Phần 4: Hành Trình Tư Tưởng Của Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu - „Cộng sản“ trong VNQDĐCT

Phạm Hồng Lam

Hành Trình Tư Tưởng
Của Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu
Phần 4
„Cộng sản“ trong VNQDĐCT
Gió giận thổi tan tành đế quốc,
Lửa thù thiêu đứt khoá cường quyền.
Cuộc Âu Á nhào xáo biết bao phen.
Mà cơ hội phen này thêm mới, mới,
Cờ cách mạng Viễn đông bay phất phới,
Sóng nhân quyền hoàn hải dậy đùng đùng.

Nga-la-tư vừa dựng nước Lao công,
Toàn thế giới bóng cờ hồng lấp loá.
Hoa với Việt xưa nay huynh cập đệ,
Quyết dắt (được) nhau hộ vệ Á đông mình.
Nền thực dân e đến lúc tan tành,
Vườn nhân đạo thênh thang trời bể trông (rộng?),
Khắp thế giới biết bao người lao động,
Người như ta ai cũng biểu đồng tình.
Trận chiến tranh giai cấp đã rành rành,
Duy vô sản đấu tranh cùng hữu sản.
Rằng cừu địch chỉ mấy nhà tư bản,
Còn lao công ai cũng tán thành ta.
Nếu anh em chiếm đắc nhân hoà,
Thời địa lợi thiên thì là của sẵn (…)
Đó là 20 câu đầu của bài Mừng Cơ Hội [1], tất cả 51 câu, đăng trong Chủng Diệt Dự Ngôn, được Phan Bội Châu sáng tác có lẽ không lâu sau khi đọc (năm 1920) cuốn Nga-la-tư Chân Tướng Điều Tra Kí của một tác giả Nhật nói về biến cố tháng 10 Nga [2], đó là thời điểm có lẽ Phan cũng đã chứng kiến (ít ra trên sách báo) những biến động chính trị ở Tàu (sinh viên biểu tình, dân tẩy chay hàng hoá Nhật) trong những năm sau khi thế chiến I kết thúc. Phan bắt đầu biết tới cộng sản /xã hội chủ nghĩa (trong bài này, hai từ này được dùng với nội dung như nhau) từ khi đọc sách đó. Cuối 1920, qua giới thiệu của Thái Nguyên Bồi, viện trưởng Đại học Bắc-kinh, ông tìm gặp hai đại diện cộng đảng Nga đang có mặt ở Bắc-kinh để biết thêm về „chân lí cộng sản“. Nhưng ông đã không biết thêm gì về chủ nghĩa từ hai nhân vật này; nội dung câu chuyện chỉ xoay quanh mấy điều kiện nhận du học sinh. Đại diện Nga cho biết sẵn sàng nhận nuôi ăn học cho sinh viên Việt với điều kiện sau đó phải theo cộng sản và tuyên truyền cho chủ nghĩa này. Quan hệ cắt đứt từ đó, vì ông sớm nhận ra „sự xảo quyệt của người Nga [3].
Chuyện Phan không làm, đồng hương của ông là Nguyễn Tất Thành đã làm. Là vì chính ngay khi Phan đang gặp người Nga ở Bắc-kinh, thì tại đại hội Tours ở Pháp (12.1920), Thành dơ tay tuyện thệ nguyện xin được làm đầy tớ trung kiên của chủ nghĩa vô sản.
Cùng ưu tư đi tìm một giải pháp cho đất nước, cùng hồ hởi khi gặp một lí thuyết tưởng có thể mở ra vận hội mới cho dân tộc, Phan và Thành đã có hai chọn lựa khác nhau trước một vấn nạn quyết định. Chọn lựa đó nói lên cái trí và cái tâm của mỗi người.
Không trực tiếp tìm hiểu được chủ nghĩa cộng sản với người Nga, Phan tìm đọc qua sách báo. Qua đoạn thơ trên, ta thấy ngoài nỗi hào hứng với biến cố tháng 10 Nga, Phan còn tin vào mối liên đới Hoa-Việt trong cuộc cách mạng vô sản sắp tới:
Hoa với Việt xưa nay huynh cập đệ
Quyết dắt nhau hộ vệ Á đông mình
Cũng trong Chủng Diệt Dự Ngôn, Phan khai triển thêm í đó:
„Lịch sử nước ta đối với Tàu trải mấy nghìn năm, theo về địa lí thời đã liền núi liền sông, theo về nhân chủng thời lại đồng xương đồng thịt. Gần mấy năm nay, phong trào cách mạng từ bắc qua nam nào là phản đối tư bản gia, nào là phấn đấu với đế quốc chủ nghĩa, người Hoa rất biểu đồng tình với người Việt, mà người Việt cũng rất tín ngưỡng với người Hoa…[4]
Điều này có nghĩa là lúc Phan viết Chủng Diệt Dự Ngôn, „phong trào cách mạng“ (cộng sản) đã rộ dậy ở Tàu. „Phong trào cách mạng“ Phan nói tới ở đây có lẽ chủ yếu là trên bình diện sách báo, chứ không phải là những hoạt động thực tế của Đảng cộng sản. Bởi vì, vào năm 1921, khi Li Ta Chao, quản lí thư viện Đại học Bắc-kinh, thành lập Đảng Cộng Sản Trung-hoa, thì số đảng viên của đảng này có rất ít [5]. J. Unselt cho rằng, Phan chịu ảnh hưởng tư tưởng của Li trong giai đoạn đầu tiếp cận chủ nghĩa cộng sản, bởi vì lí thuyết gia năng nỗ và nổi tiếng nhất về chủ nghĩa cộng sản ở Tàu lúc đó không ai ngoài Li. Trong tập Xã Hội Chủ Nghĩa viết về sau trong thời gian bị quản thúc tại Huế (1925-1940), Phan cho hay muốn hiểu chủ nghĩa này một cách chính thống thì nên tìm hiểu thẳng từ Marx và Tôn Trung Sơn; ông coi Tôn là một thứ Mạnh-tử của Marx [6]. Trong văn liệu hiện có của Phan, không thấy ông đề cập tới Lí Ta Chao. Có thể vì nhu cầu thực tế: phần vì thích thuyết tam dân ngũ quyền của Tôn, phần vì muốn có sự giúp đỡ của Tôn, lúc đó vừa là một nhà lí thuyết cách mạng nổi tiếng, một chính trị gia có quyền và là người thành lập Đồng Minh HộiTrung-hoa Quốc Dân Đảng, nên Phan đã dồn tâm trí vào nhân vật này. Sách Xã Hội Chủ Nghĩa cho thấy Phan nắm khá vững nội dung chủ nghĩa. Trong sách, ông dành ra một tiết (tiết 14) trình bày học thuyết xã hội chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn; học thuyết này chủ trương chính quyền phải được tiếp tục hiện hữu sau khi cách mạng thành công, chứ không tin rằng chính quyền sẽ biến mất như các lí thuyết gia xã hội chủ nghĩa không tưởng chủ trương.
Không hiểu Phan chịu ảnh hưởng của Li tới mức nào. Tuy nhiên, vì là một khuôn mặt tinh thần lớn của giai đoạn đó, nên ta cũng cần biết đôi chút về Li và cảnh huống chính trị của Tàu lúc đó.
Li Ta Chao và phong trào cộng sản Tàu
Li Ta Chao (1889-1927) sang Nhật năm 1913 theo học môn chính trị. Tại đây ông có dịp tìm hiểu rất sớm chủ nghĩa cộng sản. Ông là một trí thức viết khoẻ, viết hay và đầy tình tự dân tộc. Các bài viết luận về triết lí cũng như hô hào chính trị đã cuốn hút các tầng lớp dân Tàu. Về mặt đấu tranh chính trị, có thể so sánh vai trò và uy tín của ông đối với trí thức Tàu tương đương với vai trò và uy tín của Phan đối với dân Việt.
Năm 1918, Li cho đăng Cuộc Chiến Thắng Của Bôn-xê-vích, một bài viết quan trọng trình bày nhận thức và niềm tin của mình vào sự tất thắng của chủ nghĩa mác-lê. Ông cho rằng thế giới ngày nay đang chuyển thành một thế giới lao động, và cuộc đấu tranh giai cấp (mà lực lượng quyết định sẽ là nông dân và công nhân) là tất yếu, đó là động lực quyết định sự phát triển kinh tế. Theo ông, tin vào sự phát triển kinh tế mà không tin vào đấu tranh giai cấp, là nói láo.
Tóm lại, Li xác tín hoàn toàn vào những định đề của chủ nghĩa mác-lê.
Cùng năm 1918, Li được mời về làm quản thủ thư viện Đại học Bắc-kinh. Tại đây, ông gây phong trào quảng bá chủ nghĩa cộng sản nơi tầng lới trí thức sinh viên bằng cách lập các học hội: „Học hội lí thuyết xã hội chủ nghĩa“ (12.1919), „Hội học lí thuyết Mác“ (03.1920). Mao Trạch Đông, lúc đó là nhân viên thư viện, là một trong những hội viên nhiệt tâm của „Hội học lí thuyết Mác“ và hội này là tiền thân của Đảng Cộng Sản Trung-hoa.
1918 cũng là năm diễn ra hội nghị Versailles, Paris kết thúc thế chiến I. Tàu chờ đợi trong phập phồng hi vọng các nước thắng trận giải quyết các bất công của mình. Nhưng khi Anh, Hoa-kì, Pháp đồng í cho Nhật tiếp tục giữ thuộc địa và quyền lợi ở Tàu thì từ Đại học Bắc-kinh sinh viên dấy lên biểu tình chống quân phiệt Nhật, chống đế quốc phương tây (Li gọi Anh, Hoa-kì, Pháp là „một lũ ăn cướp“), chống tay sai thân Nhật trong chính quyền. Biểu tình chống đối lan rộng ra các đại học. Suốt một năm dài, sản phẩm hàng hoá của Nhật bị dân Tàu tẩy chay. Sử gọi là „Phong trào mồng 4 tháng 5 năm 1919[7]. Phong trào nhiễm màu quốc gia chủ nghĩa, được khơi dậy do nhóm giáo sư Đại học Bắc-kinh. Nó đóng góp tích cực cho việc quảng bá tư tưởng cộng sản, tạo đà cho Li thành lập Đảng cộng sản năm 1921 tại Thượng-hải. Một sự kiện khiến trí thức tàu càng có cảm tình với cách mạng vô sản là ngay sau khi thế chiến kết thúc, Nga đã nhanh nhẩu tự nguyện từ bỏ mọi đặc quyền thuộc địa của mình ở Tàu.
Sau khi lập đảng, Li bắt tay với Tôn (1922) [8]. Hai đảng Cộng Sản (ĐCS) và Quốc Dân (QDĐ) từ hợp tác đi tới thống hợp. Đại hội QDĐ Trung Hoa (01.1924) đưa thêm vào cương lĩnh ba điểm: Liên minh với Nga, hợp tác với Cộng sản và yểm trợ khối công nông. Cuộc hôn nhân đẻ ra định chế „quân uỷ“ (chỉ huy lực lượng quân sự) và trường quân sự Hoàng-phố. Nga điều Borodine sang làm cố vấn cho Tôn. Tôn quen với ông này hồi còn tị nạn (trốn Thanh triều) ở Hoa-kì. Borodine giúp QDĐ tổ chức lại mọi mặt theo khuôn mẫu Đảng Cộng sản Nga. Đối lại, Tôn gởi Tưởng Giới Thạch sang Moskau 3 tháng học cách quản trị cộng sản. Hồ Chí Minh, dưới lốt thông dịch viên, được lệnh theo Borodine sang làm nhiệm vụ quốc tế đặt đầu cầu cộng sản ở Đông dương. 
Cuộc hôn nhân quốc cộng cũng là khởi nguồn của sự thảm bại của phía quốc gia. Trên lí thuyết, từng cá nhân đảng viên cộng sản phải gia nhập vào QDĐ. Thực tế thì đấy là cơ hội để cộng sản khuynh loát, bởi vì họ tổ chức chặt chẽ hơn, mục tiêu của họ hoàn toàn không đi đôi với QDĐ và nhất là cơ cấu cộng sản đã không tự giải thể theo quy ước, mà trái lại họ vẫn âm thầm bành trướng để rồi như mầm ung thư đưa QDĐ vào bế tắc.
„Cộng sản“ Phan Bội Châu
Phong trào 04.05.1919 ở Tàu giúp Phan nhận rõ hơn bản chất thực dân của Nhật. Bản chất nguy hiểm này cũng là một trong những lí do khiến Phan viết Pháp Việt Đề Huề Luận Văn vào năm 1918 [9].
Cũng từ bối cảnh 04.05.1919 (chống Nhật, chống „đế quốc“ Anh, Pháp, Hoa-kì...) mà Phan nặng tình hơn với chủ nghĩa cộng sản. Sự nặng tình này càng tất nhiên hơn khi ông chứng kiến cuộc hôn nhân giữa QDĐ và Cộng sản Tàu.
Phan Bội Châu ngả theo cộng sản. Thế tại sao Đảng Cộng sản Việt-nam trong bao năm đã không khai thác được quan điểm này của nhà đại cách mạng để tuyên truyền?
Phải chăng vì ông đã bị họ kết án là kẻ thoả hiệp đầu hàng, khi ông viết Pháp Việt Đề Huề Luận Văn? Việt cộng đánh giá tài liệu đó là bản án tử cho ông. Nhưng theo Phan:
„Khi hai dân tộc vì một lẽ nào đó xui khiến mà phải sống bên nhau trên một miếng đất, thì chỉ có hai cách cư xử với nhau: hoặc bên này tiêu diệt bên kia; hoặc hai bên hợp tác với nhau để chung sống. Cách thứ hai là cách tốt (…)Điều đó tôi đã từng nói và từng viết trongPháp Việt đề huề’. Sự hợp tác Pháp Việt phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa hai dân tộc. Không có bình đẳng thì không có hợp tác… [10].
Do thế, „đề huề trong í tôi và đề huề trong í họ (Pháp) xa nhau như trời với vực[11]. Lại nữa, Phan cũng cho hay, sở dĩ phải thay đổi lập trường, là vì dân trí và dân khí của dân ta như thế thì làm sao mà thắng Pháp mau được. Tài liệu trên cho thấy Phan giờ đây ngã hẳn theo chủ trương, mà mười hai năm trước Chu Trinh đã thúc giục ông đi theo. Chu Trinh muốn „đề huề“ để dùng Pháp diệt phong kiến, duy tân xã hội, mở mang dân trí hầu chuẩn bị đất gieo trồng Dân chủ. Bội Châu giờ đây cũng mang những í nghĩ như vậy, nhưng lí do có thể nói quan trọng nhất khiến ông thay đổi chủ trương là cái viễn kiến về một cuộc thế chiến thứ hai giữa Nhật và các nước phương Tây, trong đó chắc chắn Nhật sẽ thắng Pháp ở Đông dương và Việt-nam sẽ rơi vào ách thống trị còn tàn bạo hơn của Nhật.
Hay phải chăng Đảng Cộng Sản VN đã chẳng khai thác được Phan, vì cái cộng sản của ông không đúng với giáo điều của họ?
Trong phần D. Chương trình hành động 4 giai đoạn của CT, Phan đề cập tới các „nguyên tắc xã hội chủ nghĩa“ và „nguyên lí xã hội chủ nghĩa của Đảng“. Và sau khi giải phóng đất nước (giai đoạn I) và thiết lập một „Tân Việt Nam“ dựa trên một hiến pháp mới cùng các hệ thống thuế, kinh tế hữu hiệu và một chính sách giáo dục cộng đồng (giai đoạn II), con thuyền VNQDĐ sẽ đưa nước vào giai đoạn III, thực hiện các „nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa“.
Xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa được Phan hiểu như thế nào?
Chủ nghĩa xã hội là một chủ nghĩa muốn cho tất cả loài người ai ai cũng được tự do và hạnh phúc. Mục đích của chủ nghĩa xã hội tóm tắt chỉ có bấy nhiêu mà thôi (…)
Giải thích chật lại một chút, thời bao nhiêu cơ quan sinh sản đều nhóm góp lại làm của chung; những cái gì loài người cần phải nhờ cậy nó cho đời sống được sung sướng vui vẻ đều bình quân san sẻ ra cho nhau. Không có một người nào bạo mạnh mà ngồi không, lại không có một người nào cướp bóc lợi ích của kẻ khác. Đó là xã hội chủ nghĩa[12].
Một cách cụ thể, „nguyên tắc cộng sản“ của Phan gồm hai nhiệm vụ:
- Về kinh tế:
Nâng cao đời sống và phúc lợi cho mọi người. Với nông dân, nhà nước mua - chứ không tịch thu[13] - đất đai rồi chia đều cho họ. Với công nhân, nhà nước bảo đảm hạnh phúc xã hội của họ bằng cách ấn định giờ làm việc phù hợp, ấn định đồng lương tối thiểu và lương phải đi đôi với việc làm, huấn nghệ, phát triển các loại công việc lao động tập thể, mở các viện chăm sóc người hết tuổi lao động hoặc tật bệnh…
- Về xã hội chính trị:
Đưa mọi dân mọi nước tiến tới „đồng nhân“, „đại đồng“. Đây là hai í niệm thuần tuý đông phương, được Khổng-tử triển khai trong Kinh Dịch (quẻ Đồng nhân) và sách Lễ Kí, thiên Lệ vận (nói về Đại đồng). Đồng nhân, có thể nói, thuộc lãnh vực quốc gia: Mọi người trong một quốc gia coi nhau như anh chị em, đau cái đau chung, chia sẻ niềm vui, nỗi cực của nhau. Xét rộng ra là Đại đồng: Mọi dân tộc đối xử với nhau như anh em; ở thời đại đồng, biên giới quốc gia, chủng tộc, tôn giáo không còn nữa.
Phan dành cả một tiết sau hết của Xã Hội Chủ Nghĩa khai triển một đoạn trong thiên Lệ Vấn sách Lễ Kí để vẽ lên bức tranh đại đồng, mà cũng là bức tranh thời kì cuối cùng của xã hội chủ nghĩa. Theo đó:
Khi đạo lí to lớn đã lưu hành khắp thế giới rồi, thì cả thiên hạ là một; những người đạo đức nhất, tài giỏi nhất được cử ra uỷ thác các công việc lớn; người già trở thành cha mẹ chung, được chăm sóc chung; trẻ con là con chung, được nuôi nấng cho tới trưởng thành; người cường tráng đều có công ăn việc làm; người tật bệnh, côi quả đều được chăm sóc; trai có phận, gái có chồng; của cải không ai giữ riêng, mà đem ra phân phối dùng chung cho mọi người; người có sức làm theo sức, hưởng theo nhu cầu; trộm cướp như vậy không còn đất đứng; lúc đó nhà nhà không cần cửa đóng then cài; cả thế giới là một nhà [14].
(Đại đạo chi hành giả, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục, thị cố nhân bất độc thân kí thân giả, bất độc tử kì tử, sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấu hữu sở trướng, quan quả cô độc, tàn tật giả giai hữu sở dưỡng, nam hữu phận, nữ hữu quy, hoá ố kì khí ư địa giả, bất tất kì tàng ư kỉ, lục ố kì bất xuất ư thân giả, bất tất kì vị kỉ dụng, thị cố mưu bế, nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc, nhi bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bể, thi vị đại đồng).
Đó là tất cả „chủ nghĩa cộng sản“ của Phan. Trở đi trở lại cũng chẳng gì ngoài những suy tư đông phương. Tiêu đích thiên đàng cộng sản hay đại đồng, như vậy, đã có. Thế còn phương tiện? Làm sao để đi tới đó? Đây là điểm khác biệt bản lề giữa Phan (và cả Tôn) với các môn đồ chính thống (hay chân chính) của Marx.
Người cộng sản chân chính sử dụng hai con thuyền Chuyên chính vô sảnđấu tranh giai cấp để đi tới bến. Hai con thuyền này chẳng thấy xuất hiện đâu cả trong CT, mặc dù về mặt lí thuyết, Phan hiểu rất rõ hai nội dung vô cùng quan trọng của chủ thuyết này, như hai câu trong bài Mừng Cơ Hội cho thấy phần nào:
Cuộc đấu tranh giai cấp đã rành rành
Duy vô sản đấu tranh cùng hữu sản.
Tác giả J. Unselt[15] cho rằng nhờ Phan suốt đời quanh quẩn ở các nước Á đông, nên dòng suy tư vẫn không vượt ra ngoài khuôn khổ đông phương; vì Phan không tiếp cận được với xã hội âu mĩ nên đã không dứt khoát hơn với chủ nghĩa cộng sản như Hồ Chí Minh và đảng cộng sản của ông.
Phần đầu của lí luận có lí, phần hai không hẳn. Li Ta Chao chưa sang Âu châu mà lại là người xác tín hơn ai hết vào đấu tranh giai cấp; Tôn Trung Sơn, trái lại, sống ở Âu Mĩ, có cơ hội nếm mùi hậu quả của chế độ tư bản âu châu, thì lại bác bỏ chuyện đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Tôn thiết tha với chủ nghĩa xã hội, nhưng càng đi sâu vào, ông càng nhận ra những hạn chế và khuyết điểm, lại càng nghi ngờ hiệu lực của nó. Tôn là người hiểu rõ hoàn cảnh xã hội của các nước Âu Mĩ và của Tàu; cái hiểu của ông sâu rộng, nên ông biết nhận định và chắt lọc những gì phù hợp.
Phan cũng đồng một quan điểm về xã hội chủ nghĩa như Tôn. Ông cổ xuý mục tiêu đại đồng cao cả của chủ nghĩa, nhưng về mặt thực hành, ông bác bỏ đấu tranh giai cấp, là vì, như ông phát biểu sau này với phóng viên báo L’ Effort (1938):
Hô hào giai cấp đấu tranh ở xứ này là một việc cực ngu! Những người thức thời không bao giờ làm như thế. Thế nào là „tư bản“? một người có 5, 10 mẫu ruộng, một anh chủ tiệm may mà gọi là tư bản ư? Cứ xem bản tổng kê ở các nước khác, thì đã có người An-nam nào đáng gọi là một nhà tư bản chưa? Tôi đã nói ở nước này chưa có sự phân biệt rõ ràng của hai giai cấp tư bản và lao động: Người An-nam chúng ta đều là hạng người mất quyền, hạng người mất nước cả. Cùng một tai nạn, đã không chung sức để tuỳ theo cảnh ngộ mà lần hồi thu phục lại những quyền đã mất, để gầy dựng lại nền tảng quốc gia, lại còn đi kiếm cách tương tàn tương phấn, làm giảm mất lực lượng tranh đấu, thật là một điều thất sách![16]
Còn vô sản chuyên chính? Phan hiểu nó trước hết là chuyện xẩy ra ở cấp vĩ mô, giữa các dân tộc trên thế giới. Đó là việc „liên hiệp cả thảy lao động các nước, mà không phải chỉ là một nước nào“(…),“liên hiệp cả toàn thế giới lại (…), dắt díu cả thảy giai cấp mình, tiến lên chiếm lấy địa vị giai cấp tư bản“. [17] Nghĩa là không có chuyện „lao công chuyên chính“ trong một quốc gia.
Giữa hai nhà cách mạng, Tôn và Phan, có điểm đồng về mặt nhận thức xã hội chủ nghĩa. Cả hai cùng thích cái chủ trương giải phóng dân nghèo và tạo công bình xã hội, cùng tin rằng thế giới sẽ nhờ thực thi „tam dân“ mà đi tới „đại đồng“ (mà cả hai cũng gọi là cộng sản). Nhưng điểm dị giữa hai người: Tôn xuất thân từ giới trưởng giả, mang trong mình lí tưởng dân chủ trưởng giả, và tổ chức cách mạng của ông cũng chỉ chú trọng tới tầng lớp trí thức, trưởng giả (VNQDĐ do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng nặng đường hướng như họ Tôn); Phan là một nho sĩ xuất thân từ thôn dân, sống nơi thôn quê, nên cảm với nông dân. Thành ra lí tưởng đấu tranh của ông luôn hướng về đại khối quần chúng bình dân.
Như trên đã nói, quyết định chọn lựa của Phan - và cả của Tôn -, khi đứng trước một chủ thuyết tưởng rằng sẽ mang lại một giải đáp cho đất nước, đã nói lên cái Tâm và cái Trí của họ. Cái Trí cao rộng với đầy í thức và cái Tâm bao dung thương dân tộc. Khác hẳn với sự chọn lựa ‚nhắm mắt và hẹp hòi’ (Hoàng Văn Chí gọi là ‚giáo điều’ [18]) của những Nguyễn Tất Thành, Li Ta Chao, Mao Trạch Đông, Kim Nhật-thành, Pôn-pốt.
Như vậy, dưới con mắt của Nguyễn Ái Quốc, thứ „Xã hội chủ nghĩa“ hay „Cộng sản“ do PBC chủ trương là một thứ chủ nghĩa cực kì phản động, hoàn toàn chống lại thứ Cộng sản giáo điều mà Quốc đã được truyền thụ và đi theo.
Và như thế, giờ đây, chúng ta đã có câu trả lời cho cái thắc mắc nêu lên đầu bài, vì sao „ông Nguyễn Ái Quốc … đã nhiều lần nhắc tôi thay đổi“.
Và đây có lẽ cũng là lí do sâu xa của việc Quốc quyết định bán Phan.
Augsburg, ngày 26.08.07


[1] Jörgen Unselt, Die Nationalistische und Marxistische Ideologie im Spätwerk von Phan Boi Chau, Wiesbaden 1980, ghi chú 386.
[2] Xem Phan Bội Châu, Tự Phán, Hoa-kì 1987, trang 203 tt.
[3] Như trên, trang 206.
[4] Jörgen Unselt, sđd, ghi chú 385.
[5] Trong đại hội thành lập Đảng Cộng Sản Trung-hoa tại Thượng-hải (01.07.) 1921 chỉ có 13 đại biểu tham dự.
[6] Xã Hội Chủ Nghĩa, Toàn Tập, Tập 4, trang 144 t
[7] Để biết thêm, có thể đọc Wolfgang Franke, Das Jahrhundert der Chinesischen Revolution 1851-1949. 2. Aufl., München, Wien 1980.
[8] Lúc đầu Đảng Cộng sản Trung-hoa không chịu thống hợp vào QDĐ. Nhưng đại diện đệ tam quốc tế là Maring ra lệnh phải thống hợp.  Lí do Nga hi sinh đàn em, là vì họ cần liên minh với Tàu để cản Nhật. Họ chấp nhận đi với Tôn sau khi bế tắc trong các cuộc nói chuyện với giới quân phiệt Tàu cầm quyền.
[9] Phải Thi Hành Chủ Nghĩa Pháp Việt Đề Huề, Toàn Tập, Tập 4, trang 365 t
[10] Trả lời phỏng vấn báo Annam về „Pháp - Việt đề huề“, Toàn Tập, Tập 4, trang 31.
[11] Phan Bội Châu, Tự Phán, sđd, trang 203.
[12] Xã Hội Chủ Nghĩa, trong PBC Toàn Tập, Tập 4, trang 134.
[13]Chủ nghĩa xã hội là một chủ nghĩa rất hợp nhân đạo, tất phải có một cách xử trí cho cực kì công bằng, nếu bách đoạt tiền tài của nhà giàu mà san sẻ ra cho nhà đói, thế thời ra làm rối loạn xã hội, mà không phải là cải lương xã hộiChủ Nghĩa Xã Hội, đã dẫn, trang 135
[14] Xem Xã Hội Chủ Nghĩa, dẫn trên, trang 179t.
[15] Xem J. Unselt, Die Nationalistische und Marxistische Ideologie… sđd; và Sun Yat Sen in the Perspective of Phan Boi Chau´s Vietnamese National Revolutionary Movement, sđd.
[16] Vấn Đề Giai Cấp Đấu Tranh, trong Toàn Tập, Tập 4, trang 368tt.
[17] Xã Hội Chủ Nghĩa, đã dẫn, trang 154t.
[18] Đọc Hoàng Văn Chí, Duy Văn Sử Quan, Cành Nam xuất bản, USA, 1990