đến từ bên kia bờ, là nơi mà Lão Tử trong Đạo
Đức Kinh gọi là Huyền Môn[3]. Suối Xưa
đó chính là tên gọi của Lời sâu kín
cư ngụ nơi tâm hồn của mỗi người.
Theo như lối định nghĩa thi
ca của Socrate[4],
từ Nguồn Suối Xưa, Lời Người hẹn từ
muôn thủa làm tan biến những hiểu biết của trí khôn tính toán so đo, và đồng
thời thổi vào « người thi sĩ » một hồn thơ, một linh khí giúp
« kẻ ngộ duyên » ấy có thể nói lên chiều kích thần thiêng của nhân
tính. Lời Người hẹn đó cũng là
« Thi » hay Lời Thơ giúp « kẻ sĩ » nói lên
được lời nhân nghĩa như trăn trối của Khổng Tử cho con của Ngài là Bá Ngư[5].
Và cũng do tác động của Nguồn Suối Xưa,
Nguồn suối bên bóng trăng mờ, mà trong đại tác phẩm Prométhée bị trói, thi hào
Eschyle hứng khởi loan tin về nét cao cả của nhân tính nơi mối tương giao kỳ bí
(relation nocturne, mystérieuse) với Đấng Tối Cao hay Thần giấu mặt :
Iô : Những
giấc mơ đêm đêm ghé giường trinh nữ của tôi, và thì thầm bên
tai : « Hởi nhi nữ đầy ơn phúc, tại sao phải ở không như thế,
khi nàng có thể có được phu quân là Đấng Tối Cao ? Nàng có biết Thần Zeus,
vì nguồn tình yêu nồng cháy của Ngài, đã say đắm nàng : xin nàng chớ từ
chối thần duyên nầy (γάμου… μεγίστου)! (Eschyle, Prométhée
bị trói, cc. 645-651).
Chính vì cảm hứng từ Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa mà ca khúc Trăng
Mờ Bên Suối đã làm làm sống lại Đại
Ký Ức hay Nguồn Suối thần thiêng
nơi tâm hồn của người Việt chúng ta. Cảm hứng kỳ lạ, hẳn không phải do tài gì
của chàng thanh niên Lê Mộng Nguyên mà phát sinh, nhưng là Duyên thi ca đến với
anh. Cảm hứng đó là hồn thơ người Việt lên tiếng nói, một hồn thơ đã đến với
Vũ-Quỳnh (trong Lĩnh Nam chích quái,
1492), Nguyễn-Du (trong Kiều, đầu thế
kỷ XIX), Tản Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu (trong Thề
Non Nước ,1922) … trước đây. Hồn thơ đó làm rung động người dân Việt, làm
nên nét tinh hoa văn hóa Việt, và đủ sức đưa văn hóa đó vào gia sản chung của
văn hóa nhân loại.
Thực thế, trong truyện huyền
thoại dựng nước Họ Hồng Bàng của cuốn Lĩnh
Nam chích quái do Vũ Quỳnh hiệu
chính, Âu Cơ là Mẹ muôn người, là Nguồn của người « linh ư vạn
vật », khi người nữ nầy là hiện thân của Nổi Nhớ Lạc Long Quân và là người gặp « Người hẹn cùng ta » ấy ở Tương Dạ (Tương Dạ đúng là « Đêm
gặp gỡ » hay Tâm sâu kín nối kết Trời Người và mọi người với nhau) :
Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân (…) Bố ở phương nào,làm cho mẹ
con ta thương nhớ. Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ.[6]
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa cũng
là lời Đạm Tiên - Người mà thủa xưa
ai cũng khao khát mến chuộng, nhưng nay vì
« má đào, tài sắc » của thân phận con người « vốn lãng quên mệnh
thanh cao của mình », nên đã bị vất bỏ bên lề cuộc sống -. Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời đến từ bên kia bờ đến với Kiều
trong « giấc mộng ban đêm » tiên đoán cơn đau của cuộc chiến Tài-Mệnh,
cuộc chiến làm người hướng đến Duyên cứu độ (Giác Duyên) trên sông Tiền Đường.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời Thề
Non-Nước lời thề của nhân tính
linh thiêng phát sinh từ cội nguồn cao cả đến với con người bị cuốn trôi bởi lo
toan thế sự. Non ấy của thi sĩ Tản Đà
không phải là Người hẹn cùng ta của
nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên hay sao ?
Nước Non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng Non
Nhớ nhời nguyện nước thề Non
Nước đi chưa lại Non còn đứng
không (trích Tản Đà, Thề Non Nước)
Người
hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng
chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một
đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi
đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, Trăng Mờ Bên Suối)
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, Trăng Mờ Bên Suối)
Không thể không thấy
rằng các sáng tác của Lê Mộng Nguyên thể hiện lối văn chương và thi ca tiếp liền
các trào lưu thời tiền chiến, nhưng nguồn thi hứng và văn phong của tác giả
không chìm vào những giấc mộng « ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây »
của các tác phẩm tác chịu ảnh hưởng phái lãng mạng Pháp. Con người và văn phong của Lê Mộng Nguyên, đặc
biệt trong kiệt phẩm Trăng mờ bên suối
có một nét độc đáo vượt lên trên các trào lưu.
Một Âm hưởng, một Lời
thơ nào đó lạc bước đi vào văn chương và con người của anh. Phải chăng Âm hưởng
và Lời thơ đó tiếp cận được điều mà triết gia Karl Jaspers nói là dư âm tiếng gọi
con người thời đại vượt cảnh vực thế sự để suy tư về cõi linh thiêng muôn thủa
của tâm hồn mình.[7]
[1]
Điều đáng lưu ý là đa số các đạo diễn điện ảnh Việt-Nam vào các thập
niên 50, 60,70 là gốc người Huế, trong đó có đạo diễn Lê Mộng Hoàng là anh ruột
của Lê Mộng Nguyên.
[2] Nhận xét nầy của người viết chỉ là phản ảnh những cảm tưởng của các giáo
sư, các nhân sĩ, các sinh viên…, tóm lại là các tham dự viên các khóa Đại Học Hè VNHN (khóa 6 - tháng 07/
2002 tại Oslo, Na-Uy, khóa 7, tháng 08/2003 tại Violau, Đức), Ngày gặp gỡ các tôn giáo Viễn Đông,
tháng 03/2004, tại Centre St. Thomas, Strasbourg, Pháp), Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên VNHN (tháng 08/2008, tháng
08/2009 ở Bruxelles) do Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức.
[4] PLATON, Ion.
534 c-d; 534 e :.Socrate.- Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng
là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình
bày lưu loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng
thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài
năng lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những
tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu
được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi
lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần
chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ !
[5] Luận Ngữ,
XVI-13 : Bất học Thi, vô dĩ ngôn
- Không học Thơ, không có lời để nói.
[7] Khi mô tả sứ
điệp văn hóa của các thánh nhân, Karl Jaspers viết : Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà
còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận. Vì thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và
nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một
người trong toàn thể nhân loại. (Les
grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989,
tr. 36)