Thế Kỷ Của Văn Học Quốc Ngữ, Thế Kỷ XX

Nguyễn Văn Sâm (Port Arthur, Texas, Hoa Kỳ.)

Trước khi người Pháp chiếm Việt Nam ba từ thông dụng quốc ngữ, quốc âm, quốc văn được dùng để chỉ chữ Nôm, là thứ chữ dùng rộng rãi trong dân chúng nước Việt. Các bài thơ viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Thuyên vì vậy được gọi là thơ quốc ngữ. Cũng dùng trong nghĩa đó các nhà văn xưa thường đề tên tác phẩm của mình với cụm từ quốc ngữ như Quốc Ngữ Ca của Tả Ao, Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi...Lý Văn Phức, trong Nhị Thập Tứ Hiếu nói rằng mình muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm. 
Ta không lạ khi thấy các quyển Y Dược Quốc Ngữ Ca, Quốc Ngữ Gia Truyền, Quốc Ngữ Mạch, Quốc Ngữ Mạch Ca... cũng như các quyển Quốc Âm Ca Dao Tập, Quốc Âm Ca Thi, Quốc Âm Diễn Thi, Quốc Âm Diễn Tự, Quốc Âm Dụng Dược Gia Truyền, Quốc Âm Phú... được viết bằng chữ Nôm.

Khi người Pháp chiếm xong Việt Nam thì ý nghĩa của từ quốc âm, quốc ngữ, quốc văn bị đổi nghĩa. Ai cũng biết bộ sách thông dụng Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Ai cũng nghe câu nói danh tiếng của Nguyễn Văn Vĩnh: Nước Nam ta sau nầy hay hay dở là cũng ở chữ quốc ngữ. Vậy thì chữ quốc ngữ là thứ chữ do các cố đạo Bồ Đào Nha dùng các yếu tố trong chữ La tinh để ghi âm tiếng Việt, chớ không còn là thứ chữ thuộc khối vuông mượn từ các yếu tố chữ Hán như trước nữa. Nhiều sách vỡ còn ghi nhóm từ chữ quốc ngữ mới, nhưng càng về sau thì tính từ mới rớt mất lần đi. Những chủ nhân ông mới của nước ta muốn chánh thức loại bỏ chữ Nôm, thứ chữ biểu ý, có nhiều khuyết điểm để thay bằng thứ chữ mới biểu âm, đơn giản, dễ học, là sản phẩm xa gần dính dáng đến họ... (1)

Cũng giống như trường hợp ở các nước Nhật Bản và Trung Quốc trong việc phiên âm văn tự của hai nước nầy bằng mẫu tự La tinh, các cố đạo Tây phương ban đầu đặt ra chữ quốc ngữ Việt Nam chỉ nhằm mục đích giản tiện cho họ trong việc học tiếng địa phương để giao tiếp và truyền giảng mà thôi. Họ theo nguyên tắc ghi chép, theo ký hiệu, tiếng nói của quốc gia mà mình đương truyền đạo. Họ không có ý định làm ra một thứ chữ mới cho dân Việt, cũng không nhằm ý hướng thay thế hệ thống chữ cũ vốn từ lâu ăn sâu vào đời sống văn hóa của dân tộc nầy. Tuy nhiên thứ chữ mới được đặt ra nhờ ưu điểm dễ học, dễ nhớ, dễ in, dễ viết.. nên đã đi ra khỏi phạm vi họ đạo, về sau lại được chánh quyền hổ trợ để quảng bá, dần dần trở thành thứ chữ chánh thức của cả nước, đánh bạt thứ chữ quốc ngữ cũ, rồi theo thời gian đã trở thành loại văn tự chánh thống của nước Việt ta.

Không phải chữ quốc ngữ không có những khuyết điểm (2). Nhiều người còn coi các dấu giọng là khuyết điểm và muốn thay thế bằng các con chữ trong mẫu tự La Linh mà chữ quốc ngữ chưa dùng đến như j, z, f... Chữ quốc ngữ cũng không thể ghi hết các âm địa phương của người Việt cho nên chúng ta có tình trạng giọng Miền Trung khác với chữ viết ở các dấu và các âm cuối. Nhưng các khuyết điểm nầy nếu sửa chữa thì chữ quốc ngữ sẽ trở thành quá rắc rối, mất ưu điểm đơn giản vốn là yếu tính cơ bản của nó. Cuối cùng thì trong gần ba thế kỷ sanh thành và hơn một thế kỷ tăng trưởng, với thật nhiều đề nghị sửa đổi nhưng không bao giờ được áp dụng (3) chữ quốc ngữ đã giữ vai trò thật sự là văn tự của nước ta tuy rằng về hình thức nó không khác mấy với lúc được sáng chế. So sánh chữ quốc ngữ ngày nay với bản in Phép Giảng Tám Ngày của A. DeRhodes ta sẽ thấy ngay điều đó.


Trong bao nhiêu năm được sử dụng, thứ chữ nầy tất nhiên ghi lại được đời sống tinh thần của dân tộc cũng như ghi lại một nền văn chương mới của người Việt mà chúng ta gọi là nền văn chương quốc ngữ của văn học Việt Nam. Và cho đến bao giờ mà chữ quốc ngữ còn tồn tại thì văn học quốc ngữ vẫn còn tiến triển không như các loại hình văn học Hán Nôm đã thực sự đứng hẳn trong đời sống văn chương Việt.

Tuy không ai hoang tưởng mà cho rằng chỉ vì những tiện lợi của chữ quốc ngữ cho nên văn học Việt Nam thế kỷ 20 nở rộ, chỉ riêng bước đi của thế kỷ nầy không thôi cũng bằng mấy lần của cả từ thời lập quốc đến hết thế kỷ 19, nhưng ai cũng nhận rằng chính hình thức đơn giản của chữ quốc ngữ góp một phần quan trọng, phần còn lại là các yếu tố khác như dân tộc bớt bị câu thúc chặt chẽ trong tư tưởng, giao tiếp dễ dàng với các trào lưu văn minh, sự phát triển vượt bậc của nền in ấn phát hành, tình trạng dân trí được nâng cao... Khi làn sóng văn minh Tây Phương đến đâu thì tất cả mọi thứ nơi đó đều nở rộ, đó là chuyện đương nhiên, cho nên văn học quốc ngữ --nói cách khác là nền văn học Việt Nam khi thật sự giao tiếp với các trào lưu tư tưởng Tây Phương cho tới ngày nay-- có vai trò thu nhận những sức tiến bộ trong tư tưởng Âu Tây để từ đó lấy đà kiến tạo một hình thái văn học mới cho người Việt ngang hàng với các nền văn học khác trên thế giới. Sự thành công hay thất bại của vai trò nầy tùy thuộc vào ý thức trách nhiệm của những người làm văn nghệ và các cách sử dụng văn nghệ của từng chánh quyền của mỗi giai đoạn, đám đông quần chúng chỉ đóng vai trò vô cùng thứ yếu mặc dầu lúc nào cũng được đề cao là quan trọng.

Vậy thì đặc tính Văn học quốc ngữ trong hơn một thế kỷ vừa qua như thế nào?

Tổng quan ta có thể thấy các đặc điểm sau:

1. Văn Học Quốc Ngữ, ngay từ những năm đầu tiên, cố gắng tạo nên hình dạng của mình, cho có mặt cái đã. Chuyển qua một dạng chữ viết mới với những cánh rừng mịt mùng chưa khai phá trước mặt, người viết không thể một sớm một chiều vứt bỏ các cách thế suy nghĩ của viết lách cũ xưa vốn mang nặng từ lâu. Họ cũng chưa có kinh nghiệm để đi thẳng vào những thể loại viết mới như văn xuôi, truyện ngắn, truyện dài dầu đã thấy các thể loại nầy thành công và đang thịnh hành trong văn học Tây phương. Với những trở ngại đó, Văn Học Quốc Ngữ một thời gian dài ban đầu chỉ là một hình thái khác của Văn học chữ Nôm. Nó chỉ khác mới ở loại hình văn tự mà không khác mới về mặt tư tưởng cũng như các thể loại sáng tác. Nói cách dễ hiểu giai đoạn đầu Văn Học Quốc Ngữ là Văn Học Chữ Nôm hóa dạng.

2. Có hình dạng rồi, mặc dầu còn thật mơ hồ, Văn Học Quốc Ngữ cũng đã mạnh dạn tiếp tục bước trên con đường định hình. Công việc quan trọng nhưng không tốn nhiều suy nghĩ là dịch các sáng tác phẩm ngoại quốc sang quốc ngữ bằng văn xuôi, thể loại mà văn chương chữ nôm trước đây rất ít dùng, giờ đây thức giả ai cũng thấy hai nước Trung Hoa và Pháp dùng nhiều. Việc dịch thuật kiểu nầy có thể được coi như công phu tập tành làm cho trơn tru cách viết quốc ngữ sau nầy. Giai đoạn nầy cũng là giai đoạn đi vào quảng đại quần chúng bằng những chuyện ngoài đời được viết bằng các sáng tác ngắn hơi xuất bản dưới hình thức các tập sách mỏng hay in trên báo chí. Tư tưởng văn học thuần túy của giai đoạn nầy không có bao nhiêu, người viết truyền bá lại những tư tưởng có sẵn do thu thái được trong khi học khi đọc hơn là sáng tác ra từ chính nội tại suy tư của mình.

3. Khi đã định hình rồi thì Văn Học Quốc Ngữ như tin tưởng hơn ở mình. Với những kinh nghiệm về câu văn trong việc dịch, với những hình thức mượn của văn học nước ngoài Văn Học Quốc Ngữ lớn mạnh thật sự với sự rần rộ của các truyện ngắn, truyện dài, thi ca, các tác phẩm khảo cứu v.v. Đây là giai đoạn thật sự có mặt của một nền văn học với tất cả những cá biệt và vai trò của từng tư tưởng, từng thời kỳ, từng người viết...

4. Sau khi cực thịnh, Văn Học Quốc Ngữ do tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó trong quần chúng nên bị lợi dụng hay bị cuốn hút vào vòng chánh trị phe nhóm nhứt thời. Văn Học Quốc Ngữ từ đây bị phân hóa theo bước đi truân chuyên của dân tộc. Những năm cãi cọ giữa duy tâm và duy vật trước khi đất nước chia hai, những năm thù nghịch tô hồng, bôi bẩn, một chiều do sự lưỡng phân thành hai nền văn học Quốc-Cộng và hai khuôn mặt văn học trong-ngoài nước Việt... đều có nguyên ủy từ ảnh hưởng quá mạnh của văn học quốc ngữ trong dân chúng. Văn học thời nầy không giống như thời xưa, cách xa với chánh trị, gần gũi với dân chúng và xuất phát từ cái tâm không nhiễm trần lụy của người viết. Thời nầy, đa phần văn học không phản ảnh được nội tâm thật sự của tác giả mà biểu lộ phần lớn con đường chánh trị họ bước theo, dầu ý thức hay không ý thức, trực tiếp hay gián tiếp.


Mỗi giai đoạn, nếu đi sâu vào chi tiết ta có thể chia làm nhiều giai đoạn ngắn hay những sự kiện nổi bật (khuynh hướng, nội dung, thể loại...) những nhân vật tên tuổi gắn liền với văn học (nhà văn, nhà thơ, nguời viết sách báo... ) cũng như những trường hợp đi ngoài con đường tổng quát của trào lưu.

Vậy thì dựa theo nhận xét trên ta có thể chia Văn Học Quốc Ngữ thành bốn giai đoạn chính:

Giai đoạn đầu (1862-1897):


Giai đoạn nầy bắt đầu từ năm 1862, năm người Pháp đánh lấy và đặt nền cai trị ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đến năm 1897, là năm ra đời của tờ báo Nam Kỳ Địa Phận ở Sàigòn (hay những năm gần đó như 1898, năm Trương Vĩnh Ký từ trần, 1901, năm tờ Nông Cổ Mín Đàm xuất bản.)

Thời gian nầy chữ quốc ngữ mới thật sự bước vào vùng ánh sáng ra mắt quảng đại quần chúng trong khi chữ Nôm và chữ Hán đã có mặt và đương chống trả lại để khỏi bị đào thải. (4) Là thứ chữ đi sau, được hợp thức hóa bởi tân trào và dùng bởi những người gọi là theo tân trào, được yểm trợ bởi những người theo Hoa Lan đạo mặc dầu hiện tại đang có thế giá và vai trò chánh trị (5) nhưng chữ quốc ngữ lúc khởi thủy không được số đông đảo người theo. Thời nầy còn để lại biết bao giai thoại về những gia đình giàu có khi bị làng xã chỉ định con cái phải theo học chữ quốc ngữ đã mướn người đi học thế để con mình ở nhà theo mấy chữ chi hồ giã dã gọi là nối gót con đường thánh hiền của ông bà. Câu thơ của Trần Tế Xương vất bút lông đi lấy bút chì là một lời mỉa mai thứ chữ của tân trào hơn là một sự biểu đồng tình của người theo mới. Thời nầy nếu ai dùng chữ quốc ngữ để sáng tác thì chắc chắn rằng họ cũng là người đã được đào luyện trong nền học vấn cũ, họ vì vậy cảm thấy thoải mái trong việc viết bằng chữ Hán chữ Nôm hơn là thứ chữ mới cho nên khi viết bằng quốc ngữ thì họ suy nghĩ và đi theo những khuôn phép của chữ Nôm, chỉ chuyển dịch điều mình viết ra loại hình quốc ngữ mà thôi. (6)


Đọc bài thơ Tuyệt Mạng (7), bài Nhứt Nhựt Thanh Nhàn hay bài thơ Thường Bả Nhứt Tâm Hành Chánh Đạo (8) của Trương Vĩnh Ký không ai nghĩ rằng những bài nầy được viết bằng quốc ngữ. Ai cũng thấy rõ ràng rằng cảm hứng, nghệ thuật, cung cách diễn tả, cách dùng chữ đều không khác gì sáng tác của các nhà văn Nôm Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường (9), Nguyễn Khuyến của thời kỳ nầy. Đọc bài thơ quốc ngữ Lên Chơi Núi Điện Bà (10) của Sương Nguyệt Anh, ai cũng thấy rằng những yếu tố văn chương và tư tưởng không khác gì hết với Bà Huyện Thanh Quan.

Một tác giả khuyết danh, với bài Ngũ Canh Vãn đăng trong tờ học báo Thông Loại Khoá Trình của Trương Vĩnh Ký vào năm1889 (11):


Chạnh lòng khoăn khoái tưởng lo xa,
Mới đó sao canh đã đến ba.
Sương bủa hòa trời sao rải rác,
Tuyết giăng khắp núi nguyệt dần dà.
Bâng khuâng sầu thúc khôn cầm lụy,
Thốn thức (11B) buồn tuôn biếng nói ra.
Những mảng so đo tìm lẽ hỏi,
Hỏi ai hơn hỏi tấm lòng ta....

Con đường sáo ngữ của thơ nôm vẫn còn để lại dấu vết sau đậm trên bài thơ nầy: tuyết giăng khắp núi, không cầm lụy, buồn tuôn biếng nói... Đó là chưa kể chính hình thức Đường luật đã làm cho người đọc khó phân biệt được đâu là thơ quốc ngữ, đâu là thơ nôm.

Đọc một đoạn thơ sau, bạn nghĩ rằng đây là sản phẩm bằng quốc ngữ hay bằng chữ Nôm, nó có gốc tích bên Tàu hay bên Tây?

Có người phú quí trên đời,
Huình Trâm tổng trấn ở nơi tây thành.
Lòng nhơn đạo, nết hiền lành,
Xa xôi mến đức, gần quanh đẹp lòng.
Một ngày rảo bươc thơ phòng,
Xem hai bức tượng, xét đồng tài nhau.
Phút đâu nghe động cửa lầu,
Giựt mình ngước mặt day đầu ngó ra.
Thấy công tử bước vào nhà,
Tuổi xuân tươi tắn, mặt hoa vui mầng.
Hỏi rằng gặp hội long vân
Bảng rồng tên đứng đặng lần nầy chăng?
Con là An-Pháp thưa rằng.....

Thưa đấy là phần đầu của truyện Phú Bần Truyện Diễn Ca (12) của Thế Tải Trương Minh Ký. Đây là bản dịch ra quốc ngữ một quyển tiểu thuyết Pháp thời đó. Dịch giả đã sử dụng thể lục bát mà nguyên tác chúng ta có thể quyết đoán rằng được viết bằng văn xuôi. Lý do cũng dễ hiểu thôi, Trương Minh Ký vẫn còn chịu ảnh hưởng của nền văn học Hán Nôm với sự lấn lướt của các thể loại văn vần, ông viết văn vần dễ dàng hơn viết văn xuôi.....

Giai đoạn nầy có tác giả lại in tác phẩm mình bằng hai thứ tiếng, khi thì bằng quốc ngữ, khi thì bằng chữ Nôm (13). Ông Trương Minh Ký viết nhiều sách, in quyển Như Tây Nhựt Trình của mình bằng chữ Nôm. Bản quốc ngữ cũng phát hành khoảng thời gian nầy (14). Có tác giả, vì lý do nầy khác, được dịch tác phẩm mình từ quốc ngữ ra chữ Nôm (15). Điều nầy càng cho thấy rằng đối với người chú trọng đến văn chương Việt Nam thời nầy chỉ có sự thay đổi về hình thức văn tự, chứ chưa có sự thay đổi dứt khoát trong bất kỳ yếu tố gì của sự tạo thành một tác phẩm văn chương.

Thời nầy, để củng cố chữ quốc ngữ, để cho dân chúng làm quen với thứ chữ mới, các tác giả quan trọng lo viết sách dạy chữ quốc ngữ, (Trương Minh Ký, Petrus Ký), soạn tự điển (Petrus Ký, Huình Tịnh Của ) sưu tập các câu ca dao, tục ngữ (Huình Tịnh Của, Petrus Ký), ghi chép các truyện kể trong dân gian (Huình Tịnh Của, Petrus Ký). Vì chưa muốn đoạn tuyệt hẳn với nền văn hóa Hán học nên các tác giả nầy cũng lo dịch thuật các tác phẩm nho gia có giá trị lâu dài (Petrus Ký), phiên âm và chú giải các tác phẩm được viết bằng chữ Nôm (16) (Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký, Petrus Ký) hay cố gắng diễn tả những vấn đề đương thời bằng quốc ngữ (Trương Minh Ký, Huình Tịnh Của, Petrus Ký). Nhìn chung các công trình nầy thật là có giá trị, cho tới nay cả trăm năm sau, không mấy ai có công nghiệp vượt qua những vị nầy. Bộ tự điển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1896) của Huình Tịnh Của là công trình khoa học, nghiêm túc, kế thừa được những gì các cố đạo đi trước đã làm còn ghi lại được thực trạng của ngôn ngữ Việt Nam cuối thế kỷ 19, đến bao giờ còn có người nghiên cứu văn học thế kỷ 18, 19, còn có người muốn biết trước đây ông bà chúng ta nói chuyện bằng những ngôn từ như thế nào, sinh hoạt ra sao thì quyển tự điển nầy còn có ích lợi thực dụng (17). Quyển Như Tây Nhựt Trình cho thấy được tinh thần hiếu học, muốn biết thật tường tận, thật nhiều chuyện khi tác giả đến một vùng đất lạ; các bản phiên âm tuồng Phong Thần Bá Ấp Khảo, Tuồng Thúy Kiều là sự giữ gìn thật hữu hiệu phần nào tài sản quý giá của dân tộc (18). Các công trình văn hóa của Petrus Ký là những viên gạch vững chãi nhứt để lót con đường xa lộ thênh thang quốc ngữ về sau nầy, việc đi sâu vào từng tác phẩm của ông cũng không phải là chuyện dễ dàng vì ông rẽ sang nhiều ngành quá chuyên môn. Riêng quyển Nữ Tắc ông phiên âm cẩn thận và chú thích tường tận đến nay ta khó lòng làm hơn được đối với một quyển nôm nào đó tương tợ. Cũng nhờ có ông mà tác phẩm nầy tồn tại vì cho tới ngày nay chúng ta khó tìm thấy bản Nôm Nữ Tắc! (18B) Quyển Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca ông phiên âm và xuất bản cách đây hằng trăm năm cho đến bây giờ các bản in lại đều dựa một phần lớn trên công trình đó với những thêm thắt thật nhỏ, không đáng kể, đó là chưa kể có những sửa chữa làm cho sai lìa nguyên tác! Quyển Phong Hóa Điều Hành của ông, tuy là sự thu góp túi khôn của các hiền sĩ mượn từ các sử sách và chuyện đạo Tây phương nhưng cũng đưa ra được những chuẩn thằng của con người phải sống xứng đáng con người trong thời đại giao tiếp với Tây Phương. Các bài Kiếp Phong Trần, Bất Cượng Chớ Cượng Làm Chi... nói lên quan niệm sống Trung dung, thanh bần, bất cầu của ông. Nói một cách khác, về tư tưởng Trương Vĩnh Ký xa gần muốn đặt ra những cương chỉ cho con người quân tử mới trong hoàn cảnh mới có bóng dáng người cai trị mắt xanh mũi lõ trên quê hương chúng ta.

Về văn từ, nhìn chung, ta có thể thấy trong bất cứ sách nào của những người thời nầy là một thứ văn chương không có mục đích làm văn chương, thứ văn-chương-đời-sống-hằng-ngày để sự thấm nhuần của người đọc được tối đa về mặt ý tưởng.

Thời nầy một ngôi sao loé lên trong một công việc mà chưa ai làm trước đó là viết truyện ngắn theo lối Tây Phương: ông Nguyễn Trọng Quản. Văn Nguyễn Trọng Quản gọn gàng, sáng sủa, kể truyện không rườm rà, hợp lý tuy rằng nghệ thuật dựng truyện của ông chỉ là nghệ thuật bước đầu của truyện ngắn. Nhìn chung, giá trị lịch sử của truyện ngắn Truyện Thầy Lazarro Phiền mở đầu cho sự bứt xiềng ra khỏi những vướng víu ràng buộc với văn chương Hán Nôm của thể loại sáng tác bằng văn xuôi vốn chỉ mới là những bước chân mò mẫm dè dặt từ Huình Tịnh Của và Petrus Ký trong các Truyện Khôi Hài và Truyện Đời Xưa. Tiếc rằng Nguyễn Trọng Quản viết chỉ độc có truyện đó rồi thôi-- dầu rằng ông có quảng cáo một cuốn nữa đã viết xong. Không có ai theo chân ông liền sau đó nên thể loại truyện ngắn vắng mặt một khoản thời gian tương đối dài, phải đợi mấy chục năm sau mới trở lại trên địa bàn văn chương miền Bắc bằng các sáng tác của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học... (19)

Thời nầy cũng có lác đác vài tác phẩm liên quan đến chánh trị, hoặc là ủng hộ tân triều, hoặc là kể tội tân triều cùng những người theo chân bọn họ. Vè Khâm Sai, chống Pháp, chúng ta chỉ thấy được dạng quốc ngữ do Trương Vĩnh Ký in trong Thông Loại Khóa Trình nhưng không cho biết trước đây nguyên văn được viết ở dạng nào. Khảo cứu các tác phẩm nầy thuộc một đề tài tổng quát về văn chương hay tư tưởng Việt Nam, phù hợp hơn đề tài Văn Học Quốc Ngữ vốn dĩ giới hạn trong hình thức.

Vè Khâm Sai, có đoạn sau đáng được trích dẫn:

Sau lên Phong thữ, Nghĩa dõng tứ vi.
May chẳng hề chi, nhờ ba chú Pháp.
Thân qua Yển giáp, Trở lại La Thanh.
Từ ấy thất kinh, vừa làm vừa sợ.
Tướng chi, tướng dỡ! Vị luyện quân tinh.
Chẳng có Tây binh, e không khỏi chết... (20)

Bài Tân Trào Nhơn Chánh Ca, thân Tây, sau khi ca tụng Tân trào làm nhiều điều hay như là: sửa cầu (tu-kiều), bồi lộ, đào kinh, trồng trái (chưởng đậu), sưu thuế có hạng thứ lề luật, lập nhà thương, lập dây thu lôi, làm nhà dây thép.... tác giả khuyên người dân:

Nắng bề nào phải cho xuôi đỡ bề,
Làm ăn theo phận thú quê.
Thính thiên thuận mạng chớ hề thày lay,
Phận mình bụi bụi tro bay,
Dễ đâu châu chấu chống nay xe rồng... (21)

Tóm lại, bước đầu trong việc vun trồng cho lớn mạnh cây tùng bách Văn Học Quốc Ngữ là công trình của những cây bút cự phách trong vùng lưu dân tân địa Nam Kỳ. Về sau Miền Bắc ngàn năm văn hiến mới nối tiếp với những tác giả làm việc không biết mệt mỏi của các nhóm Đông Dương Tạp Chí Và Nam Phong Tạp Chí.

Thời kỳ nầy, dầu quốc ngữ mới manh nha người ta đã thấy ảnh hưởng của nó cho nên các xu hướng chánh trị cũng phản ảnh trên các sáng tác thời đó.

Giai đoạn hình thành: 1897-1930.

Những sáng tác ngắn hơi:

Các sự kiện nổi bật của giai đoạn nầy là những sáng tác ngắn hơi có tánh cách thời sự ở trong Nam và hai tờ báo quan trọng đến con đường học thuật Việt Nam ở ngoài Bắc.

Sau khi các tờ báo Nam Kỳ (Địa Phận, 21 10 1897), và Nông Cổ Mín Đàm (1 8 1901) xuất hiện và sống mạnh, các người viết lách thời đó đã thấy rằng chuyện thời sự vốn được quần chúng ưa thích hơn chuyện văn chương chữ nghĩa thuần túy cho nên trong hai thập niên đầu của thế kỷ 20 chúng ta có thật nhiều những tác phẩm ngắn hơi, viết bằng thể lục bát bình dân, nói về chuyện thiên hạ sự: Chuyện con gái kén chồng, rồi lỡ thời, chửa hoang (Vè con gái kén chồng của Đặng Văn Chiểu (22) ). Chuyện vợ lớn vợ bé (Vè con cua của Phạm Thành Kỉnh, Vè vợ Tây của Trần Thiện Thành, Vè Vương sinh mê mèo bỏ mạng của Lê Trung Thu, Vè vợ lớn vợ bé, Vè vợ nhỏ đánh vợ lớn của Nguyễn Đăng Hưỡng, Vè vợ lớn vợ bé đánh ghen của Đinh Thái Sơn. Các chuyện về du côn, tù rạc, cờ bạc, hút sách... (Thơ Sáu Nhỏ, Thơ Sáu Trọng, Thơ Cậu Hai Miêng, Thơ Năm Tỵ, Thơ Vân Tiên ghiền, Thơ Vân Tiên Cờ Bạc)....

Xem bảng quảng cáo sách mới in ra tháng 9 1915 của nhà xuất bản J. Viết ta thấy tính chất thời sự được nhà xuất bản chú ý: Vè cô Năm nhỏ, Vè thiện ác đáo đầu, Vè cứu vật vật trả ơn, Vè các thím đánh bài giờ, Vè Châu Thành Sàigòn, Vè gái du giang hồ, Vè anh hà tiện, Vè giải oan cho vợ chệt vợ chà... (23) Thư Viện Quốc Gia Pháp còn chứa nhiều các quyển loại nầy như: Vè Chết Chém Lê Hườn Nhi Long, Vè Ông Già Mười Bảy Cưới Gái Bảy Mươi, Vè Cô Năm T. Chôn Con, Thơ Mẹ Ghẻ Giết Con Ghẻ, Thơ Mừng Đại Pháp Quốc Với Đồng Minh Thắng Trận, Thơ Tuồng Lính Tập Đi Tây, Thơ Phan Xích Long Hoàng Đế Bị Bắt, Vè Máy Bay....

Tôi cho rằng người viết văn thời nầy đã coi chữ quốc ngữ như phương tiện hữu hiệu nhứt để nói với đám đông quần chúng về chuyện hằng ngày, chuyện trời ơi đất hỡi thấp tè tè trên mặt đất: chuyện lưu truyền trên cửa miệng của giới bình dân. Nó đã thật sự là công cụ ghi nhận của thể loại văn chương truyền miệng, nó nhắm về những chuyện đầu môi chót lưỡi của con người sống thật sự sống ở trên đời. Hết rồi thời của văn chương chữ nôm với công chúa công nương, đi đâu cũng có vài ba tỳ nữ. Hết rồi thời của Hoàng tử, công tử tướng văn, tướng võ, hoàng hậu, vua cha... Bởi vậy văn viết lúc nầy không có bộ áo trau chuốt, tươm tất, đã dài dòng còn lập đi lập lại như người nói chuyện đương tìm ý, kiếm từ. Cũng vì đặc tính bình dân về mặt văn chương đó ta thấy được rõ ràng như cụ thể trước mắt ta đời sống xã hội của thời đại, một đời sống không phải được đánh bóng bằng những mài gọt, cắt xén của từng lớp nhà văn khoa bảng, chức quyền ở trên cao thời trước hay tầng lớp học thức Tây phương xa rời quần chúng sau nầy.

Đọc một đoạn thơ Sáu Nhỏ:

Bây giờ khó nỗi vẫy vùng
Quản Long đánh chửi vốn không có chừa.
Ma tà cai đội không vừa
Không có đút nhét sớm trưa hành hà.
Luận suy thôi lại thở ra
Vận thời xét lại thiệt là chẳng yên.
Khôn cùng thảm thảm phiền phiền
Ngồi buồn nhớ đến Tôn quyền Châu Do.
Ở đời cuộc thế đắn đo
Nhiều năm đày đọa cam go thân mình.
Lâm râm khấn với thiên đình
Nửa đêm thình lình phá khám Long Xuyên.
Mở mấy chú tôi bị xiềng
Khám đường thả tội nó liền tuôn ra.
Trước sau lính gác ma tà
Trống quân hồi một tựu mà phủ vây.
Quản Long quở mắng vang dầy
Làm sao đến nỗi hội nây rộn ràng (24)

Các việc phiên âm quốc ngữ thời bây giờ thật là rần rộ. Mỗi tác phẩm nôm thường được hai ba, có khi bốn phiên giả chuyển hệ sang quốc ngữ với những thêm thắt, sửa đổi mà các vị nầy gọi là bổn cũ soạn lại. Việc phiên âm với toàn quyền sửa lại bổn cũ như vậy dĩ nhiên làm mất đi tính cách chân xác của nguyên bản Nôm, nhưng ngược lại cũng thúc đẩy được việc đọc, đưa tới tay số đông đảo quần chúng một tác phẩm kiện toàn hơn, trong khi trước đó việc đọc những tác phẩm Nôm vốn là công việc của một số ít ỏi người có học hành và tiền bạc. Tất cả hàng mấy chục truyện thơ bình dân như Lý Công, Chiêu Quân Cống Hồ, Thạch Sanh Lý Thông, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại Khanh Châu Tuấn, Nam Kinh Bắc Kinh, Nàng Út, Ông Trượng Tiên Bửu... được phổ biến là nhờ giai đoạn sửa lại bổn cũ nầy, một giai đoạn không ai phủ nhận được công trình chuyển biến từ hình thức Nôm sang hình thức Quốc Ngữ.

Một số người sau một thời gian làm công việc dịch thuật và sửa lại bổn cũ, cảm thấy tin tưởng ngòi bút của mình hơn bèn bỏ công ra viết tuồng, viết truyện thơ, sáng tác truyện ngắn. Đó là các ông Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Đặng Lễ Nghi... Những người nầy mở đường cho các nhà văn sáng tác sau đó hằng chục năm như Lê HoằngMưu, Trương Như Toản...

Giai đoạn nầy có sự chuyển hình từ thi phổ sang ca khúc với sự phổ biến rộng rãi của chữ quốc ngữ. Mặt đờn ca hồi những thập niên mười phát sinh ca cải lương đã đành, mặt in ấn các bài ca thời nầy thúc đẩy sự hoàn thành mau chóng hơn thể loại văn hóa đặc biệt của thế kỷ nầy. Không thể kể hết các bản in và người đặt, chép bài ca, chỉ xin ghi lại một vài: Bài Ca Cải Lương, Bài Ca Lục Vân Tiên, Bài Ca Sáu Trọng (25), Bài Ca Thập Nhị Tứ Hiếu, Bài Ca Tình Nhân, Bài Ca Tứ Tài Tử, Bài Ca Lục Tài Tử, Bài Ca Bát Tài Tử, Bài Ca Thập Tài Tử, Bài Ca Thập Nhị Tài Tử... và xin ghi nhận rằng về nội dung các bài ca vẫn bám vào các đề tài trong những tác phẩm giờ đây đã được chuyển sang quốc ngữ, chứ không tự mình đứng riêng như một tác phẩm độc lập phát xuất từ trí tưởng tượng của người viết. Các bài ca nầy là những viên gạch căn bản, giá trị, chúng sẽ hợp nhau lại thành lâu đài cải lương chừng độ chục năm sau đó.

Vai trò của báo chí:

So sánh với báo chí, sách vở thua xa việc phổ cập trong quần chúng. Báo chí cũng dễ dàng trong việc viết lách vì mỗi một số có thể chứa thật nhiều đề tài khác nhau, phục vụ cho nhiều người trình bộ bất đồng và sở thích khác biệt. Sách vở nói nhiều đến các tờ báo đầu tiên là Gia Định Báo, Đại Nam Đồng Văn Nhựt Báo v.v.. cũng vì lẽ đóng vai trò lịch sử của nó, xuất hiện sớm. Từ rất lâu ông Trương Vĩnh Ký với nhận định của mình, đã cho xuất bản một tờ học báo để giới thiệu các vấn đề liên quan tới văn học Việt Nam bằng quốc ngữ, đó là chuyên san Thông Loại Khóa Trình Miscellanées (5- 1888). Ông nói trong số ra mắt tờ học báo nầy cái tôn chỉ và mục tiêu của mình:

Coi sách lắm nó cũng nhàm; nên phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú. Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kỳ, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng quốc chí, pha phách lộn lạo, xào bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà chẳng phải là chơi không vô ích đâu: cũng là những chuyện con người ta ở đời nên biết cả. Có ý, có chí thì lâu nó sẽ thấm... (26)

Đó không phải là tờ báo đúng nghĩa mà là tờ học báo cho nên ảnh hưởng trong học giới và học sinh thì nhiều mà tác dụng trong quần chúng thì không có mấy. Thông Loại Khóa Trình sống không đầy hai năm thì đình bản vì người chủ trương không lấy lại được vốn bỏ ra hằng kỳ. Tiếc thay! Nhìn chung Thông Loại Khóa Trình mạnh về phương diện sưu tập, bảo tồn mà vắng bóng những nhận định cũng như sáng tác đương thời. Riêng giá trị bảo tồn tư liệu thôi, Thông Loại Khóa Trình cũng đáng cho ta trân trọng bởi vì ta không gặp đâu khác rất nhiều bài đặc biệt trong đó, nhứt là Lời Truyền Thị của Tôn Thọ Tường, Vè Khâm Sai của nghĩa quân kháng Pháp.

Phải đợi đến hai tờ Nam Kỳ Địa Phận và Nông Cổ Mín Đàm vai trò của báo chí quốc ngữ mới nổi bật. Nông Cổ Mín Đàm (
Zỉª’k, Causeries sur lAgriculture et de Commerce) số đầu tiên ra ngày 1 tháng Tám, 1901, sống rất lâu, hơn hai mươi năm, thay đổi nhiều chủ bút chủ nhiệm nên đường lối cũng đổi thay... một sự khảo sát tường tận về tờ báo nầy là việc khó khăn, ở đây chúng tôi chỉ nói đại lược về giai đoạn hai năm đầu tiên nó xuất hiện.

Đây là một tuần báo, 8 trương, khổ 1/4 tờ báo lớn ngày nay. Chủ nhơn (=nhiệm ) là người Pháp rành tiếng Việt và sống rất lâu và làm ăn lớn ở Việt Nam tên Canavaggio, chủ bút là nhà văn Lương Khắc Ninh, tục gọi là Hội Đồng Ninh vì ông có mấy nhiệm kỳ làm Hội Đồng Quản Hạt.

Trong số ra mắt có viết lời trần tình của chủ nhơn và lý do làm báo đáng cho ta chú ý:

Hai mươi năm chẵn ở miền Nam thổ, nay đã tiệm thành cơ chỉ qui mô. Đường thiên lý tục tình dầu khác, đạo cang thường lễ nghĩa như nhau. Nơi nơi cũng tạo doan hồ phu phụ. Việc hiếu sự nay đà rang rảnh, tình thê nhi thêm lại rịch ràng (27). Vậy nên công việc từ hưu, vui theo thú thê trì nông cổ. Thương nam thổ dường như cố thổ, mến Nam nhơn quá bằng Tây nhơn, muốn sao cho nông cổ phấn hành, sanh đại lợi cùng nhau cộng hưởng. Vậy nên sức lập nên nhựt báo, thông tình nhau mà lại rộng chỗ kiến văn, lần lần liệu ta cử đồ đại sự.

Trong Đông cảnh nước Cao Ly, Nhựt Bổn, nước Xiêm La cùng nước Đại Thanh đâu đâu cũng đều có công văn nhựt báo. Há Lục Tỉnh anh hùng trí dõng, lại khoanh tay ngồi dậy mà xem, không thi thố cùng người trục lợi...

Tờ báo bằng giọng văn nhiều tính biền ngẫu, sai nhiều lỗi chánh tả nên hơi xưa so với tờ Nam Kỳ Địa Phận xuất bản cùng thời. Báo viết những bài có tính cách cổ động cho công việc phát triển canh nông, chấn hưng thương nghiệp, giải thích khế ước và thương hội... Để đỡ khô khan thỉnh thoảng báo có đăng các truyện sáng tác hay truyện dịch từ sách Tàu, dưới dạng văn xuôi hay văn vần, của Lương Khắc Ninh, Nguyễn Viên Kiều, Nguyên Liên Phong, Nguyễn Khắc Huề, Nguyễn Thiện Kế, Đặng Quí Thuần, Lương Hòa Quí, Trần Giải Nguơn, Nguyễn Dư Hoài, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viết Khuông, Thổ Châu thơ sanh, Nam Song thị, Trần Khắc Kỷ, Lê Hoằng Mưu, Tô Ngọc Đường.... Chính các người nầy, với các bài của họ, tạo nên sự lớn mạnh của Văn Học Quốc Ngữ trong những bước đầu, ít nhứt là trong Nam Kỳ Lục Tỉnh. Từ năm thứ hai tờ báo mở ra mục Thi Phổ đăng thơ của các bạn đọc và văn hữu cộng tác. Các thơ nầy phần lớn theo thể Đường luật và xướng họa thù tạc nên giá trị văn chương không nhiều.

Các bài sưu tầm văn chương trong Nông Cổ Mín Đàm nhìn chung giá trị bảo tồn cũng giống như TLKT trước đó. Bản dịch Tam Quốc Chí ký tên Canavaggio là bản dịch Tam Quốc Chí ra quốc ngữ đầu tiên ở nước ta, trước bản dịch của Phan Kế Bính hơn một thập niên, đăng hơn năm năm từ số 1 đến số 210 là các số báo mà chúng tôi tham khảo được trước đây. Một số người ngờ rằng bản dịch nầy là của Lương Khắc Ninh, điều đó không có gì làm bằng chứng. Xét về văn phong của Lương khắc Ninh thì ta thấy không phải, ông nầy dùng nhiều biền ngẫu, chữ sử dụng cao kỳ mà dư thừa trong khi bản dịch Tam Quốc Chí đúng là hình thái văn xuôi, không có những tiểu đối, chữ dùng lại dễ hiểu bình dân, tỏ ra là tài lực của một người ít chịu ảnh hưởng của Hán học.

Đó là chuyện đầu thế kỷ ở trong Nam, sau đấy một thập niên ở ngoài Bắc chúng ta có hai tờ báo nổi bật, tạo thế đứng vững mạnh cho Văn Học Quốc Ngữ là Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí.

Đông Dương Tạp Chí: (1913-1919) số đầu tiên ra mắt là ngày 15-5-1913. Do tình hình chánh trị, Đông Dương Tạp Chí được người Pháp cho ra đời với mục đích tuyên truyền cho công cuộc đô hộ và dè-bỉu những chống đối. Dần dần về sau các người chủ trương đã khéo léo lèo lái thành một tờ báo văn nghệ và học thuật rất phong phú. Trần Trọng Kim viết về Sư Phạm, Nguyễn Văn Tố trích tuyển Pháp văn, Phạm Duy Tốn viết truyện ngắn, Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục dịch thuật các tác phẩm Hán văn, Nguyễn Khắc Hiếu nghị luận về thi ca, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Trạc, Thân Trọng Huề viết những điều thuộc về tư tưởng và học thuật Việt Nam...

Nam Phong Tạp Chí: (1917-1934) là tờ báo có ảnh hưởng trong giới trí thức thời nầy, do Phạm Quỳnh chủ trương và viết gần như tất cả các mục. Lúc nầy quốc ngữ đã lớn mạnh lại càng lớn mạnh hơn khi Phạm Quỳnh hô hào phổ biến quốc ngữ bằng cách dung hợp với tư tưởng Tây phương. Do sự làm việc cần cù và nhiệt tâm ông đã đem rất nhiều điều mới lạ trong sách vở Tây Âu thời đó diễn dịch ra quốc ngữ khiến cho thứ chữ viết nầy có dịp cọ xát với các vấn đề khó khăn để chứng tỏ khả năng diễn đạt của mình. Cho đến ngày nay những điều viết trong Nam Phong Tạp Chí phần lớn vẫn còn giá trị, tờ báo đáng được trân trọng như nó đã được trân trọng là di sản văn hóa của dân tộc trong bao lâu nay.

Về hai tờ Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí, Giáo Sư Dương Quảng Hàm kết luận rất cô đọng và chân xác:

Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ văn chương của tiền nhân.

Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy (28).

Thập niên 30 trong Nam có một tờ tạp chí rất quan trọng là Phụ Nữ Tân Văn, với tờ nầy các vấn đề cải cách xã hội được đặt ra, cũng như vấn đề Thơ Mới được cổ động mạnh mẽ lần đầu tiên.

Giai đoạn cận đại và hiện đại (1932-2000)

Giai đoạn nầy không thể nói bằng một hai trang giấy vì đây là giai đoạn sung mãn nhứt của VHQN, chỉ xin tóm lược vài điểm chánh:

Những năm tiền chiến: 1932-1945: Thi ca nổi bật với những cách mạng về lề luật thi ca cũng như tiết điệu. Đặc điểm của thời nầy tổng quan là lãng mạng, với những chuyện yêu thương và đau khổ. Các thi sĩ phần nhiều nỗi danh vì biết nhìn thật sâu vào tâm hồn mình dể diễn tả những tình trạng tế vi ai cũng cảm nhận nhưng không thể tự mình diễn tả.

Những năm kháng chiến (1945-1954) Sàigòn trở lại là cái nôi của văn học với tràn ngập truyện ngắn và thi ca cổ động cho việc lên đường chống thực dân và đề cao công cuộc kháng chiến. Những nhà văn nầy sống ở thành phố, phần nhiều không trực tiếp nhận chỉ thị từ phía lãnh đạo công cuộc kháng chiến thời đó. Họ viết bằng trí tưởng tượng, bằng cái tâm bất bình của con người. Cùng thời gian nầy, ở vùng kháng chiến những nhà văn chịu ảnh hưởng của Cộng Sản viết theo chỉ thị dù rằng họ có lợi thế được nhiều người đọc hơn và có nhiều thực tế để quan sát.

Những năm đất nước lưỡng phân (1954-1975) Đất nước bị chia hai kéo theo sự phân cách về suy nghĩ của hai Miền Nam Bắc. Sàigòn tự do trong suy nghĩ nên người viết muốn viết gì thì cứ viết miễn là có một chút kỹ thuật và văn chương. Kết quả là có nhiều tác phẩm nhảm nhí xuất hiện. Những tác phẩm có giá trị văn chương lại đem đến ảnh hưởng tiêu cực trong việc đối đầu với sự xâm lăng của quân đội Miền Bắc khi phân tích những tai hại bi đát của chiến tranh, sự phi lý của cuộc đời, cổ võ cho cuộc sống buông trôi. Hà Nội trái lại định hướng tất cả mọi sinh lực của nhà văn trong việc sáng tác yểm trợ cuộc chiến của họ nên sản xuất ra những quyển sách tưởng tượng về sự chiến đấu thần thánh của nhân dân trong việc chống Miền Nam, chống Mỹ, và bôi lọ đến tuyệt cùng chánh quyền và nhân dân Miền Nam.

Những năm trong và ngoài nước (1975-?) Đây là sự kéo dài của giai đoạn lưỡng phân với những thay đổi nho nhỏ ở cả hai phía. Bên ngoài tình yêu quê hương được tô đậm, bên trong những đề tài xây dựng được trát hồng. Sự thay đổi nầy tuy vậy vẫn không xóa được tính chất thù hằn trong văn chương ở hai vùng trong và ngoài nước...
oOo

Cũng nên nhắc lại rằng trong hai giai đoạn đầu của Văn Học Quốc Ngữ thì các hệ thống khác của văn học Việt Nam như truyền khẩu, Hán, Nôm vẫn hiện diện, mặc dầu mờ nhạt khói sương hơn thời kỳ chưa có chữ quốc ngữ. Ở những giai đoạn sau, các loại hình văn học Hán, Nôm chết khô dần như những dòng suối cạn nguồn mùa nắng, chẳng còn âm hưởng gì ngoài sự mua vui nho nhỏ của vài ba người trong các văn đàn khép kín, hoài vọng về một dĩ vãng không thể nào có lại được. Văn chương truyền khẩu cũng vậy ở các giai đoạn sau của Văn Học Quốc Ngữ không còn được coi trọng nữa vì hình thức văn tự đã được coi là ổn định, chuyện in ấn đã dễ dàng, chỉ còn lại như những hình thức biếm nhẽ, chống đối, khinh mạn.. người ta kể nhau nghe để làm trò cười trong vài ba người bạn, không ảnh hưởng đến ai... Hát hò cũng mất dần theo hình thái sinh hoạt mới của thời đại và những ảnh hưởng bất lợi của cuộc chiến vô lý triền miên, chỉ còn lại trong ký ức và tâm tưởng của những người lớn tuổi may mắn nghe được vài câu trong thời kỳ tàn tạ của loại hình văn học đặc biệt nầy.

Văn Học Quốc Ngữ đã trưởng thành quá mau, trong vòng một thế kỷ mà từ không thành có. Từ có thành một bản sắc riêng của cả dân tộc. Tiếc rằng ở nửa thế kỷ sau, về mặt viết lách, quá nhiều chất xám của dân tộc tiêu phí vô ích cho những mục tiêu chánh trị vốn không có bao nhiêu giá trị đối với đường dài của lịch sử, đó là chưa kể những bài viết đáng lẽ có đã không có được vì người viết không thể cầm bút hay bị bức tử. Đáng lẽ sinh ra và lớn lên trong lúc chiến tranh bao trùm đất nước nhà văn phải cho ra đời được những tác phẩm dính dáng đến chiến tranh mà đi vào lòng người như của Đỗ Phủ, Cao Bá Quát, Victor Hugo, Gogol, A. Tolstoy.... đằng nầy ta chỉ có quá nhiều những tiếng cãi cọ chửi bới chắc chắn không vui lòng những thế hệ con cháu mai sau...
______________________________________



GHI CHÚ:

(1) Một nghị định năm 1896 công nhận chữ quốc ngữ mới và dùng trong một số trường hợp trong thơ từ công chứng, năm 1903 bắt buộc có bài thi Pháp văn trong tất cả các kỳ thi của Triều đình Huế.

(2) Xem Hồ Ngọc Cẩn- Văn chương An Nam, HồngKong, Imp. de la Missions-Étrangères, 1933, trang 167-172

(3) Chẳng hạn một trăm năm trước ông Trương Minh Ký có một đề nghị nhỏ, có vẽ hợp lý và tiết kiệm được thì giờ trong việc viết in là không đánh dấu sắc trên các chữ đã đọc đúng âm mà không cần dấu, nghĩa là chữ của các vần at, ăt, ât, et, êt, ot, ôt, ơt, uc, ưc, ut, ưt.... chẳng hạn như hát, thác, cốt.. thì chỉ cần viết hat, thac, côt...là đủ. Trương Minh Ký đã thực hành trong các bài viết của mình, nhưng cho đến nay vấn đề cũng đâu vào đó, không nhúc nhích gì.

(4) Giai đoạn nầy các tuồng hát bội Nôm xuất hiện thật nhiều, nhiều đến nỗi ta có thể gọi văn Nôm giai đoạn nầy là giai đoạn của tuồng.

(5) Lời nói với bổn đạo, trong Thông Loại Khóa Trình,

(6) Đọc tác phẩm của Phan Chu Trinh ta thấy nhiều bài thơ của ông ở cả hai dạng quốc ngữ và nôm. Tuy nhiên phần quốc ngữ thì ít hơn phần nôm nhiều.

(7) Phạm Thế Ngũ, VNVHS, GUTB, quyển 3, trang 78.

(8) Nhứt nhựt.... Ước ao ngày một khỏi ưu phiền, Trọn bữa thanh nhàn giã thể tiên. Trần lụy vẫn rằng miền thế tục. Phong quang đưọc gọi cảnh thiên nhiên; Non cao chí cả ai là thú. Cõi tỉnh lòng trung bậc tợ hiền; Cái khúc nghê thường nghe khéo rộn, Lời ông Phương Sóc đáng nên khen.

Thường Bả...Thường gìn mối đạo dốc tay dương, Bả-chả đâu hề trễ tánh gương. Nhứt chí từng thơm danh bắc quyết, Tâm tình trải rạng tiếng Đông Dương. Chuyên vòng nghĩa lý noi long mực, Hành sự văn từ dãi dấu hương. Chánh ý bày hay, mong đổi tục, Đạo hằng giữ trọn ít ai thương.

(9) Về trường hợp Tôn Thọ Tường, ta có nhiều lý do để tin rằng ông viết bằng quốc ngữ. Tài liệu còn lại ca tụng rằng ông học chữ quốc ngữ rất mau sau khi đã nổi danh hay chữ trong hệ thống Hán, Nôm. Bài truyền thị của ông khi làm Đốc Phủ Sứ ở quận Vũng Liêm, còn in lại trong tập san Thông Loại Khóa Trình, tháng 6 1889, trang 12-13 chắc chắn nguyên bản phải là quốc ngữ vì những lý do chánh trị. Trích:

Ra lời truyền tỏ với nhân dân, Làm người phải biết giả chơn. Chớ khá nghe lời huyển hoặc. Xưa sáu tỉnh súng đồng giáo sắt. Binh lương tiền túc chứa chan. Ô le tàu hải rỡ ràng. Thành tỉnh pháo đài nghiêm nhặt....

(10) Bút tích bài thơ nầy do bà Sương Nguyệt Anh viết tặng thi sĩ Tô Ngọc Đường khi bà lên chơi núi Bà Đen ở Tây Ninh vào đầu thế kỷ 20. Tài liệu nầy lần đầu tiên đăng trong Văn Hoá Nguyệt San trước 1975, sau được trích lại trong Huình Minh, Tây Ninh xưa và Nay.

(11) Nên nhớ rằng đó là năm đăng trên Thông Loại Khóa Trình, năm sáng tác chắc còn trước đó nhiều.

(11B) Để ý là ngưòi xưa phát âm hơi khác chúng ta ngày nay. Cho tới cuối thế kỷ 19 họ nói khoăn khoái (thay vì khoan khoái), thốn thức (thay vì thổn thức)…

(12) Bản in lần thứ hai, Sàigòn, Imp. Commerciale Rey, Curiol et Cie, 1896. Dịch giả đề tên sách nguyên tác là Riche et Pauvre, nhưng không ghi tên tác giả. Sẵn đây cũng xin đính chánh rằng Giáo Sư Phạm Thế Ngũ trong tác phẩm thượng dẫn trang 76 đã ghi lộn là của Trương Vĩnh Ký. Thư Viện Quốc Gia Pháp, ký hiệu 8o. Ya. 33, có cả chữ ký của Trương Minh Ký.

(13) Thư Viện Quốc Gia Pháp, ký hiệu B. 126, có cả chữ ký của tác giả, ký tặng ông Abel Des Michels. In năm Canh Dần (Canh Dần Tân San) phát hành do nhà Quảng Thạnh Nam (Quảng Thạnh Nam phát tập) tàng bản do nhà Thiên Bửu Lâu ở vùng Phật Trấn, Quảng Đông.

(14) Điều nầy thì xin thú thiệt là ghi lại theo trí nhớ trong một lần nói chuyện với một nhà nghiên cứu lão thành chuyên viết về văn chương Miền Nam. Tới giờ chúng tôi cũng chưa tìm được bản quốc ngữ. TVQG Pháp trong Catalogue du Fonds Vietnamien không ghi gì về tác phẩm nầy. Khi viết xong bài nầy thì được mách là thư Viện trường Viễn Đông Bác Cổ, Paris có, ký hiệu 8o 589, quyển nầy in ở Sàigòn năm 1889, nhưng chưa liên hệ được để xem mặt mũi quyển sách song tịch nầy ra làm sao!

(15) Ông A. Des Michels trong quyển Contes Plaisants Annamites, Paris, Ernest Leroux, 1888, đã dịch và cho in hai mươi truyện đầu trong quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký ra chữ Nôm. Trong quyển sách tam ngữ Pháp- Việt- Nôm nầy phần chữ Nôm không thôi cũng là 65 trang, là một tài liệu quý cho người bước đầu học chữ Nôm. Mặt khác cũng cho ta thấy phần nào bản lai diện mục chữ nôm cuối thế kỷ 19.

(16) Thường các bài văn ngắn khuyết danh khi được Petrus Ký phiên âm ông đề là dịch ra chữ quốc ngữ và chú giải. Các tài liệu nầy ở Việt Nam khó tìm nên ít người thấy, GS Phạm Thế Ngũ công nhận rằng mình chỉ biết được Chuyện Đời Xưa, hai bài Trương Lưu Hầu phú và Ngư Tiều Trường Điệu, một vài đoạn trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi.. cho nên rất nhiều trường hợp công trình phiên âm và chú giải của Trương Vĩnh Ký được nhiều người coi lầm như là công trình sáng tác của ông. Ngay trong phần giới thiệu Gia Định Phong Cảnh Vịnh Trương Vĩnh Ký viết: Có kẻ nói bài vịnh nầy là do ông Ngô Nhân Tịnh ngụ ở xứ Trà Luộc làm ra mà chơi. Nhưng vậy chẳng biết có thật hay không.. vậy mà hầu hết các sách đều xếp vào loại do ông sáng tác. Về việc chú giải, nếu ngày nay ta phục công việc mằn mò tốn nhiều công sức nhưng giúp ích thật nhiều cho người không có cựu học và thời giờ thì ngay lúc đương thời Trương Vĩnh Ký cũng không được sự hổ trợ của bao nhiêu người. Ông than thở: Bấy lâu nay ta hay in thơ phú ra mà có chú giải kĩ càng có ý cho kẻ coi sách sẵn có trước mắt những truyện tích trong kinh điển mà ra cho thông hiểu khỏi tìm hỏi kiếm sách vở cho lâu lắc mất công. Mà nghe lại coi có nhiều người không vụ tất những lời chú giải làm chi, nên ta in ra thêm trước đầu sách một bài rút cương truyện lại cho biết đầu đuôi cớ tích truyện mà thôi.

(17) Quyển tự điển đồ sộ nầy nhiều người khen. Ông Nguyễn Văn Y làm một luận văn Cao học Văn chương Việt Nam (MA, Saigon 1966) về quyển nầy trong khi ông Phạm Thế Ngũ coi như một công trình không cần thiết. (VNVHGUTB, q3, trang 82).

(18) Hai tuồng nầy chúng tôi chưa sưu tầm đuợc bản Nôm mà lại gặp cũng hai tuồng nôm cùng đề tài nhưng thoại khác. Ông bà ta xưa viết nhiều, chỉ tội là chúng ta không bảo tồn được bao nhiêu.

(18B) Bài nầy viết năm 1998, cách nay, 2016, gần 20 năm, bây giờ người viết đã có trong tay bản Nôm Nữ Tắc rồi, nhưng còn biết bao nhiêu bản phiên âm quốc ngữ do Petrus làm mà nay chúng ta vẫn chưa tìm được bản Nôm!

(19) Tôi xếp truyện của Nguyễn Trọng Quản vào loại truyện ngắn mà không xếp vào loại truyện dài vì truyện nầy quá ngắn và chủ đề quay về một trọng điểm và không mô tả ngoài đề tài chung như các truyện dài thường có.

(20) Trương Vĩnh Ký cho đăng lại trong Thông Loại Khóa Trình số 11 tháng Ba năm 1889, có ghi: Nguyên của ông Thông Phán Tần ở Quảng Nam chép cho.

(21) Thông Loại Khóa Trình, tháng 4 1889, Trương Vĩnh Ký ghi lại cả năm sáng tác 1888 của tác giả Lê Đắc Nghi tự Lê Ngọc Chất.

(22) Maison J. Viết, Sàigòn, 1915.

(23) Ghi lại theo mẩu quảng cáo của nhà J. Viết. Ngay cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris cũng không có cả những quyển nầy.

(24) Thơ Sáu Nhỏ, par Lê Minh Điều, Sàigòn, 1914, trang 11-12. Ya. Pièce 417

(25) Huình Văn Liêng chuyển sang quốc ngữ (?), Sàigòn, J. Viết 1916.

(26) Trích Bảo (như là lời nói đầu ngày nay) Thông Loại Khóa Trình, số ra mắt, không đề tháng, năm 1888, trang 3.

(27) Chúng tôi không biết về tiểu sử của ông nầy nhưng câu tình thê nhi thêm lại rịch ràng... khiến ngờ rằng Canavaggio có vợ Việt Nam. Nhứt là ông ở Việt Nam quá lâu và đã dịch được truyện Tam Quốc sang quốc ngữ.

(28) Việt Nam Văn Học Sử Yếu, trang 419