Nguyễn
Văn Nghiêm
Biến
Cố Banmêthuột 20 – 9 – 1964, và
Tổ Chức FULRO Của
Đồng Bào Thượng
( Viết trong ngày Father’s
Day 16/6/2002, và ngày 17/6/2002, kỷ niệm ngày sinh thứ 73 )
Trong Nguyệt San Khởi
Hành số 68, tháng 6, 2002, có bài Y- DUEZ- NIEZ của Bùi Đức
Lạc. Đọc bài này tôi bỗng nhớ đến biến cố
Banmêthuột ngày 20, tháng 9, năm 1964, và tổ chức FULRO
của đồng bào Thượng. Tôi xin kể lại câu chuyện sau
đây để độc giả biết thêm về biến cố này và tổ
chức FULRO nói trên.
Sáng hôm nay, sáng Chủ
Nhật, ngày 20, tháng 9, năm 1964, như thường lệ tôi từ
nhà riêng ở Thị Xã Pleiku lái xe Jeep đi vào Quân Đoàn
để tham dự cuộc họp Tham Mưu. Lúc ấy tôi mang cấp
bậc Đại Úy Tạm Thời, còn chức vụ thì làm Trưởng
Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II. Phòng Thượng Vụ không
có dự trù trong bảng cấp số của Quân Đoàn. Nó được
Trung Tướng Nguyễn Khánh cựu Tư Lệnh Quân Đoàn II lập
ra sau ngày 1, tháng 11, năm 1963, để giải quyết những
vấn đề có liên quan giữa Quân Đoàn với đồng bào
Thượng. Nhân số vẻn vẹn có hai người, Trung Sĩ Nay
Puah, một người Thượng thuộc sắc tộc Jarai, nhân viên
văn phòng kiêm thư ký đánh máy, và tôi. Văn phòng Thượng
Vụ được đặt trong một gian phòng ở một dãy những
nhà một tầng dài tường xây bằng gạch, quét vôi màu
vàng, mái lợp ngói đỏ, màu đỏ vẫn còn tươi, vì Bộ
Tư Lệnh Quân Đoàn II mới xây xong khoảng năm 1959, 1960.
Dãy nhà này là nơi đặt văn phòng của các phòng thuộc
Bộ Tham Mưu Quân Đoàn. Từ dãy nhà một tầng này đi
lên toà nhà hai tầng có văn phòng Trung Tướng Tư Lệnh
cũng phải cách xa vài trăm thước. Hôm nay có lẽ Trung
Tướng Tư Lệnh và các Trưởng Phòng còn ở dưới Qui
Nhơn nên quang cảnh Bộ Tư Lệnh vẫn im lìm, vắng lặng.
Chỉ có một mình tôi đi bộ trên con đường nhựa xám
rộng, cong cong theo sườn đồi đất đỏ, mất vài trăm
mét mới tới tòa nhà hai tầng để gặp Đại Tá Tham Mưu
Trưởng Quân Đoàn. Ông đang ngồi sau bàn giấy, theo dõi
tin tức của đài phát thanh Sài Gòn phát ra từ một cái
radio nhỏ để trên bàn. Tôi nói : “Chào Đại Tá, hôm
nay chắc Trung Tướng Tư Lệnh chưa về, nên lại không có
họp Tham Mưu ?” Ông trả lời với một vẻ nghiêm trọng:
“Trung Tướng chưa về. Anh ngồi đây, đêm qua Lực
Lượng Đặc Biệt Thượng đã nổi loạn. Chúng đã
chiếm đài phát thanh Banmêthuột, và đang bao vây thành
phố.” Tôi ngạc nhiên vội hỏi: “ Vậy Tỉnh Darlac,
và Sư Đoàn 23 phản ứng ra sao?” Ông trả lời: “Đã
ra lệnh thiết quân luật, các đơn vị đã được báo
động, và đã được điều động sẵn sàng tác chiến.
Trung Tướng đang từ Qui Nhơn bay lên Banmêthuột. Thủ
Tướng Khánh cũng sẽ từ Sài Gòn bay lên.” Tôi sốt
ruột vội hỏi: “Vậy thì nhiệm vụ tôi phải làm gì
bây giờ?” “Chờ lệnh thôi!”, ông nói ngắn gọn.
Tôi nói : “Vậy để tôi xuống Trung Tâm Hành Quân theo
dõi tình hình, có gì Đại Tá gọi tôi ở Trung Tâm Hành
Quân, hoặc ở văn phòng của tôi, tôi chỉ chạy đi chạy
lại ở hai nơi đó thôi.” Nói xong tôi đi thẳng xuống
Trung Tâm Hành Quân.
Các sĩ quan và quân nhân
trực ở Trung Tâm đều có vẻ khẩn trương, lo lắng. Họ
chỉ cho tôi những dấu hiệu ghi trên tấm bản đồ thật
to gắn trên tường. “Đây là trại Lực Lượng Đặc
Biệt Thượng Buôn Sarpa. Đêm hôm qua trại này đã nổi
loạn, tiến chiếm Quận Đức Lập, rồi kéo quân về
Banmêthuột, bất thần chiếm đài phát thanh. Còn đây là
các trại Bu-Prăng, trại Ban-Don, trại Buôn Briêng, và trại
Buôn Mi-Ga. Tất cả bốn trại này cũng đều nổi loạn,
đã kéo về thành phố, và cùng với quân của trại Buôn
Sarpa ở đài phát thanh, đang bao vây thị xã.” Tôi hỏi:
“ Thế tình hình bên ta thế nào?” “Thị xã đã thiết
quân luật, sĩ quan trực tiếp tục trả lời, dân chúng
tất cả đều ở trong nhà. Ngoài đường chỉ có binh sĩ
và cảnh sát của Tỉnh và Tiểu Khu canh gác khắp các ngả
đường, xe bọc thép tuần tiễu trên đường phố. Toàn
thể các đơn vị của Sư Đoàn 23 Bộ Binh ở Banmêthuột
đã đặt trong tình trạng báo động sẵn sàng tác chiến,
phối hợp cùng lực lượng của Tiểu Khu để bảo vệ
thị xã.” Tôi hỏi tiếp: “Còn tình hình ở các Dinh
Điền và các Buôn Thượng có tin tức gì không?” “Dạ,
có lẽ vẫn yên tĩnh, không thấy Sư Đoàn 23 và Tỉnh
Darlac báo cáo gì.”
Trở về Văn Phòng Thượng
Vụ, tôi vừa buồn, vừa lo lắng, vừa cảm thấy mình
hết sức bất lực. Tôi buồn vì tôi đã liên tục giữ
những chức vụ Thượng Vận từ năm 1956 ở Bộ Tư Lệnh
Quân Khu 4, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và Quân Đoàn II cho đến
hôm nay. Tôi đã thấy rõ những bất mãn của đồng bào
Thượng đối với chính sách của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đối với họ từ lâu. Nhưng điều mà đồng bào
Thượng căm thù Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhất, là năm
1958, Tổng Thống đã ký một Nghị Định ấn định rằng
người
Thượng không có quyền
sở hữu đất đai, mà chỉ có quyền hưởng dụng hoa màu
canh tác. Căn cứ vào Nghị Định này, Tổng Ủy Dinh Điền
và các Tỉnh tự do chiếm đoạt đất đai màu mỡ đang
canh tác của các Buôn Thượng để đưa người Kinh lên
Cao Nguyên thành lập các địa điểm dinh điền mà không
cần phải hỏi ý kiến các Buôn, cũng không phải điều
đình lấy đất, cũng như chẳng phải bồi thường gì
cho ai cả. Để chống lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
năm 1958, đồng bào Thượng đã thành lập Phong Trào
BaJaRaKa, (Chữ đứng đầu tên của bốn sắc tộc lớn ở
Cao Nguyên là Bahnar, Jarai, Rhadé, và Kahô ghép lại), và tổ
chức cuộc họp ở Pleiku. Cảnh sát đã bắt tất cả
những lãnh tụ của Phong Trào giam lại trong tù. Một số
đông công chức Thượng thì bị thuyên chuyển về các
tỉnh ở Duyên Hải miền Trung. Lợi dụng tình thế, nhà
cầm quyền Cộng Sản Hà Nội đã cho những cán bộ
Thượng tập kết ra Bắc năm 1954, và đã được huấn
luyện, theo đường mòn Hồ Chí Minh trở về Cao Nguyên để
tuyên truyền lôi kéo đồng bào Thượng đi theo Cộng Sản.
Trước tình hình mỗi ngày một mất an ninh, người Mỹ
đã tổ chức huấn luyện và phát súng cho dân ở các
Buôn để tự bảo vệ lấy Buôn làng. Một số đoàn
viên Phong Trào BaJaRaKa trẻ tuổi chưa bị bắt đã lợi
dụng cơ hội, đi huấn luyện quân sự, và trở thành các
cấp chỉ huy của lực lượng Dân Sự Chiến Đấu Thượng
ở các Buôn. Một số khác gia nhập vào Lực Lượng Đặc
Biệt, và trở thành các cấp chỉ huy của các Trại Lực
Lượng Đặc Biệt Thượng. Một số khác như Y Bih Alêô,
thì trốn đi theo Cộng Sản, được Cộng Sản cho làm Chủ
Tịch Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị, một thành phần của
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Là sĩ quan phụ trách
công tác Thượng Vận, năm nào tôi cũng phải tổng kết
tình hình trình lên các vị Tư Lệnh, và đưa ra những đề
nghị để cải thiện tình hình. Đặc biệt là trong mỗi
tờ trình tôi đều nhắc lại chiến lược xâm chiếm
miền Nam của Võ Nguyên Giáp ghi trong những tài liệu bắt
được của Việt Cộng trong các cuộc hành quân. Võ
Nguyên Giáp đã đề ra một “Chiến Lược Hai Chân, đặt
chân trái lên Tây Nguyên trước, đặt chân phải lên Đồng
Bằng Nam Bộ sau”. Rõ ràng Cao Nguyên của chúng ta là
mục tiêu đầu tiên Cộng Sản Bắc Việt nhắm đến.
Vậy muốn giữ được miền Nam thì phải giữ được Cao
Nguyên. Mà muốn giữ được Cao Nguyên thì phải để ý
đến vai trò quan trọng của đồng bào Thượng. Rất
tiếc, những đề nghị của tôi không được cấp trên
chú ý đến, có lần còn làm cho vị Tư Lệnh tức giận,
cầm bút gạch chéo tờ trình gần muốn rách giấy, và
phê ở bên lề như sau: “Không được phấn khích tụi
nó !!!” (chữ tụi
nó ở đây ám
chỉ đồng bào
Thượng). Một
lần khác tờ trình bị trả về với những lời phê như
sau: “Tôi không lạ gì tên Đinh Ngô này, không cần đến
anh phải đề nghị !!!” (Thiếu Tá Đinh Ngô, thuộc sắc
tộc Hrê ở Quảng Ngãi, là người đã lãnh đạo bộ lạc
Hrê nổi dậy tiêu diệt 6.000 tên Cộng Sản vào năm 1954,
tại vùng thung lũng Sông Rê, khu vực Ba Tơ, Tỉnh Quảng
Ngãi.) Năm 1963, tôi đã phải viết một cuốn sách “Thử
Tìm Hiểu Công Cuộc Tranh Thủ Đồng Bào Thượng Giữa Ta
và Cộng Sản” dài gần 120 trang , quay ronéo vài chục
cuốn để biếu tặng những bạn bè, thân nhân, toàn là
những người nắm những địa vị cao cấp trong quân đội
và chính quyền để mong gây được sự chú ý đến vai
trò quan trọng của đồng bào Thượng trong việc bảo vệ
Cao Nguyên. Việc làm này cũng hoài công vô ích, chẳng ai
quan tâm đến vấn đề này! Nay 5 Trại Lực Lượng Đặc
Biệt Thượng lại nổi loạn, không biết tôi phải làm
sao đây?
Tôi cũng rất lo lắng vì
bây giờ nhiều làng Thượng đã được huấn luyện quân
sự, và đã được Hoa Kỳ trực tiếp cấp phát súng đạn
để thành lập Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu Thượng
để bảo vệ Buôn làng. Các Dinh Điền của người Kinh
cũng có súng đạn của Nghĩa Quân. Chỉ cần một sự
khiêu khích nho nhỏ cũng đủ để các Buôn Thượng và
các Dinh Điền Kinh tàn sát lẫn nhau. Nếu sự việc xảy
ra, thì không có tài gì để dập tắt ngay được. Nhớ
lại bài học trong lịch sử Cao Nguyên, năm 1471, khi vua Lê
Thánh Tôn đánh thắng quân của nước Chiêm Thành, mở
mang bờ cõi đến núi Thạch Bi thuộc ranh giới Phú Yên –
Khánh Hòa ngày nay, thì các bộ lạc Thượng trên Cao
Nguyên đã nhất tề nổi dậy đánh đuổi những địa
điểm định cư của người Chàm. Chống không nổi,
người Chàm đã phải bỏ làng mạc tháo chạy theo giòng
Sông Ba xuống miền Duyên Hải Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận... Ngày nay người Chàm còn để lại di tích ở
Cheo Reo, Pleiku, Kontum, và ở Ea Soup Bắc Banmêthuột.
Tôi ngồi đây, chạy đi
chạy lại giữa Trung Tâm Hành Quân và Văn Phòng Thượng
Vụ mà ruột nóng như bị lửa đốt. Tôi cảm thấy mình
hoàn toàn bất lực. Tôi tuy chưa phải tín đồ Thiên
Chúa Giáo, nhưng từ năm 1949, là học sinh của Linh Mục
Nguyễn Văn Mai, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Dũng Lạc
ở Hà Nội, tôi đã tin ở Thiên Chúa, và cảm kích trước
cuộc đời của Chúa Giê Su. Trong lúc quá bất lực như
thế này tôi chỉ biết một lòng cầu nguyện. Tôi cầu
xin Chúa cho mọi người đều bình tĩnh, cho các Buôn
Thượng, và các Dinh Điền của người Kinh đều được
bình an, không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra; cho các
trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng và các đơn vị
quân đội không phải nổ súng để nồi da nấu thịt có
lợi cho Cộng Sản. Có lẽ lời thành tâm thiết tha cầu
nguyện của tôi được Ơn Trên đáp ứng, nên tình hình
vẫn tiếp tục yên tĩnh không thấy có biến cố gì thêm.
Khoảng 1, 2 giờ chiều, có tin Trung Tướng Thủ Tuớng
Nguyễn Khánh đã bay lên Banmêthuột và đang họp với các
vị Tư Lệnh Quân Đoàn II, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh,
và Tỉnh Trưởng Darlac. Khoảng 3 giờ chiều, lúc tôi
đang ở Văn Phòng Thượng Vụ thì có điện thoại của
Đại Tá Tham Mưu Trưởng gọi tôi lên văn phòng gặp ông
gấp. Tôi lật đật chạy lên ngay. Đại Tá nói: “Trung
Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn vừa điện thoại cho tôi. Ông
cho lệnh tôi lấy một chiếc máy bay, đưa anh xuống
Banmêthuột ngay. Thủ Tướng cần gặp anh gấp. Tôi đã
cho lệnh lấy máy bay rồi, anh ra phi trường và đi
Banmêthuột ngay.” Tôi chạy về Văn Phòng Thượng Vụ,
điện thoại báo cho mẹ tôi biết để yên tâm, khỏi chờ
tôi về, rồi hối tài xế lái xe chạy ngay ra phi trường
cũng ở trong căn cứ.
Một chiếc máy bay nhỏ
đã nổ máy chờ tôi. Ngoài hai sĩ quan phi công ngồi ở
phía trên, phía sau có bốn ghế ngồi, hành khách chỉ có
một mình tôi. Tôi nói với hai người phi công: “ Tôi
có việc gấp lắm ở Banmêthuột, xin các anh vui lòng bay
thật nhanh cho.” Vài chục phút sau, phi cơ bay tới ranh
giới hai tỉnh Pleiku và Darlac thì thấy phía trước mây
đen nghịt trời. Phi cơ cũng lao vào đám mây đen, nhưng
bị gió bão đánh chao đảo như tụt xuống thật thấp
gần như muốn rớt. Phi công vội vòng trở lại vượt
ra khỏi đám mây. Họ định quay về, nhưng tôi năn nỉ:
“Dưới Banmêthuột, năm trại Lực Lượng Đặc Biệt
Thượng đang nổi loạn. Thủ Tướng cho lệnh tôi xuống
gặp ông gấp, xin các bạn cố gắng thử xem có thể vượt
qua được cơn bão này không.” Nể lời tôi, hai phi công
vòng trở lại và lao thẳng vào đám mây đen kịt kia một
lần nữa. Lần này bị gió mạnh, mưa quất, máy bay còn
bị đánh chao đảo lộn nhào hơn nhiều nữa. Hai phi công
vội vàng quay lại, vượt ra khỏi cơn giông bão kia ngay.
Các anh nói: “Bão mạnh quá, không thể bay qua được
đâu, đành quay về thôi.” Trời ! Tôi thất vọng làm
sao!!! Về đến Văn Phòng Đại Tá Tham Mưu Trưởng, tôi
chưa kịp trình báo gì, ông đã biết và nói: “ Trời
bão quá, không bay được phải không? Thôi anh về nghỉ
đi, sáng mai đi Banmêthuột sớm, Thủ Tướng cũng bay về
Sài Gòn rồi. Ông nói 9 giờ sáng mai ông sẽ gặp anh.”
Đêm hôm đó tôi không
sao ngủ được. Tôi qùy xuống và tiếp tục cầu nguyện:
“Xin Chúa cho mọi sự được bình yên. Cầu xin Chúa cho
mọi sự được bình yên.” Thỉnh thoảng tôi lại nhấc
điện thoại gọi vào Trung Tâm Hành Quân để hỏi tình
hình ở Banmêthuột. Cũng may, đêm qua đi và tình hình
vẫn yên tĩnh. Tôi trở lại phi trường và đáp chiếc
máy bay hôm qua đã chở tôi đi không được. Trời hôm
nay, Thứ Hai 21, tháng 9, thật quang đãng. Sau cơn mưa,
nắng vàng tươi hơn, trong hơn, rừng cây cũng xanh thắm
hơn. Máy bay êm ả đáp xuống phi trường dành cho máy
bay nhỏ ở giữa thành phố, gần nhà thờ thị xã. Một
chiếc xe Jeep đã chờ sẵn đưa tôi vào ngay phòng họp
của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Bước vào cửa
phòng họp tôi biết ngay là tôi đã đến trễ. Trên hàng
ghế đầu, tôi đã thấy Trung Tướng Thủ Tướng Nguyễn
Khánh, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II,
Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ
Binh, và hai vị Tướng khác là Trung Tướng Tôn Thất Đính
Cựu Tư Lệnh Quân Khu 4 ở Banmêthuột năm 1956 – 1957, và
Trung Tướng Lê Văn Kim người đầu tiên phụ trách chương
trình Dinh Điền thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và
Trung Tá Tỉnh Trưởng Darlac. Một số sĩ quan Tham Mưu của
Quân Đoàn tháp tùng đi theo Trung Tướng Nguyễn Hữu Có,
và sĩ quan Tham Mưu của Sư Đoàn 23 đã tề tựu đông đủ
ngồi chật phòng họp. Chào Thủ Tướng và các vị Tướng
Lãnh xong tôi vội vàng đi xuống chiếc ghế trống cuối
cùng ở cuối góc phòng.
Thủ Tướng cho lệnh bắt
đầu buổi thuyết trình. Lần lượt Trưởng Phòng Hai Sư
Đoàn 23 trình bày tình hình các trại Lực Lượng Đặc
Biệt Thượng nổi loạn đang bao vây thành phố, và tình
hình các đơn vị Cộng Sản. Đặc biệt có một Trung
Đoàn Cộng Sản đang trú đóng tại Ban Đon, sẵn sàng
tiến về phía Banmêthuột. Trưởng Phòng Ba trình bày một
kế hoạch hành quân tiến đánh quân của năm trại Lực
Lượng Đặc Biệt để giải vây cho thành phố. Theo
Trưởng Phòng Ba trình bày thì hiện thời trong thành phố
chỉ có hai tiểu đoàn, nhưng có thể rút về được hai
tiểu đoàn nữa là bốn. So quân số thì không bằng quân
của năm trại kia, nhưng Sư Đoàn có phi cơ, pháo binh, và
thiết giáp yểm trợ nên ông tin là có thể thắng được.
Sau khi ông trình bày xong, phòng họp im phăng phắc, mọi
người hồi hộp chờ quyết định của Thủ Tướng.
Bất ngờ Thủ Tướng
đứng dậy quay mặt về phía tôi và hỏi: “ Anh Nghiêm,
anh làm việc với người Thượng từ lâu, theo ý kiến
anh thì việc này nên giải quyết thế nào?” Tuy bị bất
ngờ nhưng trong lúc vị Trưởng Phòng Ba đề nghị dùng
giải pháp quân sự thì tôi thấy đã không được rồi.
Thứ nhất là quân Sư Đoàn và quân của năm Trại LLĐB
đều là quân của mình cả. Nếu nồi da xáo thịt thì
kết quả là mình bị thiệt hại và Cộng Sản được
lợi to, Trung Đoàn Cộng Sản ở Ban Đon sẽ khai thác cơ
hội hiếm có này. Thứ hai là chiến trận sẽ xẩy ra
ngay ở thành phố, chắc chắn thành phố sẽ tan nát, dân
chúng sẽ bị thiệt hại nhiều. Thứ ba là nếu các Lực
Lượng Dân Sự Chiến Đấu Thượng ở các Buôn tràn vào
các Dinh Điền thì một cuộc tàn sát lớn sẽ xẩy ra
giữa người Kinh và người Thượng. Và còn 12 Trại LLĐB
Thượng ở dọc biên giới từ đây lên Kontum cùng nổi
loạn kéo về các thành phố thì ta lấy quân đâu mà đối
phó. Chắc chắn sẽ có một trận nội chiến giữa Quân
Đội VNCH và những lực lượng có võ trang của người
Thượng. Do đó khi thấy Thủ Tướng hỏi thì tôi trả
lời ngay: “ Thưa Thủ Tướng và qúy vị Tướng Lãnh, sở
dĩ người Thượng nổi loạn vì trước đây chính sách
đối với đồng bào Thượng của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm có nhiều sự sai lầm, nếu bây giờ Thủ Tướng
hứa sẽ ban hành một chính sách mới bảo đảm mọi sự
công bằng đối với đồng bào, và sửa chữa tất cả
những sai lầm trước thì tôi chắc người Thượng sẽ
không còn chống đối chính phủ nữa. Nếu Thủ Tướng
và quý vị Tướng Lãnh chấp thuận thì tôi tình nguyện
sẽ đi thuyết phục các Trại LLĐB trở về trung thành
lại với chính phủ.” Tôi thấy Thủ Tướng quay sang
nói gì với Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II, và Thiếu
Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn, vì đứng ở xa tôi nghe không
được rõ. Lát sau ông tiếp tục hỏi: “ Anh có chắc
thuyết phục được họ trở về với chính phủ không?
Và thời gian phải hết bao lâu?” Tôi trả lời: “ Nếu
Thủ Tướng hứa chắc chắn sẽ ban hành một chính sách
mới cho đồng bào Thượng thì tôi có thể thuyết phục
họ được. Tất cả có năm Trại đóng rải rác xung
quanh thành phố, chắc tôi phải cần đến 8 ngày để đi
đến từng Trại và nói chuyện với họ.” Thủ Tướng
hỏi: “ Anh có cần gì không?” “Thưa Thủ Tướng, tôi
trả lời, thứ nhất là tôi cần 3 người Thượng đi với
tôi . Đó là Thiếu Tá Ya Ba, Đại Đội Trưởng Chiến
Tranh Chính Trị của Sư Đoàn, Ông Y Chôn Mlô, Tham Sự
Hành Chánh của bên Tỉnh, và Đại Uý Khổng Đức Phiên,
tên Thượng là Đại Uý Y Pem Knul, ở bên Tiểu Khu. Thứ
hai, tôi cần một nơi lập văn phòng làm việc, và có vài
thư ký đánh máy, xe cho bốn chúng tôi chạy công việc.
Thứ ba, tôi cần 100 ngàn đồng để chi phí như in lời
kêu gọi, in truyền đơn, và nhất là để giết trâu,
uống rượu cần, bàn chuyện với họ, theo phong tục của
người Thượng.” Thủ Tướng có vẻ hài lòng, ông gật
đầu nói: “Được rồi tôi chấp thuận, việc này giao
cho anh Nghiêm đi thuyết phục các Trại LLĐB.” Xong quay
sang những Tướng Lãnh chung quanh ông ra lệnh: “ Tỉnh
lấy Toà Đại Biểu Cao Nguyên Trung Phần cũ làm Văn Phòng
cho anh Nghiêm, và biệt phái thư ký và máy chữ sang đặt
dưới quyền anh Nghiêm để làm việc. Sư Đoàn thì cung
cấp xe cho anh Nghiêm. Trong thời gian anh Nghiêm đi thuyết
phục các Trại thì Sư Đoàn vẫn cứ tiến hành chuẩn bị
kế hoạch hành quân. Anh Có lấy 100 ngàn giao cho anh
Nghiêm để có tiền chi phí, rồi còn phải bay ngay xuống
Qui Nhơn lo việc biểu tình của Phật Giáo. Tôi biết anh
đang bận rộn nên đã đem Trung Tướng Đính và Trung
Tướng Kim từ Đà Lạt sang đây để giúp anh. Trung Tướng
Đính và Trung Tướng Kim sẽ cùng với anh Nghiêm ăn ở và
làm việc tại Toà Đại Biểu Chính Phủ. Công việc tiến
hành tới đâu hai anh Đính và Kim báo cáo về Sài Gòn cho
tôi. Sư Đoàn và Tỉnh yểm trợ cho anh Nghiêm theo yêu
cầu của anh ấy để mau chóng giải quyết vấn đề này.
Sau đây tôi còn phải về gấp Sài Gòn vì còn nhiều
việc phải làm lắm.”
Sau khi đã có quyết định
dứt khoát của Thủ Tướng, tôi thấy các vị Tướng
Lãnh và Trung Tá Tỉnh Trưởng nói chuyện với nhau. Trung
Tá Tỉnh Trưởng kể lại việc Đài Phát Thanh Banmêthuột
bị chiếm. Ông nói:” Đoàn xe GMC chở quân của Trại
Buôn Sarpa đi về Banmêthuột lúc quá nửa khuya. Đi đầu
là một xe Jeep, trên xe có anh Đại Úy Cố Vấn Mỹ của
LLĐB. Vì vậy khi đến trạm gác ở đầu tỉnh, lính gác
không nghi ngờ gì, nên đã
mở cửa rào cản cho đoàn
xe đi qua. Không ngờ khi đoàn xe vừa qua cổng gác, chúng
đã dừng lại, bọn LLĐB Thượng nhẩy xuống xe, bắt
lính gác, và ào vào đài phát thanh. Chúng bắt tất cả
nhân viên trong đài, nhưng ông Trưởng Đài đã nhanh trí,
nhanh tay tháo ngay hai miếng Quarz ở trong ổ máy và nhẩy
qua cửa sổ chạy xuống sườn đồi và men theo con suối
chạy về Tòa Tỉnh báo cáo. Bọn phản loạn tính chiếm
đài phát thanh là cho phổ biến ngay bản Tuyên Cáo của
một tổ chức có cái tên tiếng Pháp là Front Unifié de
Lutte De La Race Opprimée, Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh
Của Dân Tộc Bị Áp Bức, gọi tắt là FULRO. Nhưng vì
ông Trưởng Đài đã gỡ và đem đi hai miếng Quarz nên
bọn chúng loay hoay mãi mà không sao phát thanh được. Bốn
Trại LLĐB kia đã ở bên ngoài thành phố, chờ nghe thấy
lời Tuyên Cáo trên radio thì tiến ngay vào chiếm thành
phố. Nhưng bọn chúng chờ mãi không thấy gì, nên mới
án binh bất động ở bên ngoài cho đến bây giờ, thì
Tỉnh và Sư Đoàn đã kịp điều động quân đội và
Cảnh Sát đối phó.” Thủ Tướng cười nói: “ Chiều
hôm qua về đến Sài Gòn, tôi đã điện ngay cho ông Đại
Sứ Mỹ. Tôi cho ông ấy biết một Đại Úy Mỹ đã dẫn
đoàn xe của LLĐB Thượng, và giúp chúng nó phản loạn
chiếm đài phát thanh. Tôi nói với ông, tôi không muốn
thấy tên Đại Úy ấy ở trên lãnh thổ Việt Nam nữa.
Ông Đại Sứ đã đồng ý và sáng nay trước khi tôi lên
Banmêthuột ông đã điện thoại cho tôi biết là tên Đại
Úy ấy đã được đưa ra khỏi Việt Nam rồi.” Buổi
họp chấm dứt, Thủ Tướng ra phi trường Phụng Dực để
bay về Sài Gòn. Mọi người đi lo công việc của mình.
Toà Đại Biểu Chính Phủ
Cao Nguyên Trung Phần trước kia, nay đã là nhà vãng lai
dành cho những giới chức cao cấp trong Chính Phủ tới
thăm Tỉnh Darlac. Đây là một biệt thự hai tầng rất
lớn xây trong một khu đất rộng, có vườn trồng rất
nhiều loại hoa màu sắc rực rỡ, có vườn cỏ lúc nào
cũng được cắt sén gọn gàng, chăm sóc xanh mướt, và
có rất nhiều cây to bóng mát. Trên lầu có ba phòng ngủ
rất rộng với đầy đủ tiện nghi sang trọng. Trung
Tướng Đính và Trung Tướng Kim mỗi vị ở một phòng.
Tôi cũng may mắn được cấp một phòng kế bên để có
thể thường xuyên báo cáo diễn tiến công việc. Dưới
nhà, bên ngoài là phòng hội rất rộng chứa được
khoảng gần 200 người, có vài gian phòng làm việc. Bên
trong có phòng khách, phòng ngồi chơi uống rượu, có
phòng ăn, tất cả đều rộng lớn được thiết trí rất
mỹ thuật và kê toàn những đồ đạc sang trọng đắt
tiền. Thiếu Tá Ya Ba, Đại Úy Y Pem Knul, và ông Y Chôn
Mlô đã đến. Nhân viên văn phòng cùng máy đánh chữ và
văn phòng phẩm đều đã được Tòa Tỉnh Darlac cung cấp
đầy đủ. Trước khi lên máy bay đi Qui Nhơn, Trung Tướng
Tư Lệnh Quân Đoàn II đã đến xem chỗ đặt văn phòng
của tôi, dặn dò tôi phải cố gắng hết sức mình để
giải quyết công việc được tốt đẹp. Cuối cùng ông
nói: “Thủ Tướng có chỉ thị đưa cho anh 100 ngàn đồng
để chi phí, nhưng tôi chỉ còn 50 ngàn đồng, anh cầm
lấy và tùy nghi mà chi dùng trong số tiền này thôi.”
Tôi ngỡ ngàng, ngần ngừ cầm lấy không dám nói một
lời nào.
Chúng tôi bắt tay ngay
vào công việc, không để chậm trễ một giây phút nào.
Thiếu Tá Ya Ba kết anh em với tôi từ lâu. Anh hơn tuổi
tôi nên làm anh, tôi làm em. Tuy anh là người Churu ở Đà
Lạt, nhưng anh đã từng chỉ huy ở Darlac từ thời Pháp,
nên rất được người Rhadé kính nể. Anh lại còn là
một người rất khôn ngoan, có rất nhiều sáng kiến giải
quyết công việc mau lẹ. Đại Úy Khổng Đức Phiên (Y
Pem Knul) là một sĩ quan chỉ huy rất có kỷ luật. Trông
anh rất oai vệ, lời nói của anh rất có uy, ai thấy anh
cũng nể trọng. Anh Y Chôn Mlô tốt nghiệp Tham Sự Hành
Chánh ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và là một trong
số người trí thức hiếm hoi của đồng bào Thượng.
Anh còn là hội viên trong Ban Trị Sự Hội Thánh Tin Lành
nên rất có uy tín trong bộ lạc Rhadé. Tôi lựa anh vì
anh còn là người ăn nói ôn hòa, khéo léo, có khả năng
nói mọi người nghe. Cả hai anh Phiên và Y Chôn đều đã
quen thân với tôi từ lâu. Chúng tôi mở ngay một cuộc
họp để nhận định tình hình, hoạch định ra một
chương trình làm việc để đạt được mục tiêu thuyết
phục được năm trại LLĐB trở về trại, trung thành lại
với Chính Phủ VNCH.
Theo những tin tức của
các anh Ya Ba, Khổng Đức Phiên, và Y Chôn Mlô thì tổ
chức FULRO là do một số những đoàn viên cũ của Phong
Trào BaJaRaKa đã gia nhập LLĐB ở Buôn Sar Pa, chủ trương
dùng bạo lực để chống Chính Phủ VN. Ví dụ, Y Kdruin
Mlô, con rể ông Phó Tỉnh Trưởng Thượng Phú Bổn, Nay
Moul, cũng là anh em đồng hao với Nay Luett, một thông dịch
viên của LLĐB Mỹ, và sẽ là Tổng Trưởng Bộ Phát
Triển Sắc Tộc từ 1970 đến 1975 sau này; Kpa Doh, người
Jarai, thông dịch viên của Mỹ; Y Dhơn Adrong, người Rhadé
M’Dhur ở M’Drac, Quận Khánh Dương, Khánh Hòa, anh rể
của Y Gum Buôn Yă, một sinh viên Y Khoa Đại Học Huế
được Qũy Học Bổng cho Sinh Viên, Học Sinh Thượng của
ba chúng tôi : Kỹ Sư Nguyễn Văn Mừng, làm việc ở Cơ
Quan Nguyên Tử Lực Cuộc ở Đà Lạt, Touneh Hàn Thọ,
người Churu lai Kinh, Phó Đốc Sự, (con trai của một tù
trưởng Churu, Touneh Hàn Đăng, cựu Đại Diện Đồng Bào
Thượng tại Văn Phòng Đức Vua Bảo Đại ở Huế. Ông
Hàn Đăng đã lấy bà Nguyễn Thị Dung thuộc Hoàng Phái,
và sinh ra Touneh Hàn Thọ. Tôi thấy Hàn Thọ gọi Đức
Vua Bảo Đại là Cậu), và tôi âm thầm thành lập từ
1957, giúp đỡ ăn học; Y Nhuin Hmok; Trung Úy Y Nham Eban, và
Ksor Dhuat... Những người này đã bị Đại Tá Um Savuth,
Trưởng Phòng Nhì Quân Đội Hoàng Gia Kampuchia, và Trung Tá
Les Kosem, người Miên gốc Chàm ở Kămpongcham, làm việc ở
Văn Phòng Quốc Trưởng Sihanouk, móc nối, kết hợp ba tổ
chức chống VN là Mặt Trận Đấu Tranh Của Người Khmer
Miền Dưới Kampuchea ( Khmer of Kampuchea Krom, KKK), Phong Trào
Giải Phóng Champa, và Phong Trào BaJaRaKa, thành tổ chức
FULRO, chữ Pháp viết tắt của chữ Front Unifié de Lutte de
la Race Opprimée, Phong Trào Thống Nhất Đấu Tranh của Dân
Tộc Bị Áp Bức. Theo các anh Ya Ba, Khổng Đức Phiên, và
Y Chôn Mlô thì cuộc hành quân tiến chiếm Banmêthuột
bằng 5 trại LLĐB, chắc là do người Miên hoạch định
và chỉ huy. Theo lời Tuyên Cáo của FULRO thì mục tiêu
là tuyên bố miền Cao Nguyên là một miền Tự Trị. Cứ
xem cái cờ của FULRO có ba sọc ngang màu xanh lá cây, màu
đỏ, màu xanh nước biển, và ba ngôi sao thì biết rằng
chúng tượng trưng cho ba sắc dân Chàm, Khmer Krom, và
Thượng.
Tôi có một nhận xét là
kế hoạch hành quân của họ là dùng LLĐB Buôn Sarpa chiếm
đài phát thanh, đọc bản Tuyên Cáo của FULRO làm hiệu
lệnh để 4 trại LLĐB kia cùng tiến vào đánh giết người
Kinh và chiếm thành phố. Như vậy thì bọn chỉ huy tiền
phương có thể đi với LLĐB Buôn Sar Pa, còn 4 trại kia
chỉ là thừa hành theo mệnh lệnh. Nay đài phát thanh
không dùng được, Tuyên Cáo không đọc được trên đài,
các trại kia đều khựng lại không tiến vào thành phố.
Bây giờ thì quân đội Tỉnh và Sư Đoàn đã án ngữ
các đường vào thành phố, do đó bọn họ đang ở trong
tình trạng tiến thóai lưỡng nan. Nên mục tiêu cấp
thời là phải thuyết phục ngay 4 trại đó trở về căn
cứ trước tiên. Còn Trại Buôn Sar Pa bị bỏ lại trơ
trọi một mình ở đài phát thanh thì một là họ phải
rút lui, hai là việc thuyết phục họ cũng dễ dàng hơn.
Cả bốn chúng tôi cùng
đồng ý với nhau như vậy. Bây giờ chúng tôi phải hành
động làm sao để hoàn thành kế hoạch. Lợi dụng phong
tục người già của người Thượng chúng tôi quyết định
yêu cầu Tỉnh giúp mời các thân hào nhân sĩ người
Thượng đến họp tại phòng họp của Tòa Đại Biểu
Cao Nguyên Trung Phần cũ vào sáng ngày mai, 22, tháng 9.
Khoảng gần 200 sĩ quan, công chức, và các già làng các
Buôn quanh thị xã đã đến họp. Hội Nghị bầu ra một
Ban Đại Diện, do Y Char Hdơk, người Mnông Rlam ở vùng Hồ
Lak, Quận Lạc Thiện, giáo viên Trường Tiểu Học Nguyễn
Du Banmêthuột, làm Chủ Tịch. Anh Y Char Hdơk cũng là
người thân quen với tôi từ nhiều năm qua. Anh còn trẻ,
không thích hoạt động chính trị, nhưng anh nuôi ước mơ
phát triển được giáo dục cho con em đồng bào Thượng.
Hội Nghị đã ra một Tuyên Cáo bằng tiếng Rhadé và
tiếng Việt lên án những phần tử nghe lời xúi giục
của ngoại bang, đã giết hại một số cố vấn LLĐB
người Kinh ở các trại, gây phản loạn, làm hại cho
công cuộc chống Cộng Sản đang xâm lăng miền Nam nói
chung và miền Cao Nguyên nói riêng. Hội Nghị nhân danh
toàn thể thân hào, nhân sĩ, và các già làng Thượng kêu
gọi các cấp chỉ huy và binh sĩ của 5 Trại LLĐB mau mau
ăn năn hối cải rút lui về trại tiếp tục làm nhiệm
vụ chống Cộng Sản và tuyệt đối trung thành với Chính
Phủ VN. Hội Nghị cũng nhấn mạnh đến những thiện
chí của Chính Phủ mới đã và đang giải quyết những
bất công trong chính sách của Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
đồng thời Thủ Tướng Nguyễn Khánh cũng đã hứa sẽ
sớm ban hành một chính sách mới để giúp đỡ đồng
bào Thượng được mau chóng tiến bộ.
Bản Tuyên Cáo này đã
được đem ra nhà in thuê in cấp tốc để kịp sáng ngày
23, cho phái đoàn Ban Đại Diện cùng các anh Ya Ba, Khổng
Đức Phiên, và Y Chôn Mlô đem theo đến 4 trại LLĐB và
thuyết phục họ. Hội Nghị cũng thành lập nhiều nhóm
nhỏ để yêu cầu Tỉnh cung cấp phương tiện chuyên chở
đi đến các Buôn để khuyên nhủ đồng bào Thượng bình
tĩnh, không hoang mang, hoặc nghe lời khích động của
những tên phản loạn quá khích xúi giục làm bậy. Máy
bay cũng được xử dụng liên tiếp nhiều ngày để thả
truyền đơn Tuyên Cáo này xuống các Buôn làng. Chúng tôi
cũng yêu cầu Tòa Tỉnh chỉ thị các Quận Trưởng thành
lập các nhóm đi tới các Dinh Điền để trấn an đồng
bào Kinh, và khuyên đồng bào phải hết sức bình tĩnh
tránh mọi sự khiêu khích có thể gây ra những sự xô
sát giữa đồng bào Kinh ở Dinh Điền với đồng bào
Thượng ở các Buôn.
Sau cuộc họp giữa bốn
chúng tôi vào chiều ngày 21/9 nói trên, các anh Ya Ba, Khổng
Đức Phiên, và Y Chôn Mlô đi tiếp xúc vận động các
thân hào nhân sĩ Thượng, vận động họ sẽ đến họp
vào sáng mai 22/9, đồng thời tiếp tục thu lượm thêm
tin tức từ phía phe phản loạn. Riêng tôi nghĩ đến
những cựu học sinh Thượng các trường Trung Học và Sư
Phạm Banmêthuột đã được tôi cấp học bổng ăn học
nay đã bỏ học để đi làm thông dịch viên cho Mỹ, hoặc
đã trở thành những cấp chỉ huy trong các trại LLĐB để
kiếm tiền. Tôi đã tìm được vài em làm việc cho cơ
quan Hoa Kỳ đặt ở Bungalow, một dãy những nhà sàn lớn
và dài theo kiểu nhà của đồng bào Thượng của người
Pháp để lại. Trong số này có em Y Tin Hwing là người
đã giúp tôi đắc lực nhất. Tôi đã hội họp các em ở
văn phòng của tôi, nghe các em cho biết tin tức về tổ
chức FULRO và các Trại làm phản, sau đó tôi đã giải
thích cho các em cần phải cùng nhau thuyết phục các bạn
hữu ở các Trại LLĐB phải từ bỏ đường lối đấu
tranh bằng bạo lực, nếu không cảnh nồi da xáo thịt sẽ
diễn ra, chỉ có lợi cho ngoại bang, và Cộng Sản. Các
em đồng ý giúp tôi. Các em sẽ dùng xe gắn máy riêng
của các em đi ngay đến 4 trại LLĐB để gặp các bạn,
và trực tiếp thuyết phục họ rút quân về lại căn cứ.
Đến chiều ngày 22/9, Y Tin Hwing đã lái xe gắn máy của
em trở về báo cáo cho tôi biết em đã đến cả 4 Trại
LLĐB, nói chuyện với họ, và họ đã đồng ý rút quân.
Việc này đã giúp cho phái đoàn Ban Đại Diện Nhân Sĩ
Thượng đến các trại vào sáng ngày 23/9 gặp rất nhiều
thuận lợi trong việc thuyết phục. Tất cả binh sĩ 4
trại này sau đó đã thật sự rút về căn cứ của họ.
Thế là chỉ có 3 ngày, bốn anh em chúng tôi đã hoàn
thành được mục tiêu đầu tiên là thuyết phục 4 Trại
LLĐB đang bao vây thành phố trở về trại của họ. Trại
LLĐB Buôn Sar Pa đang chiếm đóng đài phát thanh thấy 4
trại kia rút đi cũng rời bỏ đài phát thanh và lui về
đóng quân tại Quận Đức Lập. Bây giờ là lúc nhóm
chúng tôi phải tiến hành việc thuyết phục Trại LLĐB
Buôn Sar Pa này.
Diễn tiến tất cả
những việc làm của chúng tôi đều được tôi trình cho
Trung Tướng Tôn Thất Đính và Trung Tướng Lê Văn Kim.
Nhưng không hiểu vì sao, sáng sớm ngày 22/9 Trung Tướng
Lê Văn Kim đã được máy bay đưa về Đà Lạt. Chỉ còn
một mình Trung Tướng Tôn Thất Đính ở lại. Ông chỉ ở
trong căn phòng ngủ cạnh phòng ngủ của tôi và giữ
nhiệm vụ thường xuyên báo cáo diễn tiến công việc về
Sài Gòn cho Thủ Tướng Nguyễn Khánh. Mỗi lần báo cáo
công việc tôi lại lên lầu gõ cửa phòng xin phép được
gặp và trình bày diễn tiến công việc với Trung Tướng.
Công việc thuyết phục
Trại LLĐB Buôn Sar Pa gặp rất nhiều khó khăn và mất
rất nhiều thì giờ. Trong khi chờ đợi Sư Đoàn và Tỉnh
xin được trực thăng của các cố vấn Mỹ đưa chúng
tôi xuống Đức Lập gặp các cấp chỉ huy của trại,
chúng tôi chỉ dùng được máy bay rải truyền đơn xuống
Quận Đức Lập để kêu gọi họ. Tôi cũng cho thu băng
lời kêu gọi của tôi đến các cấp chỉ huy của Trại,
mà một số trong bọn họ đã từng là những em học sinh
nhận học bổng từ Quỹ Học Bổng cho Sinh Viên, Học
Sinh Thượng đã nói ở trên, và cho loa phóng thanh phát ra
từ trên máy bay rải truyền đơn. Chiều 25/9, chúng tôi
được tin là sáng 26/9 sẽ có trực thăng của Mỹ đưa
xuống Đức Lập. Tôi dự trù 4 anh em trong nhóm của tôi
và Y Char Hdơk cùng đi, nhưng anh Ya Ba và tất cả các anh
khác đều nói: “Chúng tôi là người Thượng, chúng tôi
xuống nói chuyện với họ dễ dàng hơn. Anh là người
Kinh, anh không nên đi vội. Sau khi chúng tôi gặp được
họ rồi, nếu tình thế thuận lợi, anh sẽ gặp họ sau
thì tốt hơn, an toàn hơn. Hơn nữa, cũng cần phải đề
phòng, nếu chúng tôi xuống gặp họ có điều gì không
may xẩy ra còn có anh ở nhà liên lạc với Sư Đoàn và
Tỉnh để giải quyết.” Lời nói của các anh rất hợp
lý, tôi phải nghe theo, nhận nhiệm vụ ở nhà theo dõi
công việc. Sáng 26, tôi chuẩn bị tiễn các anh Ya Ba,
Khổng Đức Phiên, Y Chôn Mlô, và Y Char Hdơk ra phi trường.
Chúng tôi đứng giữa phòng hội của Tòa Đại Biểu.
Anh Ya Ba xúc động nói với tôi: “ Anh và các bạn đây
đi chuyến này dữ nhiều lành ít, chưa biết sự thể sẽ
ra sao. Nếu có điều gì xẩy ra, mà anh không trở về
được thì em phải có nhiệm vụ lo cho hai chị (anh Ya Ba
lấy hai chị em gái làm vợ), và giúp đỡ cho các cháu.”
(Đây là một phong tục kết anh em rất đẹp của đồng
bào Thượng. Những người đã đồng ý kết anh em với
nhau sẽ thương yêu nhau, trung thành với nhau, tin cậy ở
nhau, có khi còn hơn anh em ruột thịt. Tôi bị ảnh hưởng
rất nhiều ở phong tục đẹp đẽ này, bởi vì làm việc
với đồng bào Thượng một thời gian dài tôi đã có
không biết là bao nhiêu anh em kết nghĩa ở rất nhiều bộ
lạc trên Cao Nguyên.) Nghe anh Ya Ba nói tôi cũng vô cùng
xúc động, tôi thành thật hứa sẽ theo đúng lời căn
dặn của anh, sẽ giúp đỡ các chị và các cháu với tất
cả khả năng của mình. Nghe tôi hứa, anh cũng tỏ vẻ
yên tâm, anh đưa tôi một cái thơ ngỏ anh viết tối hôm
qua như là một lời trăn trối với vợ con, và dặn hai
chị có thể tin cậy ở sự trông nom giúp đỡ của tôi.
Đọc những lời anh viết nước mắt tôi tự động trào
ra !!! Chúng tôi cùng đứng thành vòng tròn quay mặt vào
giữa, anh Ya Ba cất tiếng cầu nguyện Chúa theo lối cầu
nguyện của đạo Tin Lành. Đại ý anh cầu nguyện: “Lạy
Chúa! Chúng con đặt hết niềm tin ở Chúa. Xin Chúa gìn
giữ chúng con, xin cho chúng con hoàn thành nhiệm vụ bình
an trở về. Xin Chúa mở lòng các anh em LLĐB để các anh
em lắng nghe những lời nói của chúng con, và từ bỏ
đường lối dùng bạo lực, để cho máu những anh em Kinh
Thượng vô tội không còn đổ ra thêm một cách vô ích
nữa. Xin Chúa cho anh em người Kinh, người Thượng chúng
con biết thương yêu nhau trong hòa bình, trong hạnh phúc,
cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam này của chúng
con. Amen !”
Viết đến đây, nhớ
lại những kỷ niệm xưa tôi không sao cầm được nước
mắt. Tôi sẽ mãi mãi nhớ anh Ya Ba, nay anh đã già lắm
rồi vì anh hơn tôi năm sáu tuổi. Anh hiện tị nạn Cộng
Sản ở North Carolina. Anh Khổng Đức Phiên sau lên tới
Đại Tá, làm Đại Diện Bộ Phát Triển Sắc Tộc tại
Vùng II Chiến Thuật thuộc phạm vi Quân Đoàn II, tại
Pleiku. Mùa hè 1972, Cộng Sản pháo kích vào căn cứ của
Quân Đoàn II. Một viên đạn đã rớt trúng xe Jeep của
anh khi xe đang chạy ở trên đường, làm anh bị thiệt
mạng. Anh Y Chôn Mlô hơn tôi vài ba tuổi, anh hiện làm
mục sư Tin Lành ở Banmêthuột. Y Char Hdơk, vì còn trẻ
tuổi hơn tôi nên làm em, sau được đi học ở Southern
Illinois University ở Hoa Kỳ năm 1967. Tốt nghiệp về
nước em được cử làm Phó Hiệu Trưởng Trường Sư
Phạm và Kỹ Thuật Thượng Cao Nguyên ở Banmêthuột. Sau
1975, em bị Cộng Sản bắt bỏ tù, gọi là đi “học tập
cải tạo” 12 năm. Được tha về, người ốm yếu sức
khoẻ không còn, vài năm sau em qua đời, để lại trong
lòng tôi niềm thương tiếc khôn nguôi !!!
Cầu nguyện Chúa xong,
tôi bùi ngùi tiễn các anh lên xe ra phi trường đáp trực
thăng đi Đức Lập. Ngồi chờ tin tức ở Văn Phòng lòng
tôi như lửa đốt. Quá trưa tôi thấy xe các anh trở về,
người nào cũng có vẻ mệt mỏi chán chường. Thì ra
các anh đã chờ trực thăng trong căn cứ của Hoa Kỳ suốt
mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng người Mỹ cho biết :
“Hôm nay không có trực thăng, chuyến trực thăng dự trù
đã bị hủy bỏ.” Chúng tôi nghĩ rằng người Mỹ có
lẽ đã không muốn cho chúng tôi tiếp xúc với trại LLĐB
Buôn Sar Pa. Ngày nào trực thăng của họ cũng bay qua bay
lại giữa Bungalow và Quận Đức Lập nhiều lần, nhưng
phía VN xin trực thăng để chở chúng tôi đi thì họ đều
trả lời chưa có. Chỉ còn hai ngày nữa là hết hạn 8
ngày tôi hứa với Thủ Tướng, tôi phải tìm cách để
gặp bằng được các anh em chỉ huy Buôn Sar Pa. Chiều
hôm 26/9 ấy tôi đề nghị với Trung Tướng Tôn Thất
Đính là xin Sư Đoàn chuẩn bị cho mở một cuộc hành
quân xuống Quận Đức Lập vào sáng ngày 28/9. Mục đích
đầu tiên là cho bốn anh em chúng tôi cùng một nhân viên
truyền tin mang máy đi theo một cánh quân. Khi gần đến
Quận Đức Lập thì dừng lại, tiến hành bao vây Quận,
để bốn anh em chúng tôi và nhân viên truyền tin đi sang
gặp các cấp chỉ huy Trại LLĐB để thuyết phục họ
buông súng , trung thành lại với chính phủ. Nếu chúng
tôi làm được công việc này, chúng tôi sẽ gọi máy về
và xin Thủ Tướng và các vị Tướng Lãnh, cùng ông Tỉnh
Trưởng đáp trực thăng xuống tiếp nhận họ. Cũng xin
cho chuẩn bị đoàn xe, nếu mọi việc suông sẻ đúng với
dự trù thì sau khi xong việc sẽ cho chở hết vũ khí về
kho, còn những binh sĩ LLĐB thì cho trở về một chỗ tạm
trú nào để chúng tôi tổ chức giết trâu, cúng Yang
(Thần) mừng sự trở về của họ, và cho họ tuyên thệ
trước Thần Linh, từ nay trung thành với Chính Phủ, không
còn nghe theo lời dụ dỗ của ngoại bang nữa. Còn nếu
có chuyện không may xẩy ra, không nhận được sự liên
lạc thường xuyên bằng máy truyền tin của chúng tôi nữa
thì Sư Đoàn tùy nghi dùng biện pháp tấn công đơn vị
phản loạn này để dứt điểm. Không biết Trung Tướng
Tôn Thất Đính trình với Thủ Tướng như thế nào, nhưng
tôi thấy những đề nghị của tôi được chấp thuận
hoàn toàn.
Sáng sớm ngày 28/9, cuộc
hành quân bắt đầu. Bốn anh em tôi và một nhân viên
truyền tin mang máy trên vai đi theo một cánh quân. Hôm
nay không có Y Char Hdơk đi theo. Cánh quân này không đi
trên Quốc Lộ 14, mà băng thẳng qua các ngọn đồi đất
đỏ đi xuống Quận Đức Lập. Khi đi đến bờ con suối
ngăn ngang hai ngọn đồi, bên này đồi là cánh quân của
Sư Đoàn 23 có nhóm của chúng tôi đi theo, bên kia đồi
là quân của Trại LLĐB Buôn Sar Pa rút từ Đài Phát Thanh
Banmêthuột về còn đóng ở đấy chứ không rút thẳng
về căn cứ ở Buôn Sar Pa. Tôi nói với sĩ quan chỉ huy
cánh quân: “ Tất cả ngừng bên này đồi và bố trí
sẵn sàng chờ lệnh được rồi, để nhóm chúng tôi đi
qua suối lên đồi bên kia, vào Quận Đức Lập nói chuyện
với các cấp chỉ huy của LLĐB.” Lính Thượng của
LLĐB núp trong những bụi cây canh phòng thấy các anh Ya
Ba, Khổng Đức Phiên, và nhất là thấy anh Y Chôn Mlô thì
mừng rỡ lễ phép chào hỏi. Họ báo cáo vào trong Quận
rồi đưa chúng tôi lên đồi. Chúng tôi còn đang leo dốc
thì đã thấy các cấp chỉ huy của Trại chạy ào xuống
bắt tay chào mừng rối rít. Những em học sinh Trung Học
trước kia đã nhận học bổng hoặc đã quen biết tôi
nay là các cấp chỉ huy thì chạy lại nắm chặt lấy hai
tay của tôi. Họ nói: “Ayong Khăp! Ayong Khăp! Chúng em
đã nhận được rất nhiều truyền đơn và thơ kêu gọi
của anh gửi cho chúng em, được nghe thấy cả tiếng kêu
gọi của anh trên máy bay nhưng chúng em không làm sao liên
lạc được với anh.” (Ayong
là Anh,
Khăp là
Yêu Thương, và
là tên Thượng
các em học sinh Thượng đặt cho tôi, sau trở thành tên
Thượng riêng mà người Thượng dùng để thân mật gọi
tôi: Ayong Khăp,
Anh Yêu Thương!)
Vì đã là anh em từ lâu, tôi trách họ: “ Các em làm
bậy quá, khi không nghe theo lời xúi giục của người ta
giết hại bao nhiêu người, rồi về chiếm đài phát
thanh nữa. Nay Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã hứa ban hành
một chính sách mới giúp đỡ đồng bào Thượng rồi,
các em phải ngưng ngay, không được dùng bạo lực nữa.
Cũng may có các anh được Thủ Tướng cho đi thuyết phục
các em, chứ nếu không Thủ Tướng cho quân đội, máy
bay, pháo binh, thiết giáp tấn công thì chết rồi. Thêm
nữa nếu các Buôn Thượng và các Dinh Điền Kinh xô sát
với nhau thì các em làm sao mà bảo vệ được gia đình
vợ con các em.” Dĩ nhiên là tôi dùng tiếng Rhadé để
nói chuyện với họ. Ngay từ năm 1956, được cấp trên
đề cử phụ trách về Thượng Vận tôi đã phải tự
học lấy tiếng Thượng. Trung Sĩ Rcom DamJu’ là thư ký
đánh máy của tôi ở phòng năm Quân Khu 4 là người đầu
tiên dạy tôi tiếng Rhadé, và tiềng Jarai. Anh cũng là
người đầu tiên cùng tôi dự lễ giết một con gà cúng
Yang kết làm anh em trước sự làm chứng của Thiếu Tá
Nay Lô. Sau này anh Damju đắc cử Dân Biểu Khóa 2, thời
Tổng Thồng Ngô Đình Diệm. Chính anh là người đề
nghị Tổng Thống cho thành lập một tỉnh mới ở quê
hương của anh, và đã được Tổng Thống chấp thuận.
Vì vậy Tỉnh Phú Bổn đã ra đời. Sau chính biến ngày
1 – 11 – 1963, chính quyền cũ không còn nữa, anh được
Trung Tá Ya Ba sau này làm Tỉnh Trưởng Pleiku, bổ nhiệm
làm Phó Tỉnh Trưởng Thượng. Anh giữ nhiệm vụ này
cho đến 1975, Cộng Sản tiến chiếm Pleiku sau khi Quân
Đoàn II rút khỏi Cao Nguyên. Vì anh mang họ Rcom, một họ
rất lớn, rất giàu có, nhiều thế lực, đời đời làm
tù trưởng người Jarai vùng Cheo Reo, nên Cộng Sản cũng
không bắt anh đi cải tạo mà còn lợi dụng anh để
chiêu dụ đồng bào Thượng. Cộng Sản ép anh làm một
chân trong Mặt Trận Tổ Quốc, và cho phép anh vẫn được
giữ khoảng 6 sào ruộng, trong khi những người Thượng
khác chỉ được giữ một hai sào, hoặc 3 sào là tối
đa.
Các cấp chỉ huy LLĐB
đưa chúng tôi vào Quận. Các anh Ya Ba, Khổng Đức Phiên,
Y Chôn Mlô, và tôi cho họ biết, quân đội đã vây quanh
đây rồi. Thủ Tướng cũng đã hứa khoan hồng cho tất
cả những người lầm lỗi. 4 Trại LLĐB kia đã rút về
trại an toàn, Thủ Tướng cũng không truy cứu tội làm
phản nữa. Chúng tôi khuyên họ nên buông súng trở về
với chính phủ. Họ hỏi: “Nếu chúng em buông súng quân
đội sẽ tràn sang giết chúng em thì sao?” Tôi nói: “Các
em hãy tập trung súng ở dưới chân cột cờ kia, rồi xếp
hàng đứng ở đây. Anh Ya Ba, anh Y Pem Knul (Khổng Đức
Phiên), anh Y Chôn Mlô, và anh sẽ xếp hàng đứng trước
các em. Nếu họ bắn thì bọn anh sẽ chết trước.”
Các anh Ya Ba, Khổng Đức Phiên, Y Chôn Mlô cũng nói y như
vậy. Thời giờ cấp bách, quân đội của Sư Đoàn đã
bao vây sát bên ngoài nên họ đành phải nghe lời khuyên
của bốn anh em chúng tôi. Tất cả súng, đạn đều được
dựng thành hàng dưới chân cột cờ. Binh sĩ LLĐB đứng
sắp hàng dài trước cột cờ Quận. Bốn chúng tôi đứng
hàng ngang xếp hàng trước họ. Chúng tôi đã dùng máy
truyền tin báo kết quả về Bộ Chỉ Huy cuộc hành quân.
Ít lâu sau quân đội đã vượt đồi sang sát hàng rào
quận bố trí, hờm súng giữ an ninh. Một chiếc trực
thăng đã đưa Thủ Tướng, Trung Tướng Tôn Thất Đính,
Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu
Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Sư Đoàn 23, và Trung Tá
(dường như là Trung Tá Lê Văn Thành, tôi xin lỗi đã
không còn nhớ chính xác tên ông) (Theo
lá thư của anh Dương Thượng Từ, Sĩ Quan Quân Cụ, Cựu
Chỉ Huy Trưởng Kho Đạn Banmêthuột mà tôi trình bầy ở
cuối bài này, thì Trung Tá Tỉnh Trưởng lúc bấy giờ là
Trung Tá Giá)
Tỉnh Trưởng Darlac xuống ngay sân bay trực thăng của
Quận. Y Tlur Trưởng Trại LLĐB chỉ huy hàng quân trong đó
có cả bốn chúng tôi đứng nghiêm chào Thủ Tướng và
các vị Tướng Lãnh. Thủ Tướng chỉ thị tôi nói Y
Tlur cho làm lễ hạ cờ FULRO treo trên ngọn cột cờ xuống
và làm lễ thượng Quốc Kỳ Việt Nam lên. Xong rồi cử
hành lễ tuyên thệ trung thành với Chính Phủ VN. Thủ
tục cử hành đã diễn ra trong không khí rất trang nghiêm.
Những tiếng hô “Xin thế!” của binh sĩ LLĐB vang dội
núi đồi Quận Đức Lập. Thủ Tướng hài lòng, ân cần
khuyên nhủ các binh sĩ đang đứng sắp hàng ngay ngắn, lễ
phép, kỷ luật, phục tùng trước mặt ông, mà mới một
tuần trước đây đã là những kẻ phản loạn hung hăng
dữ tợn bắn giết các cố vấn LLĐB người Kinh trong
trại của họ với hàng trăm viên đạn lên trên mình mỗi
người, như trút tất cả những hận thù ra ngoài trong
lúc cơn phẫn nộ bị kích thích lên tới tột đỉnh.
Nhất là khi được nghe chính Thủ Tướng tuyên bố khoan
hồng cho họ, và sẽ cho họ trở về nghỉ ngơi ở
Banmêthuột để giết trâu cúng Yang ăn mừng sự ăn năn
hối cải trở về với chính phủ, và để được thăm
gặp gia đình vẫn được chính quyền đối xử tử tế
mặc dù họ đã làm phản loạn, họ đã nhiệt liệt hoan
hô tỏ lòng biết ơn Thủ Tướng. Thủ Tướng và phái
đoàn đã lên ngay trực thăng dời khỏi Quận Đức Lập.
Binh sĩ hành quân của Sư Đoàn đã thu dọn súng đạn ra
xe chở về kho. Bốn anh em chúng tôi và quân nhân mang máy
truyền tin cùng với binh sĩ Trại LLĐB Buôn Sar Pa được
hướng dẫn đi ra cổng Quận. Một đoàn xe GMC đã đậu
dài theo Quốc Lộ 14 trước cổng Quận chờ sẵn để chở
binh sĩ của LLĐB về Banmêthuột. Chúng tôi cũng lên
những chiếc xe Jeep của Sư Đoàn dành riêng để chở
chúng tôi. Cuộc phản loạn của 5 Trại LLĐB Thượng vào
ngày 20, tháng 9, năm 1964, đến hôm nay 28, tháng 9, đã
được giải quyết êm đẹp không tốn một viên đạn,
không mất một giọt máu nào, và vừa đúng thời hạn 8
ngày mà tôi đã xin với Thủ Tướng và các vị Tướng
Lãnh tại buổi họp Tham Mưu sáng ngày 21/9 tại phòng họp
Sư Đoàn. Về đến Toà Đại Biểu bốn chúng tôi đều
đứng vòng tròn, cùng nhắm mắt nghe anh Y Chôn Mlô đọc
lời cầu nguyện tạ ơn Thượng Đế, tạ ơn Chúa Giê
Su, trong niềm hân hoan và mừng rỡ vô biên. Tôi không
còn gặp được Trung Tướng Tôn Thất Đính ở phòng ngủ
trên lầu nữa. Người giúp việc ở Tòa Đại Biểu cho
biết Trung Tướng đã cùng với Thủ Tướng Nguyễn Khánh
bay sang Đà Lạt rồi. Mãi đến Chủ Nhật 26, tháng 5,
2002, vừa qua tôi mới được gặp lại Trung Tướng Tôn
Thất Đính trong buổi họp mặt của các chiến hữu Sư
Đoàn 2 Bộ Binh tại Paracel Seafood Restaurant. 38 năm đã
trôi qua! Thời gian đi nhanh quá! Trung Tướng và tôi đã
cười vui nhắc lại kỷ niệm những ngày giải quyết
Biến Cố Banmêthuột 20, tháng 9, 1964, ở Tòa Đại Biểu
Chính Phủ Cao Nguyên Trung Phần cũ.
Chiều hôm ấy, 28/9/1964,
Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II đã đến
Tòa Đại Biểu để họp quyết định khen thưởng bốn
anh em chúng tôi. Trung Tướng ngồi một bên cái bàn họp
dài quay lưng vào vách tường. Bốn chúng tôi ngồi một
bên cái bàn đối diện với Trung Tướng quay lưng lại
phòng họp của Tòa Đại Biểu. Trung Tướng nói: “Buổi
trưa nay trong lúc tôi đưa Thủ Tướng ra sân bay, Thủ
Tướng đã nói tôi phải khen ngợi các anh và thăng thưởng
các anh xứng đáng. Anh Nghiêm thì được Thủ Tướng cho
thăng lên cấp bậc Thiếu Tá và được cấp cho một cái
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Anh Ya Ba được
thăng lên cấp bậc Trung Tá và được thưởng một Anh
Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng. Anh Y Chôn Mlô thì được
Bộ Nội Vụ cho thăng lên hai cấp bên ngạch trật hành
chánh, việc này Tòa Tỉnh Darlac sẽ phụ trách. Còn anh
Khổng Đức Phiên thì được thưởng một Anh Dũng Bội
Tinh với ngôi sao vàng.” Cả bốn chúng tôi vừa mừng
vừa ngạc nhiên thất vọng. Tôi rụt rè thưa lại với
Trung Tướng: “Kính thưa Trung Tướng, việc này đều do
bốn anh em chúng tôi cùng cộng tác với nhau giải quyết.
Không thể nói ai có công hơn ai. Do đó nếu Thủ Tướng
và Trung Tướng đã quyết định thăng cấp cho các anh Ya
Ba, Y Chôn Mlô, và tôi, thì xin Thủ Tướng và Trung Tướng
cũng chấp thuận thăng cấp cho anh Khổng Đức Phiên nữa
vì anh cũng rất có công, và cũng rất xứng đáng được
thăng cấp như ba anh em chúng tôi.” Lời nói của tôi
không có hiệu nghiệm, anh Ya Ba, anh Y Chôn Mlô cũng đều
cất tiếng nói xin giúp anh Khổng Đức Phiên, trong khi tôi
thấy anh Phiên lộ vẻ mặt rất buồn tội nghiệp. Trung
Tướng vẫn chưa chấp thuận, mặc dầu tôi và hai anh Ya
Ba, Y Chôn Mlô cùng năn nỉ Trung Tướng thêm nhiều lần
nữa. Cuối cùng tôi ngỡ ngàng nghe anh Ya Ba nói: “Kính
thưa Trung Tướng, chúng tôi đã trình Trung Tướng là việc
này đều do tất cả bốn anh em chúng tôi cùng làm mà có
kết quả tốt. Nếu chỉ có ba chúng tôi được thăng
thưởng còn anh Khổng Đức Phiên thì không, như thế anh
Khổng Đức Phiên sẽ rất buồn, mà ba anh em chúng tôi
cũng chẳng được vui. Tôi thấy rằng tôi đã có cấp
bậc Thiếu Tá rồi, tôi xin nhận cái huy chương Anh Dũng
Bội Tinh với ngôi sao vàng cũng được, còn cấp bậc
Trung Tá thì thôi, xin nhường cho anh Khổng Đức Phiên để
xin Thủ Tướng và Trung Tướng chấp thuận cho anh ấy
được thăng lên cấp bậc Thiếu Tá.” Nghe xong lời nói
của anh Ya Ba, thật tình trong lòng tôi cảm thấy mắc cỡ
cho người Kinh mình quá! Tôi thấy Trung Tướng cũng có vẻ
ngượng ngùng và miễn cưỡng nói rằng: “Anh Ya Ba đã
nói thế thì thôi ... tôi cũng chấp thuận cho anh Khổng
Đức Phiên được thăng lên cấp Thiếu Tá, còn anh Ya Ba
thì vẫn được thăng lên cấp Trung Tá như tôi đã quyết
định từ đầu.” Tất cả bốn anh em chúng tôi đều
vui mừng ngỏ lời cảm ơn Thủ Tướng và Trung Tướng.
Trước khi chấm dứt buổi họp, Trung Tướng dặn chúng
tôi phải có mặt sáng ngày mai sau buổi chào cờ của Sư
Đoàn để được gắn cấp bậc và huy chương.
Tôi cũng không quên công
lớn lao của em Y Tin Hwing. Sau này khi Chính Phủ chấp
thuận cho các cấp chỉ huy FULRO về hợp tác được đi
học một khóa đồng hóa sĩ quan ở Trường Đồng Đế
Nha Trang, thì tôi cũng đã đề nghị cho em được đi dự
khóa ấy, mặc dù em không phải là một cấp chỉ huy của
FULRO. Ra trường em được phong cấp Trung Úy. Em được
Ông Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc Paul Nưr bổ nhiệm
làm Trưởng Ty Phát Triển Sắc Tộc Tỉnh Khánh Hòa. Sau
về làm Trưởng Ban Nghi Lễ của Bộ. Ngày 10, tháng 3,
năm 1975, Cộng Sản tấn công và chiếm thành phố
Banmêthuột, Đại Úy Y Tin Hwing đã chỉ huy một đơn vị
võ trang Thượng chiến đấu đến kỳ cùng ở miền Tây
Nam Banmêthuột. Cuối cùng Cộng Sản đã bắt vợ con Y
Tin đến mặt trận làm áp lực buộc Y Tin phải buông
súng đầu hàng, nếu không chúng sẽ giết vợ con Y Tin.
Vì sợ vợ con bị giết, Y Tin đã phải buông súng, và để
Cộng Sản bắt đi tù 12 năm. Khi có chương trình H.O. đi
Hoa Kỳ, Cộng Sản cũng không cứu xét hồ sơ cho Y Tin
Hwing và gia đình đi. Nhờ sự can thiệp của Chính Phủ
Mỹ, mãi năm 1999, Y Tin Hwing cùng vợ và những đứa con
chưa lập gia đình mới sang định cư được ở
Greensboro, North Carolina. Cựu Đại Úy Y Tin Hwing hiện là
Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Thượng tại Hoa Kỳ.
Sáng hôm sau chúng tôi
chờ cho Sư Đoàn chào cờ xong thì được Thiếu Tá Nguyễn
Phán Trưởng Phòng Nhất Sư Đoàn và vài nhân viên của
phòng đưa ra xếp hàng trong sân Sư Đoàn. Trung Tướng
Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II và Thiếu Tướng
Hoàng Xuân Lãm đến. Thiếu Tá Nguyễn Phán chỉ huy cuộc
gắn cấp bậc và huy chương. Một quân nhân bưng một
chiếc gối bằng sa tanh đỏ, xung quanh có những tua tua
vàng rủ xuống. Trên mặt gối có gắn những chiếc lon
cấp bậc và huy chương. Tôi là người được gắn đầu
tiên. Trước là đượcTrung Tướng Có gắn lon Thiếu Tá,
sau đến gắn huy chương. Bỗng nhiên tôi thấy Thiếu Tá
Phán nói: “Kính thưa Trung Tướng, Đại Úy Nghiêm chưa
có Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng, mà theo thủ tục
của Bộ Tổng Tham Mưu thì chỉ những ai đã có Anh Dũng
Bội Tinh với ngôi sao vàng mới được cấp Đệ Ngũ Đẳng
Bảo Quốc Huân Chương. Vì vậy, Phòng Nhất đề nghị
Trung Tướng gắn cho Đại Úy Nghiêm Anh Dũng Bội Tinh với
ngôi sao vàng thôi.” Trung Tướng khựng lại một chút
rồi quay sang Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm hỏi: “ Có thủ
tục như vậy à?” Thiếu Tướng Lãm trả lời: “Dạ,
đúng như vậy. Thiếu Tá Phán Trưởng Phòng Nhất đã
trình cho tôi rồi.” Trung Tướng Có quay sang tôi Ông an
ủi: “Thôi tôi gắn cho anh Nghiêm cái Anh Dũng Bội Tinh
với ngôi sao vàng cũng được.” Lần lượt các anh Ya
Ba, Khổng Đức Phiên, đều được thăng thưởng như đã
được Trung Tướng Có quyết định trong buổi họp chiều
hôm qua. Sau buổi gắn cấp bậc và huy chương này, tôi
mới linh cảm thấy dường như là tôi đã vô tình làm
mất lòng các bạn hữu của tôi trong Bộ Tham Mưu Sư Đoàn
từ trong buổi họp Tham Mưu sáng ngày 21/9. Tôi đã đề
nghị giải pháp thuyết phục các Trại LLĐB làm phản
loạn, trong khi Sư Đoàn đề nghị dùng biện pháp quân
sự. Thủ Tướng lại chấp thuận đề nghị của tôi và
còn giao cho tôi đặc trách giải quyết biến cố này,
trong khi nơi đây thuộc quyền hạn của Tỉnh Darlac và Sư
Đoàn 23 Bộ Binh.
Ngày hôm đó bốn chúng
tôi còn bận rộn chuẩn bị cho cuộc lễ chém trâu, cúng
Yang, và ăn mừng sự trở về của Trại LLĐB sẽ được
tổ chức vào chiều ngày mai tại nơi mà binh sĩ của Trại
LLĐB này đang nghỉ ngơi. Số tiền 50 ngàn đồng Trung
Tướng Có giao cho tôi đã trả cho nhà in, in mấy trăm
ngàn truyền đơn, mất một số rồi. Số còn lại chỉ
đủ mua một con trâu cỡ vừa và một số chóe rượu cần
để làm lễ. Không có tiền để giết trâu cúng Yang
theo phong tục của đồng bào Thượng cho 4 Trại khác đã
quy thuận lại Chính Phủ ngay từ ba ngày thuyết phục đầu
tiên! Trong buổi lễ này anh em Thượng đã cho tôi biết
Đại Tá Um Savuth Trưởng Phòng Nhì Quân Đội Kampuchia,
Trung Tá Les Kosem, và một vài đoàn viên cũ BaJaRaKa chủ
trương dùng bạo lực như Y Dhơn, đã phối hợp hoạch
định cuộc hành quân phản loạn này. Bộ chỉ huy hành
quân do Đại Tá Um Savuth và Les Kosem vượt biên giới sang
đóng ở đồn điền Dak Mil Quận Đức Lập để chỉ
huy. Khi cuộc hành quân không tiến hành được như dự
trù Les Kosem có đến Trại LLĐB Buôn Sar Pa mấy ngày, rồi
sau đó toàn Bộ Chỉ Huy rút sang biên giới Miên, và đã
về lại Phnom Penh rồi .
Đoạn Kết:
Họa Phúc Khôn Lường
! Trong Phúc đã sẵn có Họa, và trong Họa đã tiềm tàng
có Phúc !
Hôm nay là ngày lễ Giáng
Sinh, 25 – 12 – 1964, tôi được nghỉ, không phải đi
làm. Gia đình tôi có nhiều sự vui mừng. Tôi vừa giải
quyết xong biến cố Banmêthuột 20/9/1964, được thăng cấp
Thiếu Tá. Trong 3 ngày 15, 16, 17, tháng 10, 1964, tôi lại
vừa tổ chức thành công Đại Hội Đại Diện Đồng Bào
Thiểu Số tại Pleiku. Trong Đại Hội này tôi đã được
Thủ Tướng và Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn chỉ định
thuyết trình về “Vấn Đề Đồng Bào Thiểu Số Việt
Nam” trước cuộc họp của Hội Đồng Nội Các vào đêm
16/10/1964, tại Biệt Điện của Tổng Thống, một biệt
thự rất đẹp bằng gỗ trên những cột cao theo kiến
trúc nhà sàn của đồng bào Thượng. Buổi họp kéo dài
từ 8 giờ 30 tối đến mãi 1 giờ sáng ngày hôm sau. Kết
quả những đề nghị của tôi đều được Thủ Tướng
và Hội Đồng Nội Các chấp thuận. Đến 1 giờ sáng Thủ
Tướng nói: “Vấn đề đã được đồng ý cả như thế.
Thôi bây giờ tôi và các vị đây đi ăn cháo gà, còn
anh Nghiêm thì thảo ngay một Thông Điệp của tôi gửi
Quốc Dân Đồng Bào về việc ban hành một chính sách mới
theo như anh đã đề nghị. Anh thảo gấp, đánh máy trình
tôi duyệt ngay để sáng mai tôi đọc trước Đại Hội
Đại Diện Đồng Bào Thiểu Số.”
Sáng hôm sau tôi đứng ở
dưới tận cùng phòng họp Đại Hội ở Hội Quán Phượng
Hoàng Pleiku, sau lưng tất cả các đại diện đồng bào
thiểu số. Trong khi Thủ Tướng đọc Thông Điệp, nước
mắt tôi ràn rụa tuôn trào lăn xuống hai gò má theo từng
chữ đọc một của Thủ Tướng. Tôi phải cố gắng hết
sức mới kìm hãm được bản thân mình không bật lên
những tiếng khóc nức nở vì sung sướng. Giấc mơ sửa
chữa chính sách sai lầm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đối với đồng bào bằng một chính sách công bằng hơn
mà tôi ấp ủ, nghiên cứu, tìm tòi với sự giúp đỡ
tài liệu của Giáo Sư Nhân Chủng Học Nghiêm Thẩm, Giám
Đốc Viện Bảo Tàng Quốc Gia, cùng sự tham khảo nguyện
vọng của những anh em Thượng ở các bộ lạc từ 1956
đến nay 1964, sau 8 năm mới trở thành hiện thực. Giờ
phút ấy quả là những giờ phút sung sướng nhất, hạnh
phúc nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.
Chỉ có một trở ngại
nhỏ trong đêm thuyết trình trước Hội Đồng Nội Các.
Hội Đồng Nội Các gồm có: Thủ Tướng Trung Tướng
Nguyễn Khánh chủ tọa, hai vị Phó Thủ Tướng , mà một
trong hai vị tôi còn nhớ tên là Bác Sỹ Nguyễn Lưu Viên,
hai vị Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp và Bộ Văn Hóa Giáo
Dục, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có Tư Lệnh Quân Đoàn II,
Ông Tổng Giám Đốc Tổng Nha Điền Địa, và Trung Tá Ngô
Văn Hùng cựu Giám Đốc Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng
ở Huế, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nay là Phó
Giám Đốc Nha Đặc Trách Thượng Vụ thuộc Bộ Quốc
Phòng. Trong khi tôi thuyết trình, trả lời những câu hỏi
của các vị hiện diện, không hiểu sao những gì tôi nói
ra đều bị Trung Tá Ngô Văn Hùng dèm pha, bài bác. Tôi
còn nhớ Trung Tá đã trình trước Hội Đồng Nội Các là
tôi đã lựa chọn và cấp học bổng cho những em Thượng
ăn mặc lố lăng, tóc tai bờm sờm, quần áo Jean theo kiểu
cao bồi của Mỹ. Vì có chủ đích trình bày cho Hội
Đồng Nội Các hiểu rõ vấn đề và có những quyết
định tốt cho đồng bào thiểu số, nên tôi cứ tiếp
tục thuyết trình và trả lời những câu hỏi của mọi
người, tránh trả lời hay bào chữa trước những lời
nói của Trung Tá Hùng. Nhờ đó tôi đã không mất thì
giờ và tránh được sự va chạm với Trung Tá Hùng trong
buổi họp. Thật là hết sức may!
Ngoài những điều vui
mừng may mắn nói trên, gia đình tôi cũng mới có một sự
vui mừng lớn nữa. Trong thời gian tôi đi giải quyết
biến cố ở Banmêthuột thì nhà tôi đã đem 3 đứa con
của chúng tôi về Sài Gòn ở nhà Ba Má vợ tôi từ một
hai tháng trước để nhờ các cụ giúp trông nom trong lúc
sinh nở. Nhà tôi đã sinh được một cháu gái, là đứa
con thứ tư của chúng tôi, vào ngày 26, tháng 8, năm 1964.
Mãi đến gần Noel, khi đứa con vừa sinh đã được cứng
cáp, nhà tôi mới đem các con trở về Pleiku. Vì vậy,
sáng nay nghỉ lễ Noel, tôi lái xe Jeep đưa nhà tôi và bốn
đứa con đi du ngoạn ở Biển Hồ. Mẹ tôi ở nhà, trông
nhà. Đến trưa chúng tôi trở về. Vừa lái xe vào sân
nhà đã thấy mẹ tôi chạy ra nói có hai sĩ quan lại tìm
tôi và đang ngồi đợi ở phòng khách. Tôi vội bước
vào cửa thì hai sĩ quan kia đứng dậy. Họ cho biết đã
đợi tôi từ sáng. Họ là sĩ quan Sở An Ninh Quân Đội
Pleiku, được lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn
II đến “mời” tôi về sở An Ninh Quân Đội. Tôi sửng
sốt từ giã gia đình lên xe với họ ngay, trước sự sợ
hãi thất thần của mẹ và vợ tôi, và trước những đôi
mắt ngây thơ ngơ ngác của các con tôi vừa xuống xe còn
đứng cả ở giữa sân. Tôi bị tạm giữ ở Sở ANQĐ.
Hai ba ngày sau Trung Tá Ya Ba vào thăm tôi. Ông vẫn còn ở
Pleiku chờ giấy thuyên chuyển về làm Giám Đốc Nha Đặc
Trách Thượng Vụ, từ nay sẽ trực thuộc Phủ Thủ Tướng
theo quyết định của Thủ Tướng đã tuyên bố trước
Đại Hội hôm 17/10 vừa qua. Ông nói thật nhỏ vừa đủ
mình tôi nghe: “Tin anh bị An Ninh Quân Đội bắt làm anh
em thân hào nhân sĩ Thượng và nhất là các em học sinh
Trung Học Thượng Pleiku rất tức giận. Tối hôm qua họ
đã họp, và quyết định sẽ biểu tình yêu cầu thả
anh ra. Họ nhờ tôi vào thăm anh và hỏi ý kiến anh...”
Tôi giật mình sợ hãi cắt ngang lời anh Ya Ba: “Chết!
Chết! Các anh em đừng làm như vậy. Em chưa biết bị
bắt về tội gì, nhưng em tin là em không làm điều gì vi
phạm luật pháp cả. Chờ điều tra xong, chắc em sẽ
được thả ra. Nhờ anh về nói với anh em là em cám ơn
anh em đã quan tâm đến em. Nhưng xin anh em đừng làm thế.
Có thể quân đội, cảnh sát sẽ đàn áp biểu tình, bắt
bớ anh em, và có thể họ còn ghép cho em cái tội là đã
xúi giục anh em biểu tình nổi loạn nữa.” Anh Ya Ba ra
về, và may mắn cuộc biểu tình đã không xẩy ra. Thật
là hú vía, không thì chắc chết!!!
Tôi bị tạm giữ ở Sở
An Ninh Quân Đội khoảng hai tuần lễ, chẳng thấy hỏi
han, hay điều tra gì. Một hôm tôi được lệnh lên xe
theo một sĩ quan ANQĐ đưa ra phi trường và hộ tống tôi
đem về nộp cho Nha An Ninh Quân Đội. Đại Úy Nguyễn
Thiện là một Chánh Sở của Nha ANQĐ nhận và tạm giữ
tôi trong một gian phòng có đầy đủ tiện nghi. Gặp ai
thì lo chứ gặp Đại Úy Nguyễn Thiện thì tôi yên trí
lớn. Anh là bạn thân, đồng khóa I Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức từ 1951. Chúng tôi lại còn là anh em. Tôi lấy em
con nhà chú họ của anh. Còn anh thì lấy cháu gái con một
của người chị họ tôi. Tuy vậy trước mặt mọi người
tôi phải tỏ ra không quen biết gì anh để giữ cho sự
làm việc của anh được dễ dàng. Nhưng khi chỉ còn hai
chúng tôi thì lúc ấy anh mới cư xử thân tình với tôi
đúng như anh em trong nhà. Anh chỉ tiết lộ sơ sơ cho tôi
biết: “Có một đứa viết thư gửi cho Phủ Đặc Ủy
Trung Ương Tình Báo. Nó vu khống cho Nghiêm là : 1/ nghi là
Cộng Sản nằm vùng vì có nhiều liên hệ rất khả nghi
với người Thượng, 2/ nghi là đoàn viên trong tổ chức
FULRO vì FULRO đã nghe theo những lời thuyết phục của
Nghiêm không làm phản loạn nữa, 3/ Nghiêm đã nói xấu
Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II với các đại biểu
Thượng trong cuộc họp ở Đà Lạt do Nha Đặc Trách
Thượng Vụ tổ chức vào tháng 8/1964. Phủ Đặc Ủy
đã gửi thư này sang Bộ Tổng Tham Mưu. Nơi đây đã gửi
cho Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II, và Nha ANQĐ. Có lẽ
nhận được thư, thấy nói Nghiêm đã nói xấu ông nên
ông nổi sùng lên, gọi điện thoại cho Chánh Sở ANQĐ
Pleiku cho người đến bắt và nhốt Nghiêm ngay. Bây giờ
đã về đây thì yên trí. Dường như Trung Tướng Linh
Quang Viên, Giám Đốc Nha ANQĐ cũng biết Nghiêm. Ông giao
cho Thiện phải điều tra vụ này. Ông dặn nếu Nghiêm
không có gì thì thanh minh cho Nghiêm với Bộ Tổng Tham
Mưu.” Tôi tò mò muốn biết ai viết cái thư tố cáo ấy
thì anh Thiện từ chối không tiết lộ.
Ở Nha ANQĐ ít ngày thì
có Touneh Hàn Thọ, Phó Đốc Sự Hành Chánh, người cùng
tổ chức Quỹ Học Bổng cho Sinh Viên, Học Sinh Thượng
với tôi và Kỹ Sư Nguyễn Văn Mừng mà tôi đã giới
thiệu ở trên, vào thăm. Có lần Hàn Thọ đã đưa tôi
về Đơn Dương thăm ông Hàn Đăng là cha của em. Nghe Hàn
Thọ giới thiệu về tôi nồng nhiệt quá, ông đã nhận
tôi làm con nuôi. Gặp tôi, Hàn Thọ nói: “Nghe tin anh bị
bắt, Ba tức giận lắm. Ba nói thằng Nghiêm nó làm gì
mà bắt nó. Rồi Ba đòi Ba chống gậy đi Sài Gòn xuống
gặp Thủ Tướng Khánh đấy. Em phải cản mãi Ba mới
chịu ở nhà để em xuống thăm anh xem sự việc làm sao,
rồi về cho Ba biết.” Tôi rất cảm động, nhưng tôi
nói: “Anh bị người vu khống hãm hại thôi. Chờ điều
tra xong, anh sẽ được thả ra, em về thưa với Ba như vậy
hộ anh. Ba đã già, mắt không nhìn thấy gì, Ba không nên
xuống Sài Gòn.”
Vài ngày sau tôi đang ở
trong buồng tạm giam, anh Thiện báo cho tôi biết có Trung
Tá Ng. V. H. Phó Giám Đốc Nha Đặc Trách Thượng Vụ vào
thăm. Có lẽ anh tức giận nên buột miệng nói: “Chính
cái thằng gửi thư vu khống Nghiêm nó vào thăm đấy.”
Nhưng chợt nhớ ra mình lỡ lời nên anh dặn: “Gặp nó,
Nghiêm phải bình tĩnh đừng tỏ vẻ Nghiêm đã biết nó
là thủ phạm nhé.” Theo lời anh tôi cố giữ vẻ tự
nhiên. Hôm ấy tôi đã được xem người hãm hại tôi
đóng kịch trước mặt tôi thật khéo. Trung Tá H. tiến
vào phòng làm việc của Đại Úy Thiện. Đại Úy ngồi
trên ghế sau bàn giấy, chứng kiến sự gặp gỡ giữa
hai người, Trung Tá H. và tôi. Đại Úy không nói một lời
nào, chỉ đưa mắt quan sát thôi. Trung Tá H. và tôi ngồi
đối diện nhau trên hai cái ghế kê trước bàn giấy.
Suốt buổi thăm lúc nào anh H. cũng tỏ vẻ aí ngại,
thương cảm cho hoàn cảnh của tôi. Anh nói: “Được
tin Nghiêm gặp hoạn nạn, tôi vội xin phép vào thăm. Bây
giờ chị (ám chỉ vợ tôi) và các cháu thế nào? Có cần
tôi giúp gì không?” Tôi trả lời: “Không. Nhà tôi và
các cháu đã được Thông Vận Binh ở Pleiku giúp xe cộ
và binh sĩ dọn đồ đạc và di chuyển gia đình tôi về
nhà riêng của chúng tôi ở Banmêthuột rồi.” Anh hỏi
tiếp: “Vậy anh có cần tiền không tôi sẽ gửi tiền
lên giúp chị?” Tôi từ chối: “Không. Nhà tôi đã có
đủ tiền chi dùng rồi. Xin cảm ơn anh.” Khi đứng dậy
chào từ giã, anh đưa tôi một gói bọc bằng giấy nhật
trình (giấy báo) và nói: “Tôi chẳng có quà gì, có ký
pomme (táo tây) đây để tặng anh, mong anh nhận lấy.”
Tôi đứng dậy nhận gói táo tây, mà cổ họng nghẹn
cứng như đang nuốt không vào trái cấm của ông Adam!
Chiều 29 Tết ta, anh
Thiện đem giấy tha cho về có chữ ký của Giám Đốc Nha
ANQĐ, Trung Tướng Linh Quang Viên, và cho xe Jeep đưa tôi về
nhà của Ba Má vợ tôi. Tết năm ấy tôi ăn một cái Tết
xa gia đình! Sau Tết tôi vào Phòng Tổng Quản Trị, Bộ
Tổng Tham Mưu, nhận giấy thuyên chuyển về Quân Đoàn 4
ở Cần Thơ. Ở Quân Đoàn này tôi có một người bạn
cùng Khóa I Nam Định, Thủ Đức là Trung Tướng Nguyễn
Bảo Trị. Anh Trị học ở Nam Định, khi ra trường được
đổi về chỉ huy một Đại Đội ở Điền Hộ, Chi Khu
Phát Diệm. Tôi học Công Binh ở Thủ Đức, khi ra trường
được thuyên chuyển về một Đại Đội Công Binh ở
Thái Bình. Một vài tháng sau, tôi được lệnh đem một
Trung Đội Công Binh xuống nghiên cứu mở công trường
lấy đá ở núi Nhân Sơn, tục truyền trên núi có mộ An
Tiêm, để xây cho Đại Đội của Thiếu Úy Nguyễn Bảo
Trị một cái đồn, gọi là đồn Điền Hộ. Chúng tôi
gặp nhau và quen thân nhau từ dạo ấy. Tôi đã nghiên
cứu rất kỹ địa hình, và đã lợi dụng tất cả những
hồ ao, bãi lầy, đồng cỏ, vẽ kế hoạch xây một cái
đồn thật kiên cố với 4, 5 lô cốt bằng đá tảng, có
những lỗ châu mai mà hỏa lực của những súng máy đặt
ở đây có thể bao che hết xung quanh đồn không chừa một
khoảng trống nào ngoài tầm của hỏa lực. Công tác
hoàn tất tôi trở về Đại Đội ở Thái Bình. Vài
tháng sau tôi nhận được một cái thơ anh viết thật
dài, đến 4, 5 trang giấy. Đọc thơ tôi mới biết đồn
Điền Hộ bị Việt Cộng đến tấn công vào một đêm
không trăng sao. Nhưng nhờ tài cầm quân của anh Trị,
nhờ các công sự, lô cốt kiên cố của đồn, và nhất
là nhờ khẩu pháo đặt trên đỉnh núi Nhân Sơn yểm trợ
nên bên Việt Cộng đã bị thiệt hại nặng. Chúng đã
không vào được đồn, phải rút lui, để lại xung quanh
đồn la liệt xác VC và súng đạn. Đây là một chiến
thắng rất lớn, nổi tiếng ngoài Bắc Việt. Anh được
các Tướng Tá Pháp xuống khen thưởng, được đặc cách
thăng Trung Úy ngoài mặt trận, và được gắn một Anh
Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng. Có lẽ anh là người
đầu tiên trong Khóa I của chúng tôi được cái vinh dự
thắng trận và được vinh thăng lên Trung Úy sớm nhất.
Anh vui mừng viết thư tả tỉ mỉ chiến thắng của anh
và hứa hẹn muốn gặp tôi để khao thưởng tôi về cái
công đã xây một cái đồn lợi hại như vậy. Nhưng ở
ngoài Bắc chúng tôi chưa hề được gặp nhau. Mãi đến
năm 1959, 1960, tôi lên thăm và giúp vui, khen thưởng chiến
thắng Đak Rôtah Bắc Kontum của Sư Đoàn 22 Bộ Binh đóng
ở Kontum tôi mới lại gặp anh. Lúc ấy anh đã là Trung
Tá, rồi lên Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 22, còn tôi chỉ
mới là Đại Úy Phó Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị
Quân Đoàn II. Gặp lại nhau sau 8, 9 năm xa cách, và dù
cấp bậc hai người đã rất cách biệt nhau, nhưng anh vẫn
giữ tình xưa đối xử với tôi thân thiết như những
ngày ở Điền Hộ. Bây giờ tôi gặp hoạn nạn, đổi
về Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, thì anh đã là một vị
Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đóng ở Mỹ Tho. Anh
cũng biết rõ công việc giúp đỡ đồng bào Thượng mà
tôi đang làm vì đã chỉ huy trên Cao Nguyên anh có nhiều
kiến thức về vùng này, và nhất là anh cũng thương yêu
đồng bào Thượng. Trình diện xong ở Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn tôi điện thoại hỏi thăm anh. Sau khi biết rõ hoàn
cảnh của tôi, anh nói ở bên kia đầu giây: “ Thôi
Nghiêm về Sư Đoàn 7 với Trị đi. Trung Tướng Quang Tư
Lệnh Quân Đoàn đi vắng, để Trị nói với Tướng Minh
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn cho Nghiêm về đây làm việc với
Trị.” Thế là sau đó tôi đươc bổ nhiệm về Sư Đoàn
7 ở Mỹ Tho. Thiếu Tưóng Nguyễn Bảo Trị cử tôi làm
Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Đoàn. Thời gian ở
với Tướng Nguyễn Bảo Trị ở Sư Đoàn 7 Bộ Binh là
thời gian êm ả nhất trong cuộc đời nhà binh của tôi.
Tôi đã xa lánh được công tác Thượng Vận đầy khó
khăn, đau đầu, cấp trên coi thường, không để ý đến,
và bản thân còn gặp những thăng trầm đầy đọa nữa.
Có lẽ đây cũng là một trong những nhiệm vụ bạc bẽo
nhất trong Quân Lực VNCH !
Nhưng có một hôm Trung
Tướng Linh Quang Viên, bây giờ đã là Tổng Trưởng Bộ
Thông Tin, đến thăm Tỉnh Mỹ Tho, và Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn và Trung Tá Phúc Tỉnh
Trưởng đã tiếp đón Trung Tướng Viên ở nhà khách của
Tòa Tỉnh. Tôi cũng có mặt trong buổi tiếp tân khoản
đãi này. Tôi rất mong có dịp được gặp riêng để
ngỏ lời cảm ơn Trung Tướng lúc ông còn là Giám Đốc
Nha ANQĐ, đã giao việc điều tra tôi cho Đại Úy Nguyễn
Thiện để giúp đỡ minh oan cho tôi. Nhưng tôi chờ mãi
chẳng có dịp nào. Trong lúc mọi người đang nói chuyện,
tôi ra đứng dựa cửa nhìn ra vườn hoa rộng mênh mông
của Nhà Khách Tòa Tỉnh với tâm sự của riêng mình.
Bỗng tôi thấy Trung Tướng Linh Quang Viên cũng ra cửa
đứng cạnh tôi như cũng muốn ngắm nhìn vườn hoa. Tôi
chào Trung Tướng. Nhưng thấy ông nói rất khẽ chỉ
riêng mình tôi nghe được. Ông nói: “Chào Nghiêm, anh
khỏe không? Bây giờ ở đây với ông Trị à? Những
lãnh tụ Thượng miền Bắc như tôi, Đại Tá Hoàng Văn
Tỷ, và nhiều người khác nữa đều theo dõi những công
việc anh làm cho Đồng Bào Thiểu Số. Thỉnh thoảng gặp
nhau, chúng tôi vẫn nói với nhau về những việc làm của
anh. Anh mới bị tiểu nhân hãm hại. May mà tôi đã cho
điều tra và thấy không có gì, chỉ là cố tình vu khống
hãm hại thôi. Tôi đã cho bạch hóa hồ sơ của anh rồi,
bây giờ hãy yên tâm. Cần nhất là anh đừng nản lòng.
Hãy tiếp tục công việc mà anh đang theo đuổi. Đồng
bào thiểu số vẫn kỳ vọng vào anh đấy.” Tôi chỉ
vừa kịp nói: “Cám ơn Trung Tướng,” ông đã quay lưng
đi vào nói to với Thiếu Tướng Trị và Trung Tá Tỉnh
Trưởng : “Vườn hoa ở đây rộng và đẹp quá !”
Thêm Chi Tiết
Về Biến Cố Banmêthuột
(Qua lá thư ngày 25,
tháng 7, năm 2002, của anh Dương Thượng Từ, cựu Sĩ Quan
Quân Cụ, cựu Chỉ Huy Trưởng Trại Mai Hắc Đế, Kho Đạn
Banmêthuột, vào thời gian có Biến Cố Banmêthuột 20 –
9 – 1964)
Bài
Biến Cố Banmêthuột 20 – 9 – 1964 trên đây của tôi đã
được Nguyệt San Khởi Hành số 67, tháng 7, 2002, Tuần
San Việt Tide số 51, July 5 – July 11, 2002, và một số
Nhật báo ở Quận Cam đăng tải. Một vài tuần sau bất
ngờ tôi nhận được một bì thư của một người bạn
là cựu Đại Tá Nguyễn Trọng Liệu. Anh Liệu viết cho
tôi có mấy hàng chữ như sau:
“Thân
gửi Anh Nghiêm,
Anh Dương Thượng Từ
là sĩ quan Quân Cụ, biết tôi quen Anh nên gửi tôi bài
này để Anh bổ túc vào bài viết của Anh về vụ Fulro.
Anh Từ coi Kho Đạn ở
Banmêthuột. Địa chỉ của Anh Dương Thượng Từ
19140 Stevens Creek
Blvd, # C 104
Cupertino, CA 95014
ĐT (408) 973 – 8162
Tôi đã đọc lá thư
ngày 25, tháng 7, năm 2002, của anh Dương Thượng Từ gửi
cho anh Nguyễn Trọng Liệu. Tôi rất vui mừng vì lá thư
này đã cho tôi biết thêm nhiều chi tiết về Biến Cố
Banmêthuột đã xảy ra trước khi tôi từ Pleiku bay xuống
Banmêthuột vào sáng ngày 21, tháng 9, năm 1964, và đã được
Thủ Tướng giao cho nhiệm vụ đi thuyết phục 5 Trại
LLĐB Thượng nổi loạn. Đây là một tài liệu rất qúy
góp thêm một số sử liệu về Biến Cố này. Tôi xin
đánh máy lại nguyên văn lá thư của anh Dương Thượng
Từ để những ai muốn tìm hiểu về Biến Cố Banmêthuột
20, tháng 9, năm 1964, có thêm tài liệu để tham khảo.
Thành thật cảm ơn anh Dương Thượng Từ và anh Nguyễn
Trọng Liệu đã cung cấp cho tôi thêm những chi tiết xác
thực và qúy báu này.
7 – 25 – 02
Thân gửi bạn Liệu
Vì tò mò thấy anh
Nghiêm viết về biến cố ngày 20. 9. 64 tại Ban Mê Thuột
nên
mình cố tìm đọc cho
đủ bài viết này. Sau khi đọc xong mình thấy những
điều xảy ra mà
các Ông Đính v...và
anh Nghiêm giải quyết có thể nói là giai đoạn II của
việc này.
Tôi phải nói rõ để
bạn biết thời điểm đó tôi là Chỉ Huy Trưởng trại
Mai Hắc Đế (gọi nôm na là Kho Đạn BMT.) Trước ngày
20 – 9 – 64 vài ngày có 1 phái đoàn của Bộ Trưởng Hồ
Văn Trâm tới BMT. Trong phái đoàn đó tôi có 1 người
bạn. Ông Hồ Văn Trâm ở tòa tỉnh với ông Tỉnh Trưởng
lúc đó là Trung Tá Giá (chứ không phải là Lê V Thành
như trong tài liệu của anh Nghiêm) Anh bạn tôi vào chơi
trại tôi và ăn cơm với tôi và anh nói với tôi là tụi
Thượng nó sắp nổi loạn và có thể là vào chủ nhật
20 . 9 . 64. Ngày đó là rằm tháng Tám năm Giáp Thìn. Tôi
đã sửa soạn đèn và bánh để phát cho trẻ con ở trại
gia binh. Do đó ngày 20 tôi ra lệnh cấm trại. Phải nói
thêm để anh biết là dọc theo trại tôi khoảng 2 Km có
một hệ thống pháo đài kiên cố béton armé và đi hết
đoạn đường đó tới barrière của tôi và qua đấy là
quãng đường khoảng 2 Km dẫn vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
23. Dọc đường là các đơn vị tiếp vận của Sư Đoàn.
Từ sáng sớm tôi cho binh sỹ bố trí dọc theo các pháo
đài đó, súng đại bác chĩa ra ngoài để phô trương
đồng thời tôi cũng cho ráp Đại Liên lên 3 xe Jeep với
lính tráng trang bị có vẻ dữ dằn. Ngay chỗ barrière
tôi cho 1 xe Đại Liên trấn giữ còn hai xe kia tôi cho bố
hai bên hông. Quả nhiên khoảng 8 – 9 giờ sáng một đoàn
xe mà mình gọi là low boy của Mỹ chạy từ hướng thác
Draylinh vào phòng tuyến của tôi. Khi tụi nó tới
barrière của tôi thì ngừng lại. Trưởng trạm gác điện
thoại liền cho tôi. Tôi ra lệnh là bắt các xe đó ngừng
lại tại bãi xe và không một tên nào được xuống xe
(lúc đó tụi nó đều đứng ở trên xe vì xe không có
mui) nếu xuống là Đại Liên tôi nổ liền. Và chúng nó
tuân lệnh bất động.
Tôi liền điện thoại
vào Sư Đoàn báo cáo tình hình. Sư Đoàn không có biết
gì cả, lúc
đó mới đánh kẻng báo động tùm lum.
Phòng Hành Quân Sư Đoàn nói tôi chờ 1 chút chắc là để
hỏi thượng cấp. Tôi cũng chờ để biết conduite à
suivre của mình như thế nào theo lệnh của Sư Đoàn vì
mình cấp nhỏ đâu có dám quyết định. Vì nếu tôi cho
nổ súng thì tụi nó tiêu hết. Vài phút sau Sư Đoàn cho
tôi biết là đuổi tụi nó quay trở lại. Tôi thi hành
lệnh và đoàn xe nó cũng trở đầu lại, chạy khỏi dãy
pháo đài của tôi và đi về hướng thác Draylinh. Sau khi
tụi nó đi độ 15 phút thì Tỉnh Trưởng và Cố Vấn vào
kho và hỏi tôi đám Thượng đâu rồi. Tôi trả lời là
Sư Đoàn bảo tôi đuổi chúng nó trở lại thì tôi đuổi
rồi, chẳng phải nổ phát súng nào cả.
Phải nói để bạn rõ
là khi tụi nó vào tuyến của tôi là cánh quân khác của
nó đã
chiếm cầu 14 và Đài Phát Thanh rồi.
Nó án binh bất động ở đó để chờ cánh quân ở
Draylinh về. Mà nếu cánh quân này qua được phòng tuyến
của tôi thì chắc chắn các đơn vị hậu cần của Sư
Đoàn + Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đã tan nát rồi, và khi đó
đám quân ở Đài Phát Thanh sẽ chạy vào Thành Phố BMT
thì hậu quả sẽ khó lường.
Phải
nói là chính tôi đã cứu Sư Đoàn và Thành Phố BMT.
Mà không phải nổ một phát súng nào.
Còn phái đoàn của Ô
Đính và anh Nghiêm là giải quyết giai đoạn II của biến
cố này: điều đình với Thượng.
Sau khi đuổi tụi
Thượng đi tôi xả trại và xuống trại gia binh phát quà
rầm tháng Tám.
Vì mọi chuyện xảy
ra êm ru nên chẳng ai biết tới mình cả, lon lá cũng
chẳng được, một lời khen cũng không.
Tôi chơi với Đại Úy
Thạnh trưởng phòng Tổng Quản Trị Sư Đoàn. Tôi bảo
hắn là trình Tư Lệnh việc làm của tôi nhưng Tư Lệnh
vẫn im lìm. Cho đến khi Tư Lệnh thuyên chuyển mới ký
cho tôi một giấy khen, có vậy thôi.
Đại khái câu chuyện
là như vậy, kể bạn nghe chơi vì Tài
liệu lịch sử cần phải Trung Thực.
Dương Thượng Tứ