Jason G Goldman
Có lẽ ta đều biết rửa tay là một trong những cách tốt nhất để tránh lây lan vi khuẩn.
Ở nhiều nơi, luật về sức khoẻ cộng đồng được áp dụng để đảm bảo những người làm việc trong ngành công nghiệp thực phẩm phải giữ gìn tay luôn sạch sẽ.
Tuy nhiên, bất kể có chà xát cọ rửa kỹ đến đâu thì ta vẫn không thể loại bỏ vi khuẩn hoàn toàn khỏi bàn tay.
Lý do không thể khử trùng hoàn toàn dẫn đến việc bác sĩ và y tá thường đeo găng tay khi tương tác với bệnh nhân.
Gần 100 trăm trước, các bác sĩ làm thí nghiệm và nhận ra là vi khuẩn sẽ luôn xuất hiện kể cả sau khi đã rửa tay nhiều lần.
Thế nhưng mãi đến thập niên 1970, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu xác định được nguyên do khiến các vi khuẩn trú ngụ trên bàn tay lại cứng đầu đến vậy.
Hoá ra nếu bọc kín các đầu ngón tay thì bàn tay có thể sạch sẽ lâu hơn. Tuy nhiên, nơi có đầy vi khuẩn lại không phải là các ngón tay, mà chính là ở móng tay.
Lớp sừng mỏng manh, có cùng thành phần cấu tạo như sừng tê giác hay sừng hươu, là nơi chứa hàng loạt các loại vi khuẩn.
Mãi đến cuối thập niên 1980, các nhà khoa học mới bắt đầu tìm hiểu chỗ dưới móng tay chúng ta để tìm xem những kẻ đang trú ngụ ở đó là ai.
Trong một nghiên cứu năm 1988, ba nhà nghiên cứu từ Khoa Da liễu Đại học Pennsylvania đã lấy mẫu vi khuẩn từ bàn tay của 26 tình nguyện viên tham gia thí nghiệm, tất cả đều là nhân viên khoa Y của trường nhưng không tiếp xúc với bệnh nhân.
Họ nhận ra bên dưới móng tay, còn được gọi là vùng dưới móng, là một “khu vực quan trọng” cho vi khuẩn cư ngụ.
Các phần khác của tay người tham gia thí nghiệm có hàng trăm hoặc hàng ngàn các loại vi khuẩn, trong khi vùng dưới móng lại chứa đến hàng trăm ngàn loại vi khuẩn dưới mỗi móng tay.
Móng tay có các loại vi khuẩn giống với các phần khác trên cả bàn tay, chỉ khác một điểm là số lượng rất nhiều.
Các nhà nghiên cứu đưa ra lý do có thể vì khoảng không gian giữa da và móng tay tạo thành môi trường hoàn hảo cho các loại sinh vật đó tăng trưởng và sinh sôi nảy nở, nhờ được móng tay bảo vệ và nhờ sự ẩm ướt tại khu vực này.
Phát hiện ban đầu cho thấy việc kiên trì cọ rửa tay cũng không làm sạch hoàn toàn, và theo kết quả nghiên cứu thì “có số lượng đáng kể các vi khuẩn trong khu vực dưới móng, cho thấy khu vực này là nơi các chất tẩy rửa diệt khuẩn có thể không xâm nhập được nếu chỉ áp dụng quy trình rửa tay thông thường,” họ viết.
Vấn đề ở đây là những phương tiện tốt nhất, đơn giản nhất mà chúng ta có thể áp dụng nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan bệnh tật, tức là việc rửa tay, lại hoàn toàn vô tác dụng đối với khoảng không bên dưới móng tay.
Sơn móng tay có làm dính thêm vi khuẩn?
Một lĩnh vực nghiên cứu hẹp nhưng phát triển mạnh đang tiếp tục thăm dò tính chất tự nhiên của những dạng vi sinh sống dưới móng tay các y tá, gồm cả móng tự nhiên lẫn móng nhân tạo, và móng có dùng sơn.
Năm 1989, chỉ một năm sau nghiên cứu của Đại học Pennsylvania, một nhóm y tá viết, “mặc dù còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp về sự an toàn và tính thực tế của móng tay nhân tạo, nhiều nhân viên y tế không thể cưỡng lại xu hướng thời trang và giờ cũng làm móng và sử dụng móng giả.”
Các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu xem ở nhóm 56 y tá có làm móng nhân tạo, thường dài hơn móng tay tự nhiên và thường luôn có sơn móng tay, thì liệu có nhiều vi khuẩn trên ngón tay hơn so với nhóm 56 y tá để móng tay tự nhiên hay không.
Họ cũng muốn xem xét liệu việc rửa tay có tác dụng tích cực hơn với móng tay nhân tạo hay không.
Họ phát hiện ra rằng các y tá làm móng nhân tạo có nhiều vi khuẩn hơn trên đầu ngón tay so với những người để móng tự nhiên, cả trước và sau khi rửa tay.
Điều này không có nghĩa là họ truyền nhiều vi khuẩn hơn sang bệnh nhân, chắc chắn vậy, mà chỉ là vi khuẩn sống trên đầu ngón tay họ rất nhiều.
Tuy nhiên, người ta áp dụng phép phỏng đoán để cho nói rằng nếu có nhiều vi khuẩn hơn thì ít nhất nó cũng tăng nguy cơ lây lan bệnh truyền nhiễm hơn.
Các nghiên cứu tương tự vào năm 2000 và 2002 cho ra kết quả tương tự.
Nhưng sau đó, các nhà nghiên cứu có bằng chứng cho thấy những người có móng tay nhân tạo luôn ít rửa tay hơn, và do đó vấn đề lại trở nên phức tạp thêm. Họ cũng nhận ra là móng tay nhân tạo dễ làm rách găng tay y tế hơn.
Móng tự nhiên có sử dụng sơn móng tay lại là một trường hợp khác.
Người ta lo rằng lớp sơn móng tay khi nứt vỡ có thể tạo thành nơi trú ngụ cho vi khuẩn.
Vào năm 1993, các y tá từ Bệnh viện John Hopkins ở Baltimore xem xét móng tay của 26 phụ nữ trưởng thành đang làm việc tại bệnh viện nhưng không tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Tất cả đều để móng tay cắt ngắn, được theo dõi ngay trước khi sơn móng và sau khi sơn móng bốn ngày.
Sơn móng tay trên móng tự nhiên có vẻ như không tác động đến sự gia tăng vi khuẩn trên hệ sinh thái vi sinh theo cách mà lớp sơn này tác động trên các móng nhân tạo.
Tuy nhiên, “để móng tay ngắn và sạch có lẽ quan trọng hơn là có sơn móng tay hay không,” các nhà nghiên cứu kết luận.
Một nghiên cứu tiến hành trong năm tiếp theo đem lại kết quả tương tự. Các móng tay có phủ lớp sơn móng khi vừa sơn thì hoàn toàn an toàn, nhưng sau bốn ngày sẽ có nhiều vi khuẩn hơn so với việc không sơn móng.
Khoảng hai đến ba triệu người chết vì bệnh tiêu chảy mỗi năm. Người ta tin rằng việc rửa tay bằng xà phòng có thể cứu sống được khoảng một triệu người trong số đó. Có lẽ thế thật.
Nhưng bên cạnh việc rửa tay thì việc tốt nhất rõ ràng là việc chú ý đặc biệt đến vùng dưới móng tay khi rửa tay, và để ngón tay ít vi khuẩn nhất, bạn hãy cắt móng tay ngắn và giữ móng sạch sẽ.
Liệu những thông tin trên có khiến bạn ngập ngừng trước khi định cắn móng tay không?
Bản tiếng Anh bài này đã đăng trên BBC Future.